Tử Vi vấn đáp !

Khoai

Lão làng
Từ trước nhiều bạn đề nghị Khoai thành lập một box dạy Tử Vi. Nhưng vì kiến thức còn mỏng, thời gian cũng thất thường lúc bận lúc rảnh nên không thể hoàn thành lời hứa.

Vậy nên mình lập topic này, lấy tiêu đề " Tử Vi vấn đáp". Mọi người ai có thắc mắc gì trong quá trình nghiên cứu thì có thể viết câu hỏi ở đây. Tất nhiên, mình sẽ không thể trả lời toàn bộ hoặc chính xác tất cả những câu hỏi nêu ra, mà chỉ dám đưa ra ý kiến và kinh nghiệm cá nhân. Từ đó, rất mong mọi người có thể thu lượm được những điều hữu ích.

Nếu ai từng nghiên cứu những môn huyền học, sẽ biết rằng nhiều khi chỉ một vấn đề giản đơn nhưng suy nghĩ mãi chẳng thông suốt. Khi viết ra, khi hỏi, có thể không nhận lại toàn bộ giải đáp chính xác, nhưng cũng như một lời gợi ý, từ đó nhanh chóng thấu đáo vấn đề hơn.

Kính mong các "cao thủ" trong diễn đàn cũng tham gia chia sẻ, mỗi người một ý, giúp đỡ lẫn nhau.

Rất mong rằng, topic là nơi trao đổi thẳng thắn, hòa ái.

Bắt đầu là câu hỏi của anh Tonhanhgia trong topic " Thắc mắc...." có nội dung :

- Giải thích ý nghĩa câu phú : " Mệnh vô chính diệu đắc tam không, phú quý khả kỳ"
 

Khoai

Lão làng
Về câu phú " Mệnh vô chính diệu đắc tam không, phú quý khả kỳ", hiện nay có nhiều ý kiến bàn luận khác nhau. Có người nói phải phân ra, "đắc tam không" khác với "ngộ tam không" hay "kiến tam không". Lại có ý kiến cho rằng, câu phú này phải người mệnh Hỏa mới được "ăn", theo lý " hỏa phùng không tắc phát".

Thực hư thế nào, Khoai không rõ lắm. Bởi xưa nay Khoai không chú trọng nghiên cứu về phú và cách cục, chỉ chú trọng đến lý tính riêng lẻ từng sao, nguyên lý bản chất của nó. Khi áp dụng luận đoán thì thiên biến vạn hóa, nhưng không rời xa cái gốc là bản tính sâu xa của từng sao.

Dựa vào nguyên lý đó, Khoai xin phép chia sẻ ý kiến cá nhân. Tất nhiên, Khoai không tranh luận hay bàn cãi theo cách "ai đúng, ai sai".

Câu phú trên, điều kiện cần là "Mệnh VCD", điều kiện đủ là "đắc tam không" và hệ quả là " Phú quý khả kỳ".

1. Điều kiện cần : Mệnh Vô chính diệu.

Chúng ta thường nói, người Mệnh VCD tính cách rộng rãi, không chấp nhặt, hay quên, thiếu nghị lực v.v... và v.v...

Điều đó về cơ bản là đúng, nhưng nếu chỉ tuân theo như vậy thì e rằng trong luận đoán sẽ sai lệch.

Chúng ta cần biết một nguyên lý trong Tử Vi, đó là nguyên lý Chủ - Khách. Nguyên lý này, nếu để đơn giản hóa, có thể so sánh với việc sử dụng ngôn ngữ. Chủ ngữ là chủ, vị ngữ là khách.

Trong Tử Vi, phân theo tính chất tinh đẩu thì những sao có tính chất mạnh, như 14 chính tính, tuần triệt, lục sát v.v... thường đóng vai trò là chủ. Những sao mang tính "bàng tinh", trợ giúp , như xương khúc, khôi việt, thai tọa, quang quý , tả hữu v.v... được gọi là khách.

Phân theo bố cục, thì nếu lấy mệnh làm chủ, thì Di , quan, tài là khách.

Việc phân ra chủ khách có ý nghĩa cốt yếu trong luận đoán, không thể coi thường. Nó chỉ là "cái gì của ta, thuộc về ta" và " cái gì ngoài ta, không thuộc về ta nhưng ta bị ảnh hưởng".

Ta lấy ví dụ, một người hiền lành. Thì hiền lành là tính chất thuộc về anh ta. Anh ta sống trong một khu ổ chuột, xã hội đen. Thì "xã hội đen" không phải tính chất của anh ta. Nhưng nó ảnh hưởng đến anh ta và quyết định trong việc tương lai anh ta ra sao.

Xem một lá số, phân đúng chủ khách, giúp ta hiểu cái gì thuộc về mình, cái gì thuộc về ngoại cảnh. Nó rất ích lợi trong việc cải số, sửa số.

Chẳng hạn 1 mệnh khá đẹp Cự Nhật Văn Khúc, sinh năm Tân. Hội đủ Khoa Quyền Lộc . Nhưng Quan lộc, Tài bạch và Thiên Di rất xấu. Cuộc đời anh này gặp nhiều gian truân. Thì cái anh ta cần chú ý tới, là thay đổi môi trường sống hiện tại của mình ( công việc, tình yêu, bạn bè v.v....) chứ không phải tìm cách thay đổi chính tính cách mình ( thói quen, hành động, tư duy).

