Một Số Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí Trước Những Năm Giải Phóng

MụcĐồng

Tư vấn viên
Kinh nghiệm tử vi:
PHÁ QUÂN THÌN ĐỤNG ĐỘ PHÁ QUÂN TUẤT

Đông Nam Á

-Chết thÌ chết, không lạy ông Dự thẩm
-Đụng độ chủ tiệm may
-Nhờ vÁn cờ, đổi cuộc đời

Kể lại cÂu chuyện này, tôi chỉ có ý muốn nêu rõ một vài nhận xét trong việc xem tướng số. Bởi vÌ có một vài người bạn nhờ tôi "hướng dẫn" xem số của họ theo nghề nào mới được phù hợp. Nhưng nhà tướng số chÂn truyền cũng chỉ biết đoÁn điều tốt xấu trong phạm vi thọ yểu hay phú quý. Tức là nói về cuộc đời của thÂn chủ. Còn việc nói về việc "hướng" được số thÌ đời người chẳng lẽ không có số mạng. Cứ nhÌn vào bản thÂn tôi, cÁc bạn sẽ thấy ngay. Nếu hướng cho nổi số phận tôi theo con đường phú quý thÌ tôi đã hành động cho mÌnh trước tiên. Vài ý kiến trên được chứng minh ở cÂu chuyện tôi sắp kể dưới đÂy về cuộc đời lưu lạc trong quÁ khứ của tôi. Hơn nữa, tôi cũng xin cÁc bạn nhận định thêm rằng : Số mạng mỗi người diễn biến ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.

Lên Hà Giang

Năm Canh thÌn 1940, tôi vừa được 27 tuổi và tính theo số tử vi tôi gặp đại vận và tiểu vận trùng phùng ở cung Tý, có Thiên Phủ, Vũ Khúc ngộ Tuần. ông thầy bói Lợn có đoÁn : Phúc Đức, Vũ Khúc, Thiên Phủ được Thanh Long Tử Tướng ở thiên di chiếu, là cÁch " Tứ đại dương mộ đắc địa". Tôi cũng đã thường được nghe nhà Bà Lý nọ, cụ ChÁnh kia sở dĩ giàu có là vÌ được mộ tÁng chổ này. Nhưng ngôi Tứ đại cả Dương lẫn Âm của nhà tôi bị thất lạc đã lÂu rồi, như vậy hỏi kết phÁt ở chổ nào ? Chẳng lẽ lại phÁt "phú quý giật lùi"?

Năm Canh ThÌn, theo số tử vi tính về Tứ HoÁ thÌ ở cung phúc đức còn có sao HoÁ Quyền (tuổi GiÁp Dần) thế là thành bộ hoÁ quyền, lộc tồn ở cung quan lộc chiếu. Vậy mà ngay từ đầu năm, tôi đã phải khăn gói lên Hà Giang để kinh doanh.

Tôi tới tỉnh lỵ Hà Giang vào thÁng 2. Nhờ có nghề may nên gặp ông Tô Tú Phương, còn có tên là Nã, thÂu nhận. ông Phương là người Tàu lai, rất thích tử vi. ông ta tuổi NhÂm tý, được sao PhÁ QuÂn thủ mạng tại thÌn, nên có sao HoÁ Quyền ở thiên di chiếu. VÌ thế, cuộc đời của ông thật là : tay trắng làm nên sự nghiệp. ông Phương còn kể cho tôi nghe tính khôn ngoan do ảnh hưởng của sao PhÁ QuÂn đã giúp ông có cơ nghiệp ngay từ khi còn bé.

PhÁ QuÂn ở thÌn của ông chủ tiệm may
Nghe ông Nã khoe sao PhÁ QuÂn ở thÌn, tôi thầm nghĩ mÌnh có sao PhÁ QuÂn ở tuất sao lại phải đi làm công cho loại PhÁ QuÂn thÌn này ? Bởi vÌ, tuổi GiÁp Dần còn tốt hơn nhờ lộc tồn, lại có sao HoÁ Quyền tại mạng. Còn PhÁ QuÂn kia chỉ có sao HoÁ Quyền chiếu, lại còn bị kÌnh đà Ám. Tôi không hiểu nổi lý do và còn nghi ngờ về sự quyết đoÁn tốt xấu trong tử vi.