Quay về khái niệm Mệnh VCD, thì đó là mệnh không có chính tinh ( hiểu rộng hơn là không có các tinh đẩu có tính chất mạnh) làm chủ. Vì thế, tính cách nguyên bản của anh ta sẽ là " Hào phóng, rộng rãi , hay quên, thiếu sức tập trung v.v...". Nhưng đó chỉ là tính cách nguyên bản, tính cách đó cần suy xét thêm được đặt trong môi trường nào. Thì môi trường, chính là cung Thiên Di.

VD: Mệnh VCD tại Hợi, Di có Liêm Tham Đà Kị. Thì khi sinh ra, anh ta mang tính chất "hào phóng, rộng rãi" của mệnh vô chính diệu. Nhưng khi lớn lên, được cuộc đời dạy dỗ, anh ta có thể biến thành " Khó tính, hay xét nét" của Liêm Đà Kị, hoặc " tham vọng, thủ đoạn, ngấm ngầm " của Tham Đà Kị.

Nói tóm lại, chúng ta cần lưu ý nguyên lý "Chủ - Khách" trong khi luận đoán mệnh VCD.

2. Điều kiện cần : Đắc tam không.

Khoai thực sự chưa hiểu Tam không ở đây là những sao nào .

Nhưng tựu chung trong Tử Vi có 4 sao Không chính : Thiên Không, Địa Không, Tuần Không và Triệt Không.

Tính chất của chúng, tuy cùng mang chữ Không nhưng lại khác nhau. Nhưng phân thành 2 loại

1 loại "bản tính là Không", tức là sinh ra đã thế, có sẵn trong người. Ví dụ người Mệnh triệt không thường lơ đãng, tuổi trẻ ham chơi và tham vọng không rõ ràng. Đó cũng là một tính "Không" trong tính cách. Nhưng đó là bản tính. Loại này gồm có Thiên Không và Triệt Không.

1 loại khác, là do cuộc đời mang lại, thất bại hay thành công mang lại, nó mang tính kinh nghiệm và trải nghiệm cá nhân.

Vậy nên, nếu Thiên không , trong lá số nào đó, mang tính chất là "Không thành thật", "Không thật lòng" và khéo xảo. Thì nó là bản tính, rất khó thay đổi, thường bộc lộ từ nhỏ và chính đương số cũng không nhận ra.

Chúng ta nên hiểu rõ, "Không" có thể là khả năng tu đạo, khả năng "buông bỏ về không", là "không ham muốn dục vọng". Nhưng nó cũng có thể mang nghĩa phủ nhận " Không thật lòng" ( thiên không), "không biết lắng nghe " ( Địa Không - bảo thủ) hoặc " không chuyên chú tập trung " ( Triệt không)

3. Kết luận

Trong quá trình thực tế tìm hiểu, câu phú này dường như không có giá trị luận đoán nhiều. Thực tế, nó mang ý nghĩa nhắc nhở những diễn hóa của những sao "không" mang lại.

Tôi đã gặp 1 lá số Mệnh VCD, đắc tam không, mệnh hỏa đúng tiêu chuẩn, nhưng không hề giàu có ( thậm chí nghèo khó ) nhưng lại là một cao thủ bói Dịch nổi tiếng ( Nhiều người biết vị này).

Thật sự rất khó nói hết những diễn hóa phức tạp của Không tinh. Nhiều lá số chỉ cần 1 tuần đã khác, 1 thiên không đã khác. Nhưng chỉ cần bám chắc vào lý luận chủ khách và tính chất của những không tinh đó sẽ có thể luận đoán được.


Thôi thì để hiểu rõ hơn, tôi kể một câu chuyện

có 2 anh bạn từ nhỏ chơi thân với nhau, một anh tên là Triệt không, 1 anh tên là Địa Không. Anh triệt không tính tình ham chơi, không nhiều tham vọng, sống theo sở thích tùy hướng. Anh địa không tính tình có phần bảo thủ cố chấp, nhưng nghị lực tham vọng, luôn cầu tiến đi lên.

Anh thiên không bởi tính cách như vậy nên tuổi trẻ "Không" thuận lợi, "không" đỗ đạt cao, làm việc gì cũng thường trắc trở. Nhưng bởi tính cách vui vẻ, không quá kì vọng vào điều gì, nên anh ta sống khá vui vẻ. Anh ta thường nói " mọi sự là Không".

Ngược lại anh Địa không bởi tham vọng, lại có chí tiến thủ nên thành công hơn người, nhưng cuộc sống nhiều lo toan mệt mỏi. Cuối đời, anh Địa Không phá sản, mọi thứ về không, mới giật mình ngộ ra " Mọi sự là Không" cả

Tuy hai anh bạn cùng một kết quả, cùng nhận ra 1 điều " Mọi sự là Không", nhưng con đường cũng khác nhau rất nhiều.
 

Khoai

Lão làng
Hic, mình sợ nhất là lý giải các câu phú. Thôi thì biết đến đâu nói đến đấy nhá, sai không chịu trách nhiệm. Hì.

Nói trước , Khoai không phải đang "lập ngôn" hay "luận thuyết", chỉ là chia sẻ ý hiểu của cá nhân.

Về câu phú " Cơ nguyệt đồng lương" tác lại nhân, giải thích khá dài dòng, nếu muốn đi vào bản chất thì phiền mọi người chịu khó đọc vậy.

1. Động - Tĩnh, Văn - Võ ...

14 chính tinh có 2 cặp nổi tiếng

Cơ Nguyệt Đồng Lương và Sát Phá Liêm Tham.

Chúng ta đều hiểu ý nghĩa từng cặp, nhưng chú ý hơn một chút sẽ thấy giữa chúng có mối quan hệ âm dương.

Về cách an, ta thấy

Cơ luôn nhị hợp Phá
Đồng luôn nhị hợp Tham
Lương luôn nhị hợp Liêm

Chỉ có Âm và Sát là bất đối xứng...

Ài, đến đây lại đụng đầu phải bài toán nhị hợp. thôi thì ta cứ hiểu , nhị hợp là hai vai, là hai mặt của một vấn đề.

Chúng ta thấy, 2 bộ này, mỗi bộ 4 sao, trong đó có 3 sao tương quan nhị hợp với nhau. Nói như vậy, chúng ta thấy rằng, chúng là hai mặt của một vấn đề

Hai mặt đó là văn - võ, động - tĩnh. Nếu Cơ nguyệt đồng lương ưa văn, thích tĩnh thì Sát Phá Liêm Tham ưa võ, thích động....

Nhưng cần rất lưu ý, 2 bộ này có 2 hạt nhân tạo nên sự đột biến khác lẽ thường, đó là Thái Âm và Thất Sát.

Nếu ta nói Cơ Nguyệt Đồng Lương ưa tĩnh, ít tham vọng. Thì trong đó, Thái Âm không nhị hợp với sao nào thuộc bộ Sát Phá Liêm Tham, nhưng nó có tính chủ động nhất, ham muốn nhất và đã được phong là một "tài tinh" chủ về tiền bạc vật chất.

Ngược lại, nếu nghĩ Sát Phá Liêm Tham ưa động, thích võ, giàu tham vọng. Thì thấy rằng, Thất Sát có vẻ trầm tĩnh hơn, đi sâu vào nội tâm hơn và có cách sống nặng về tinh thần hơn ( Thất sát có tên gọi khác là Lao tâm).

Vậy là, trong Cơ Nguyệt đồng lương tĩnh, có Thái Âm động ( Phân chia này chỉ mang tính tương đối). Và trong Sát Phá Liêm Tham động, có Thất sát ưa tĩnh.

Đó là nguyên lý trong dương có âm, trong âm có dương. Hai sao Thái Âm và Thất sát là chìa khóa để luận giải hai bộ này, nó chính là 2 sao tạo nên nhiều dị biến và trả lời một số trường hợp " Cơ nguyệt đồng lương" lại không phải là quan văn.

Ví dụ thực tế : Cơ nguyệt đồng lương, nhưng Âm ngộ Kị hoặc Đà, có xu hướng đi về chính trị.

2. Tác lại nhân.

Chúng ta hiểu, xưa kia lại nhân là một chức quan ghi chép ,chuyên lo về sổ sách giấy tờ, cao hơn nữa là bổ nhiệm nhân sự hoặc coi kho.

Thời nay có thể là dân văn phòng, dân kế toán , thư ký v..v...

Thực tế nghiệm lý đúng là Cơ Nguyệt Đồng lương, về đa số, thích một cuộc sống yên ổn, an nhàn, ít tranh đấu, ít tham vọng và thường không coi tiền quyền là động lực quá lớn. Người Cơ Nguyệt Đồng Lương bởi có cá tính như trên, nên thích lựa chọn những ngành nghề ổn định, " tác lại nhân" có ý nghĩa như vậy

Tất nhiên, chúng ta tránh việc "sờ chân voi nói con voi to bằng cột đình", số phận thiên biến vạn hóa. Ở đây chúng ta chỉ nói về nguyên lý chung.

Nếu có ngoại lệ,một ngày nào đó bạn gặp 1 Cơ Nguyệt Đồng Lương không làm "lại nhân", thì xin đọc kĩ lại nguyên lý nhị hợp, động tĩnh, văn võ.

Hai mặt của một vấn đề, Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ mệnh, đó là mặt nổi, ẩn sau đó là tảng băng Sát Phá Liêm Tham còn đang chìm. Một lý do nào đó, chẳng hạn Triệt hoặc các sao tham vọng mạnh khác tham gia. Lúc đó, bộ Sát Phá Liêm Tham đang ẩn giấu sẽ lộ mặt dần và chi phối cuộc chơi số mệnh.

Khi xem Cơ Nguyệt Đồng Lương, hãy chú ý đến Sát Phá Liêm Tham nhị hợp. Trong 10 phần, anh nào chiếm nhiều hơn, cuộc đời cũng khác nhau. Nếu tỷ lệ là CNĐL 7, SPLT 3, thì đến hạn Không Kiếp hãy coi chừng. Nhưng nếu tỷ lệ SPLT nhiều hơn, hạn Không Kiếp cũng bớt đáng sợ hơn đối với các lá số mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương

Muốn cân nhắc tỷ lệ giữa chúng, phải quan sát tướng
 

Người Ngô Nghê

Thành viên chính thức
hi, ths anh Khoai nhiều lắm!
Em muốn hỏi 1 vấn đề nữa là... người ta nói cung vcd cần có Tuần/Triệt án ngữ thì sẽ tốt hơn. Vậy cung Phúc vcd ngộ Tuần Triệt thì sao ạ? Vẫn tốt nhờ có Tuần Triệt án ngữ, những vẫn có cái xấu riêng đúng ko ạ? Anh có thể lý giải rõ hơn được không? ^^
 
Last edited by a moderator:

Lạc Xa

Vô Thường
khoai ui, mình hỏi chút:
cung nào có chính tinh xấu, nhiều phụ tinh xấu là cần tuần triệt mới tốt . vậy tuần triệt đối với cung VCD và cung có chính tinh xấu như phá hãm, sát hãm là ý nghĩa tốt như nhau.
mệnh có chính tinh ví dụ tử vi, khi gặp đại vận vcd bản thân mông lung đúng không ???
 