ông Nã da trắng, mắt nhỏ, miệng nhọn, dÁng đi hơi gù, bước nhanh. Theo dư luận, sỡ dĩ ông Nã khÁ là vÌ trong mấy năm nay, anh ông ta là ông Nhí bao thầu sòng bạc ở Yên Ninh. Hơn nữa, vợ ông ta có buôn bÁn cÁc thứ thực phẩm cho TÂy, đồ hộp, bÁch hoÁ ...

Trong nhà ông Nã có tới 20 cÁi mÁy mai, mượn 20 người thợ. Những lúc phÁt đạt, được nhiều người mua sắm, ông Nã chiều chuộng thợ may lắm. Nhưng tới khi xong việc, ông ta xoay xở bằng mọi cÁch, như may quần Áo bị gãy kim trừ nửa tiền mua kim mới (trừ 1 đ 50 vÌ kim mÁy 3 đ). Chỉ hết thÌ phải đem lõi lên mới được lãnh chỉ mới. Nếu làm mất lõi thÌ phải mua chỉ mà may. Lương công nhật một người thợ may chỉ có 1đ 50, vÌ vậy nếu không may mà bị gãy mất một cÁi kim hay bị mất lõi chỉ thị họ đi toi một hai ngày làm việc rồi !

Vốn biết thiên hạ hay dị nghị những ai có sao PhÁ QuÂn, ông Nã thường nói "Tôi PhÁ QuÂn ở thÌn, nhưng tuổi NhÂm, sao Tử vi có Hóa Quyền chiếu nên mới quÂn tử, chứ còn cÁc tuổi khÁ mà PhÁ QuÂn thÌ bất trị".

Có nhiều lần ông lÂn la hỏi tôi sao nào thủ mạng, tôi nói dối sao Thiên Cơ thủ mạng ngộ Đào Hồng, làm ông vui cười đọc ngay cÂu phú :
" Đào Hồng mà gặp Thiên Cơ
ThÌ theo mũi chỉ đường tơ có tài"
(Phú Ma Thị)

PhÁ QuÂn tại tuất của tôi
Tôi cũng nhiều lần mưu mô lừa ông Nã, thế mà ông không hề biết. Chẳng hạn, tôi lấy cÂy kim bị gãy và lắp hờ vào, đợi lúc ông Nã đi ngang làm bộ đạp mÁy, thế là ông Nã tưởng tôi làm gãy kim và trừ tôi 1đ50 trong khi tôi mang cÂy kim ra phố bÁn được 2đ50. Lãi được 1 đồng. Rồi tôi còn mang lõi chỉ nhặt được ở hiệu khÁc, lên đổi lấy cuộn chỉ mới nguyên bÁn được 4đ. Thật là :
Kẻ gian hùng được người khen
Người thật thà bị mắng

Ở Hà Giang hai thÁng, đến thÁng tư tôi bị bệnh sốt rét. Thế là người tôi bị nóng lạnh, sức khoẻ sút kém, nhiều khi đi đứng không nổi. Lúc đó, chẳng hiểu vÌ túng thiếu hay vÌ bất nhÂn, chỉ biết giữa lúc đau nặng mà phải làm việc, tôi đã lừa ông Nã một lần nữa, mà lần này lợi tức hơi lớn:

Một bữa nọ, có đông khÁch đến may. ông Nã đưa mỗi người một tấm vải, phần tôi ông đưa cho tấm si mi li thứ vải đắt tiền để làm giÁ một mét 3dd50). Tôi nhÌn cÁc bạn chẳng thấy ai định ăn cắp vải, họ cứ hùng hục cắt xong là may liền! Tôi mới cắt ngay 5m vải dấu vào vali đồng thời đo 5m khÁc, đÁnh dấu cho có vẻ thật thà và bắt đầu cắt.