TonHanhGia

Super Moderator
xin hỏi thường nghe cung VCD cần tuần triệt
nhưng nếu cung VCD có nhiều sao tốt thì tuần triệt là lá chắn để bảo vệ bản cung hay nó sẽ áp chế sự tốt đẹp của các bàng tinh, phụ tinh tốt trong đó
 

Thiên Không

Thành viên Lớp học Tử vi 06/2012
Anh Khoai cho em hỏi vấn đề ảnh hưởng của phúc trong việc đoán mệnh với ạ. Theo nghiệm lý bản thân thì em thấy có chịu ảnh hưởng về tính cách hay 1 số đặc tính của các sao ở cung phúc.
 

Khoai

Lão làng
Về vấn đề Tuần triệt động chạm tới quá nhiều kiến thức, trong một lúc Khoai chưa biết nên trả lời thế nào. Trong đó, có một lý thuyết có vẻ mới lạ, tuy được kiểm chứng khá nhiều trong thực tế, nhưng nếu viết ra sẽ gây nên tranh cãi. Nên Khoai xin phép trả lời sau.

@ Thiên Không.

Về vấn đề cung Phúc, anh có lần đã viết trên diễn đàn này và một diễn đàn khác. Nay anh nói lại một chút

Cung Phúc, xét về thế đứng, nó là cung tối quan trọng.

Thứ nhất, Ta hiểu Mệnh là tư tưởng, Quan là hành động, và cung Tài là kết quả ( Tôi suy nghĩ, tôi hành động và tôi thu lại thành quả). Cách hiểu này đơn giản, chính xác và rộng hơn cách hiểu thông thường khi cho rằng " Quan là công danh, sự nghiệp" và Tài là "Tiền bạc".

Từ cách hiểu này, ta thấy Phúc đối Tài, tức nó quyết định rất lớn đến thành quả của một lá số.

Thứ hai, Phúc tam hợp cùng Di và Phu Thê. Hai cung Di và Phu Thê cực kì quan trọng, một cái cho thấy "xã hội bên ngoài", một cái phản ánh " Môi trường ngay bên ta".

Bởi thế, cung Phúc chi phối rất nhiều vấn đề trong một lá số, bao gồm "Thành quả trong cuộc đời" ( Tài), "Hôn nhân" và " Xã hội".

Bởi vậy, nó có ba ý nghĩa lớn

1. Khi xét ngược, Phúc - Phụ - Mệnh - Huynh - Thê - Tử, ta thấy chiều thời gian của cuộc đời, ông cha ta sinh ra bố mẹ ta, bố mẹ sinh ra ta, ngang vai ta là anh em, ta lớn lên cưới vợ, cưới vợ rồi sinh con.

Xét theo chiều thời gian này, cung Phúc là cái khởi đầu của một cõi người, khởi đầu cho sự sinh ra và đi tới chung cuộc. Hiểu theo nghĩa hẹp, nó đại biểu cho dòng tộc, họ hàng.

Nhưng khi hiểu theo nghĩa rộng, nó là "gốc của con người". Bởi thế, một cung phúc bạc bẽo thì cách làm người không biết mang ơn, một cung phúc bất ổn thì "cái gốc" của con người đó bất ổn.

2. Xét từ ý nghĩa trên, ta có một hệ quả. Cung Phúc phản ánh " Quan niệm và tư tưởng về hạnh phúc ở đời" của đương số. Xin lưu ý kĩ chi tiết này.

Quan niệm thế nào, động cơ thế vậy. Anh cho rằng nhiều tiền mới là hạnh phúc, tất nhiên, anh sẽ hành động để kiếm tiền. Cô cho rằng giàu có mới là hạnh phúc, cô sẽ hành động để trở thành giàu có.

Cung Phúc, là động cơ sâu xa xuất phát từ "nhân sinh quan" ( Có được từ cung Di), " thế giới quan" ( Có được từ việc chiêm nghiệm thành quả ta có - bao gồm cả thói quen và kinh nghiệm - Cung Tài) và mong muốn về gia đình ( Có được từ cung Phu thê)

Hiểu rõ điều này, chúng ta hiểu được bản chất cốt lõi của một lá số, cho thấy xu hướng hàng động của họ. Và hơn nữa, nó cho phép ta cải sửa số phận.

3. Cung Phúc, còn một ý nghĩa ít được đề cập, nó phản ánh nhân duyên, sự may mắn hay xui rủi mà đương số có được.

Phúc có Hóa Kị, cuộc đời thường hay gặp xui rủi
Phúc có Hóa Khoa, cuộc đời hay được cứu giải bất ngờ.

Phúc có Cơ Nguyệt Đồng Lương, cuộc đời có nhân duyên với sự an ổn.

v.v....

Các bạn lưu ý kĩ những gì mình viết, sẽ nghiệm ra được một tuyệt chiêu khi xem và khi cải sửa số mệnh. Điều này xin phép không viết thẳng ra, mong các bạn có thể tự thu hoạch được. Điều đó sẽ tốt hơn.

Suy nghĩ chủ quan :

Chúng ta, khi học Tử Vi, thường quá quan tâm đến cách cục nọ, tuyệt chiêu kia v.v... và v.v... Một điều dễ làm và có lợi nhưng thường bị bỏ qua, đó là tìm cách hiểu rõ, định nghĩa chính xác những vấn đề cơ bản.

Ví dụ ý nghĩa 12 cung, đó là khái niệm cơ bản, hãy cố tìm hiểu rõ chúng.

Tôi thử đặt câu hỏi :

1 người sinh ra là con một trong gia đình. Vậy thì cung huynh đệ sinh ra chỉ để phản ánh tiêu chí "con một" mà thôi hay sao?

Hay một lá số không có bố mẹ, bị bỏ rơi. Vậy thì cung Phụ mẫu chả lẽ chỉ để phản ánh tiêu chí "Mồ côi" thôi sao?

"Xây nhà, xây từ móng"
 

Khoai

Lão làng
Cũng đã muộn, Khoai băn khoăn mãi về Tuần , triệt. Tự thấy không đủ sức nói về một vấn đề quá lớn như vậy, nên Khoai xin chia sẻ một ý nghĩ, mọi người cùng bàn luận xem.

Về Tuần. Chúng ta thường nói đến "tuần lễ", " Đi tuần" v.v... Tuần, theo ý kiến Khoai, là một sự lặp lại theo chu kì nhất định nào đó. Tuần lễ là 7 ngày, từ thứ hai đến chủ nhật và lặp lại. Đi tuần, là đi từ A đến B, rồi quay lại A .

Về Triệt. Nó mang ý nghĩa triết giảm toàn bộ tính chất các tinh đẩu. Điều này nhiều người hiểu, nhưng cơ chế triết giảm của chúng ra sao ? Về vấn đề này, Khoai suy nghĩ mãi về cái tên "Triệt lộ". Khoai nghĩ, 1 sao, là một quá trình vận động theo một nguyên lý nào đó. Giả sử việc đi từ A đến B là tính chất của sao X. Nhưng khi gặp triệt, con đường đi đến B của sao X bị ngăn trở.

Nói như vậy có nghĩa là, Triệt, tự bản thân nó không tác động trực tiếp đến tính chất của Tinh đẩu. Nhưng nó tác động gián tiếp bằng cách gây cản trở, hoặc làm mất đi mục tiêu của sao đó.

Chúng ta thử tìm hiểu cách an của Tuần Triệt xem sao?
 

Khoai

Lão làng
Khoai viết chương này với nhiều tâm huyết, đề cập đến các vấn đề nền tảng. Bởi vậy, Khoai rất mong nó chỉ nằm trong diễn đàn Lysoviet.com. Mọi sự sao lưu hay đăng tải lại trên các diễn đàn khác là trái với nguyện vọng của tác giả.



Luận mệnh tinh yếu vấn đáp

( Hỏi đáp về những vấn đề tinh yếu trong luận Mệnh)

Hỏi : Tôi thường thấy nhiều người tuy thuộc kiến thức, nhưng khi cầm lá số trên tay vẫn bị bối rối không biết bắt đầu từ đâu. Nguyên do tại sao vậy?

Đáp : Nguyên do là họ không có một hệ thống luận đoán logic. Nói cách khác, như một người làm văn mà không có dàn bài, như người xây nhà mà không có bản thiết kế. Tùy hứng mà luận.

Hỏi : Tại sao ít người có được một hệ thống luận đoán logic?

Đáp : Điều này cần nói rõ hơn. Kinh Dịch hay Tứ Trụ đều có những nguyên lý khá rõ ràng mạch lạc, sinh khắc chế hóa có quy luật. Nhưng với Tử Vi, hệ thống lý luận cơ sở mang tính tiên đề, buộc phải thừa nhận. Trong khi đó, tính chất các sao lại hết sức chung chung, tuy có phân chia nhưng sự chế hóa không rõ ràng, lại quá phức tạp.

Hỏi : Đúng vậy. Nhưng làm thế nào để xây dựng được hệ thống đó.

Đáp : Mỗi hệ thống đều mang tính cá nhân, đó là đặc thù của huyền học. Nhưng, nó vẫn phải xuất phát từ những cơ sở chung nhất định

Hỏi : Cơ sở đó là gì?

Đáp : Chỉ một câu : Dùng Lý của Dịch để hiểu rõ Nghĩa trong Tử Vi.

Hỏi : Nói vậy là sao?

Đáp : Lý của Dịch, là lý của sự vận động. Lão tử nói " Sinh sinh chi vi Dịch", sinh sôi bất tận gọi là Dịch . Mà nguyên lý của sự vận động, không gì thoát khỏi Âm Dương, Tam Tài, Tứ Tượng, Ngũ Hành.

Hỏi : Xin nói rõ hơn được không?

Đáp : Tức là, hiểu cái Lý của âm dương, của tam tài, tứ tượng, ngũ hành. Hiểu rõ sự vận động trong đó, áp dụng để tìm hiểu Nghĩa của cơ chế một lá số Tử Vi.