Tới chiều, ông Nã vào nhà trong lấy quần Áo, ông hỏi mấy người thợ : "CÁc anh có biết cắt như thế mỗi bộ hết bao nhiêu vải không ?". Họ chỉ trả lời là cứ đo theo khổ người khÁch rồi cắt, chứ không biết là hết mấy thước !.

Trong khi ông còn đang hỏi những người kia, tôi ngồi thản nhiên nghĩ: "chắc thể nào mÌnh cũng bị ông ta hỏi cuối cùng, để rồi buộc tội cả lũ người kia vÌ "ngu dại".

Quả nhiên tôi là người được hỏi sau cùng. ông Nã cười hỏi tôi: “Còn anh Quang, thế nào?” Tôi chưa kịp trả lời, ông tiếp: “Thấy anh có tướng học hành, hơn nữa lại bị đau nặng, tôi đã tÁn ông khÁch may vải simili, để đưa anh làm cho dễ và được công cao!”

Tôi đủng đỉnh, khẽ dở tấm vải ra tới mức đÁnh dấu, cầm thước đo. Số vải còn thừa lại hơn 20 phÂn. Tôi nói: “Thưa ông, tôi đo 5m rồi vạch dấu, như thế nào thừa 20 phÂn thÌ bộ quần Áo kia phải tốn hết 4 thước 8 vải!”

ông Nã vỗ tay, nhÌn cÁc người thợ kia đang thộn mặt ra, ông nói " làm ăn có mực thước như anh Quang thÌ thÌ tôi mới biết tính vốn mua vải, tính vốn tiền công, để bÁn cho người ta chứ! "

Năm thước vải lấy ra tôi bÁn được 10đ, thêm 2 đ tiền công. Gom góp được một số vào số tiền sốt rét.

Trường hợp trên làm tôi rút kinh nghiệm và thấy rằng : Ở đời, có nhiều người thật thà lại bị chê bai nghi ngờ. Còn kẻ gian manh khôn khéo thường được tin dùng. Thế mới biết nhÂn tÂm khó dò, người nào năm quyền mà không cao tay nhất định bị lũ đàn em bịt mắt như không.

Thuốc Tham Thiên Đường cũng không chữa được bệnh sốt rét. Bệnh tật đau buốt tận xương, không nhờ cậy được ai, đã có lúc tôi muốn tự hủy hoại thÂn thể mÌnh, nhưng nghĩ đến cha già tôi lại gạt bỏ ý nghĩ bi quan đó. Một hôm, thÂn xÁc gầy còm thất thểu đi ngang qua nhà ông Phúc Đường, chẳng hiểu vÌ lẽ gÌ tôi lại được ông gọi vào nhà. Hỏi han một vài cÂu, nghe tôi trÌnh bày cảnh ngộ, ông lấy ra ba tờ giấy 5đ và nói: " Tôi xưa cũng cơ cực, may nhờ chúa Sơn LÂm phù hộ nên cũng mÁt mặt. Thấy cậu khôi ngô, tôi chắc không đến nỗi phải vùi thÂn nơi này đÂu, này goi là có chút lòng đỡ cậu ". Tôi chỉ còn biết nói cÂu cảm ơn ông, rồi lếch thếch bước ra.

TÌm gặp ông Dự Thẩm
Bệnh nặng quÁ chỉ còn cÁch xin vào nhà thương thí nhưng tôi lại nghe người ta trong tỉnh nói rằng : " Phải vào xin giấy quan Dự Thẩm, nhà thương mới chữa. ông quan Dự Thẩm này khó tính lắm, người nào vào xin giấy đi nhà thương phải lạy sống hai lạy mới được cho"