Hỏi : Anh có thể nêu ra ví dụ

Đáp : Thế đứng tam hợp và xung chiếu mang tính đặc thù của bộ môn Tử Vi. Anh thử nhìn chữ Tâm, nó có một "hoành câu", tức là nét ngang, lại có "tam điểm" - tức là ba phẩy. Hoành câu đại diện cho âm dương , tam điểm đại diện cho tam tài. Thế đứng của Tam hợp và xung đối vẽ nên một chữ Tâm, và không gì khác ngoài âm dương và tam tài ẩn chứa trong đó.

Chẳng hạn Mệnh - Di, nó là một cặp âm dương. Còn Mệnh - Tài - Quan đại biểu cho tam tài. Xin nhắc, đừng hiểu tam tài theo nghĩa trừu tượng Thiên - Địa - Nhân.

Hỏi : Vậy phải hiểu tam tài như thế nào?

Đáp : Thiên là cái định trước, sẵn có. Nó như thể một bộ mã cho trước. Địa là môi trường phát triển của cái sẵn có đó. Ta nói " Thiên sinh, Địa dưỡng" là ý đó. ( Người Việt có câu : Cha sinh mẹ đẻ).

Còn Nhân, là hành động của con người.

Tóm lại, Tam tài lần lượt là Thế cục, môi trường, và hành động của ta trong môi trường và thế cục.

Hỏi : Áp dụng cho tam hợp Mệnh - Tài - Quan và cặp xung đối Mệnh - Di thế nào?

Đáp : Mệnh là thiên sinh, Quan là địa dưỡng, tài là nhân hành ( Hành động của con người)

Hỏi : Có thể nói rộng hơn không?

Đáp : Rộng hơn, đó là sự liên hệ chằng chéo trong một lá số, cung này có 2 tam hợp, 2 tam hợp đó lần lượt lại xung chiếu với các cung khác.

Ví dụ, như trên đã nói, Mệnh là thiên sinh, Quan là địa dưỡng, Tài là nhân hành.

Thì anh thấy, Quan xung Phu thê, thì cái môi trường dưỡng nuôi anh, là hôn nhân vợ chồng.

và anh thấy, Tài xung Phúc, thì cái "nhân hành" - tức là hành động của anh - ảnh hướng trực tiếp đến Phúc của anh. Điều đó hoàn toàn biện chứng.

Hỏi : Anh từng nói, mệnh là tư tưởng, quan là hành động, tài là kết quả. Nay lại nói, Mệnh là thiên sinh, Quan là địa dưỡng, Tài là nhân hành. Có mâu thuẫn không ?

Đáp : Anh so sánh phụ nữ và đàn ông. Anh nói " Phụ nữ mềm yếu, đàn ông cứng rắn" . Điều đó đúng. Anh lại nói " Phụ nữ là vợ, đàn ông là chồng". Điều đó cũng đúng nốt. Hai cái đó, một nói về bản chất, một nói về vai trò. Hoàn toàn không mâu thuẫn nhau.

*************************************

Hỏi : Chúng ta vừa nói về một hệ thống luận đoán logic. Vậy thì cái Lý của Dịch áp dụng gì trong việc xây dựng hệ thống đó?

Đáp : Anh vẫn chưa hiểu ý tôi. Lý của Dịch là động cơ, còn Nghĩa của Tử Vi là cái khung của chiếc xe.

Hỏi : Ý anh là....?

Đáp : Tôi thử lấy âm dương làm ví dụ. Khái niệm này rất cơ bản đúng không?

Hỏi : Đúng vậy. Nhưng âm dương thì sao?

Đáp : Theo anh, điều gì quyết định rất lớn tới số phận một con người? Đó chính là cách họ lựa chọn. Đứng trước một vấn đề, anh lựa chọn ra sao, thì số phận anh như vậy.
Anh chỉ có thể lựa chọn "Hoặc đúng, hoặc sai", không thể lựa chọn "vừa sai vừa đúng".

Tử Vi nói về xu hướng lựa chọn của một con người? Nhiều lắm, tính cách này, tác động của xã hội này v.v....

Nhưng tựu chung lại, tôi nghĩ, chúng ta thường có 2 xu hướng lựa chọn : Hoặc vật chất , hoặc tinh thần.

Anh có tính vật chất mạnh, anh sẽ ham tiền, ham quyền, ham danh vị v.v...
Anh có tính tinh thần cao, anh sẽ mong gia đình hạnh phúc, mong con cái thuận hòa v.v....

Tất nhiên, chúng ta đều mong có tất cả những điều đó, nhưng, số phận là bài toán lựa chọn. Và ta thường nói "Nhân vô thập toàn".

Hỏi : Tính vật chất và tính tinh thần có liên quan gì đến Tử Vi

Đáp : Ồ ! Rất nhiều...

Chòm Tử Vi đại diện cho tính tinh thần
Chòm Thiên Phủ đại diện cho tính vật chất.


Tất nhiên, việc định nghĩa và phân chia rõ ràng " Thế nào là vật chất" và "Thế nào là tinh thần" cũng thật khó. Nhưng nó rõ ràng có sự khác nhau.

Có thể anh chưa tin kết luận này, nhưng hãy cứ nhớ lấy đã nhé.

Lần khác, chúng ta trò chuyện lâu hơn.

Bye !

( Còn tiếp...)
 
Last edited by a moderator:

Thiên Không

Thành viên Lớp học Tử vi 06/2012
Theo ý em hiểu thì các cũng xung chiếu ảnh hưởng trực tiếp với nhau, như vậy cung huynh đệ còn để chỉ người ngang bằng với mình như bạn bè đồng nghiệp. Cung Phụ mẫu còn để chỉ người trên như cô gì chú bác thầy cô. Cung tài là kết quả của việc ta làm, vậy nếu ta làm việc tốt hay xấu thì trực tiếp tác động vào cung phúc của ta làm phúc tốt lên hay xấu đi.
Vậy cách cải số ở đây là dùng chính cung xung chiếu để làm để giảm bớt hay hóa giải cái xấu ở bản cung có phải không anh.

Sau khi đọc bài trên em có 1 ý hiểu là người mạnh về vật chất tính thì chịu ảnh hưởng mạnh bởi mệnh tài quan ham muốn tiền tài danh vọng địa vị, còn người mạnh về tinh thần tính thì chịu ảnh hưởng mạnh bởi phối phúc di ham muốn hạnh phúc trong cuộc sống. Vậy ta có thể xét đến vị trí cung thân để xét người thuộc vật chất tính hay tinh thần tính. Ý này có vẻ mâu thuẫn với tính thuận nghịch mà lần trước anh đã dạy em.
 
Last edited by a moderator:

Khoai

Lão làng
Trước khi tiếp tục bài viết " Luận mệnh tinh yếu vấn đáp", KHoai mời cả nhà đọc bài " Chư tinh vấn đáp" được trích lại trong nhiều sách. Tuy ý nghĩa cơ bản nhưng có nhiều điều hay


Chư tinh vấn đáp luận (Hỏi đáp về các sao) đã được đăng trong nhiều sách Tử Vi Đẩu số và có lẽ có nhiều người biết đến và đọc qua rồi, nhưng Thiên Cơ vẫn muốn đăng lên đây nhằm thêm tài liệu cho người mới muốn tìm hiểu thêm về tính chất cơ bản của các sao trong Tử Vi Đẩu số (Tuy nhiên vẫn chỉ là lý thuyết, muốn hiểu rõ thêm các bạn có thể tìm hiểu thêm trong các sách tử vi hiện thời). Phần Chư tinh vấn đáp được trích trong quyển thượng mệnh lý, Cổ đồ thư, Tử Vi Đẩu Số -Nguyễn Mạnh Linh hiệu đính (tr 481 - 495).

Hỏi: Sao Tử Vi chủ về những gì?

Đáp rằng: Tử Vi thuộc Thổ, là Đế tọa tôn quý nằm giữa bầu trời, nắm giữ huyền cơ của tạo hóa, chủ tể của nhân sinh, thâu tóm ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật, lập định số, sắp các sao cho mệnh người, mỗi người đều có căn cứ riêng. Giữ số năm thường nắm tước lộc, nằm tại các cung ban phúc mà diệt ác. Cần phải xem kỹ tam đài, Tử vi trấn mệnh là trung đài, cung phía trước là thượng đài, cung phía sau là hạ đài. Xem kỹ có ở vào cung miếu vượng hay không, có bị sao cát sao hung nào hội chiếu hay không. Nếu miếu vượng hóa cát là cực tốt, nếu thất hãm hóa hung lại càng hung. Hạn cát là tốt, hạn hung là hung. Cung thân mệnh nếu đồng cung với Lộc Tồn, Nhật Nguyệt tại tam hợp hội chiếu, cực kỳ sang hiển. Không có Phụ, Bật đi kèm là vua cô độc, tuy tốt đẹp nhưng chưa trọn vẹn. Nếu gặp sát tinh đồng cung, hoặc hung tinh hội chiếu, là tượng quân tử ở nơi đồng ruộng, tiểu nhân chiếm giữ ngôi cao, chủ về người gian xảo, dối trá, tội ác chất chồng. Nằm cùng sao tù, không, Tả, Hữu phò tá, là quan trợ tá. Nếu tại cung tật ách, huynh đệ, nô bộc, tướng mạo, bốn cung hãm, chủ về vất vả lao lực mà chẳng nên công, tuy được trợ giúp cũng không có phúc. Cũng phải xem rõ cung độ, biện nhận vẻ sáng. Nếu đóng tại quan lộc, thân mệnh, tại tam cung nên có Tả, Hữu đi kèm. Thiên Tướng, Lộc Mã sánh đôi, không gặp không vong, lại ở cung Sinh, sẽ thành sang hiển. Như Khôi Việt, Tam Thai gặp cát tinh, là tam đài bát tọa. Đế gặp Văn Xương củng chiếu, lại được hạn tốt phù trì, ắt được chức quan văn. Đế gặp Thất Sát làm quyền, cát tinh cùng vị, làm quan lớn phò vua. Cát tinh quần tụ, làm chức quan võ. Tài bạch, điền trạch có Tả Hữu phò tá, lại gặp Vũ Khúc, Thái Âm không có hung tinh, sẽ được chức quan về thuế má, tiền tài. Nếu đồng cung với Vũ Khúc, Lộc Tồn ở thân mệnh lại càng kỳ diệu. Cung nam nữ có được sao cát gia trì, chủ sinh quý tử. Nếu trơ trọi không sao lành phò tá, ắt con cháu hiếm hoi. Cung thê gặp được cát tinh, được vợ đẹp sang bầu bạn suốt đời, nhưng cần tránh khỏi phá sát. Thiên di tuy là cung mạnh, cũng cần trợ giúp, có cát tinh chiếu mệnh, nhờ người khác mà được sang. Phúc đức ở nam là đất hãm, ở nữ là miếu lạc, gặp cát sẽ cát, gặp hung theo hung.

Tiên sinh Hy Di nói rằng: Tử Vi là Đế tọa, giáng vào cung có thể ban phúc trừ tai, giải trừ khí ác của các sao, có thể chế ngự Hỏa, Linh thành sao lành, có thể hàng phục Thất Sát làm quyền thế. Nếu được Phủ, Tướng, Tả, Hữu, Xương, Khúc quần tụ, chắc chắn hiển vinh, nếu không cũng thành cự phú. Nếu bị tứ sát xung phá, cũng là trung cục. Nếu gặp Phá Quân tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là bầy tôi bất trung, con cái bất hiếu. Mệnh nữ gặp phải, lại là mệnh phụ giàu sang. Gặp Sát xung phá lại là mệnh bình thường, không đến nỗi hạ tiện.

Tiên Sinh Ngọc Thiềm nói rằng: Tử Vi là chủ tinh ở giữa trời, là trung tâm của quần tinh, đó chính là tạo hóa. Đại khái đây chính là chủ tể của mệnh ngừời, nắm giữ ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật. Lấy Tả Phụ, Hữu Bật là trợ tá, lấy Thiên Tướng, Xương, Khúc làm tùy tùng, Khôi Việt làm quan truyền lệnh, Nhật Nguyệt làm quan địa phương, Lộc Mã cai quản chức tước, Thiên Phủ cai quản kho tàng, thân, mệnh gặp được cực kỳ cát lợi. Nếu gặp Tứ Sát (Dương, Đà, Hỏa, Linh), Kiếp, Không xung phá, sẽ làm tăng ni đạo sĩ. Sao này trấn mệnh, chủ về chín chắn chắc chắn, sắc mặt đỏ tía, chuyên chủ về cát.

Hỏi rằng: Sao Thiên Cơ chủ về những gì?

Đáp rằng: Thiên Cơ thuộc Mộc, là sao thứ ba trong chòm Nam Đẩu, cũng là sao lành. Hóa khí của nó là Thiện, được địa hợp mà hành sự, giải trừ sự thuận nghịch của các sao, định số ở mệnh người, gặp các cát tinh quần tụ, muôn sự đều cát lợi. Chuyên cần lễ phật, cung kính lục thân, thích hợp với nghiệp tu hành chốn rừng sâu. Không có lòng bất nhân ngạo ngược, biết linh hoạt ứng biến, tinh minh sáng suốt, làm việc có phương pháp. Mệnh nữ gặp phải sẽ có phúc, gặp cát được cát, gặp hung sẽ hung. Hoặc trấn ở thân lại gặp Thiên Lương, sẽ có tài nghệ cao cường. Người học nên nghiên cứu cho kỹ lưỡng.

Tiên sinh Hy Di nói rằng: Thiên Cơ là sao chủ về tuổi thọ, nếu trấn tại thân, mệnh chủ là người khác thường. Cùng Thiên Lương, Tả, hữu, Xương, Khúc gặp gỡ, theo nghiệp văn sẽ thanh cao, theo nghiệp võ sẽ trung thành. Nếu ở cung hãm gặp tứ sát xung phá là hạ cục, nên theo nghiệp tăng, đạo thanh nhàn. Nếu hai hạn gặp phải, sẽ sáng tạo nên sự nghiệp. Người nữ cát tinh chiếu mệnh, chủ về vượng phu ích tử. Gặp Quyền, Lộc sẽ thành mệnh phụ. Gặp Dương, Đà, Hỏa, Kỵ xung phá chủ về hèn mọn, tàn tật, hình khắc.

Tiên sinh Ngọc Thiềm nói rằng: Thiên Cơ là sao lành của chòm Nam Đẩu, khí hóa là Thiện, phò trợ Đế Tinh hành sự, hóa giải sự ngỗ ngược của các hung tinh, định số trong mệnh người, nếu gặp cát tinh sẽ nên phú quý, nếu gặp hung sát vẫn là tốt lành. Hiếu nghĩa với người thân, chăm chỉ lễ Phật, không có hành vi bất nhân, bất nghĩa, có chí linh thông ứng biến. Mệnh nữ gặp được chủ về phúc thọ. Nếu tại cung miếu vượng sẽ có sức lực, tại đất hãm sẽ vô lực.


Trước mắt Khoai post lại hai bài vấn đáp về Tử Vi và Thiên Cơ. Trong bài , khi nói về sao Tử Vi, có khái niệm "tam đài" rất đáng lưu ý.
Trong phần hỏi đáp về Thiên Cơ, có một dòng rất cần xem xét " được địa hợp mà hành sự, giải trừ sự thuận nghịch của các sao" . Đây là một trong những dòng ít ỏi của sách Tử Vi đề cập đến sự "thuận nghịch" của các sao. Tính thuận nghịch này, vô cùng quan trọng
 

Thiên Không

Thành viên Lớp học Tử vi 06/2012
Em chỉ nêu ra để anh xem có hiểu đúng hok thui. Em thấy trước anh nói dùng tuần triệt để xét tính thuận nghịch. Còn ý hiểu của em lại dùng thân để xét.
 

Khoai

Lão làng
@ Thiên Không : Tính thuận nghịch là chìa khóa quan trọng để hiểu một lá số tử vi, có lần hình như anh đã nói với em. Nó thể hiện ngay trong các cách an sao, từ Mệnh - Thân, đến 14 chính tinh, lục sát v.v...
 
Bên trên