Nghe cÁc cÂu nói trên, tôi nghĩ đến hành động của ông Phúc Đường thông cảm với hoàn cảnh cơ cực của tôi còn ông quan Dự Thẩm này cũng là công chức khÁc mà ông lại đòi hỏi hÁch dịch như vậy. Tôi phÂn vÂn trong việc lễ sống một người trong khi cha mÌnh mà mÌnh chưa lạy. Cuối cùng, tôi cũng đến Sơn LÂm, vào tòa Dự Thẩm. Quan Dự Thẩm là một người nhỏ thó, mắt nhÌn gườm gườm. Tôi bước vào với dÁng điệu mệt mỏi, hai tay chắp lại dơ cao trước mặt cuối đầu lơ lửng vÁi trời:
- Chào cụ lớn ạ
Một phút yên lặng trôi qua, tôi chờ đợi kết quả hành động thiếu sót của mÌnh. ông Dự Thẩm cất tiếng : " Xin vào nhà thương thí phải không ? Người như vậy mà cũng đòi nằm nhà thương thí nghĩa là sao? "
- Bẩm quan, tôi tự nghĩ kẻ nào khốn nạn cùng đường mới cầu xin để được nằm thí, chứ đÂu phải vÌ lợi lộc gÌ mà mong mỏi chuyện này đÂu ?

Tôi thấy ông ta đÁng ghét, bèn vÁi một cÁi : " xin chào quan lớn" rồi lê gót trở ra. Trên đường trở về, tôi lại nghĩ thấy giận mÌnh quÁ? Chỉ vÌ tự Ái mà bÂy giờ đói khổ bÌ bệnh tật mà không có thuốc. Chẳng hiểu có phải vÌ ảnh hưởng của sao PhÁ QuÂn tạo cho tôi cÁi tính như vậy chăng?

Cuộc đời trong vÁn cờ

Cuộc đời như thể vÁn cờ
Khéo khôn thÌ được, khù khờ thÌ thua!

Lúc này, bệnh sốt rét đã bợt. Tôi đi lang thang ra đầu phố Yên Biên, gặp mấy người Tàu ngồi đÁnh cờ. Bản tính mê cờ, tôi liền ghé vào xem và có mÁch một vài nước. Cờ tàn, một người trong bọn rủ tôi đÁnh cÁ 2đ một vÁn. Tôi đoÁn chắc cờ người này không cao lắm nên đồng ý liền.

Cuộc đấu cờ khai diễn. Được một lúc, thấy con mã của đối phương nằm ngay tầm phÁo, tôi không hiểu đối phương lập thế cờ gÌ mà lại thí như vậy. NhÌn kỹ thấy không hại gÌ, tôi chém luôn con Mã. Mặt ông Tàu già đượm vẻ đăm chiêu, ngồi im bất động, làm tôi tưởng mÌnh sắp bị nước cờ hiểm. Nhưng 10 phút sau, ông ta tỏ ý xin hoàn lại con mã. Hoàn thÌ hoàn, nước cờ phải ăn thÌ ăn chứ chẳng cao gÌ nên tôi đành lòng trả lại con mã cho đối phương. ĐÁnh cờ mà ăn quÂn một cÁch lãng xẹt hoặc vÌ lầm lẫn thÌ chẳng hứng thú chút nào. Chỉ thích thú khi nước cờ mÌnh cao và bí hiểm mà thôi. Kết cuộc tôi thắng vÁn cờ đó. Sau đó, tôi được ông mời vào nhà ngồi nói chuyện. ông ta nhÌn tôi hỏi: “Nị ở đÂu ? Làm nghề gÌ mà có vẻ đau yếu vậy ?.

Tôi kể lể hoàn cảnh, chẳng ngờ ông Tàu lại tỏ ý rủ tôi đi Phó bảng với ông ta. Tôi bằng lòng. ông liền lấy 5 tờ giấy 20đ trao cho tôi và nói :

-Tiền này cho nị để mua thuốc và ăn cơm trong hai thÁng. Rồi đến Phó Bảng hỏi ông Voòng Si là ai ai cũng biết.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “VÌ lẽ gÌ ông cho tôi nhiều tiền vậy?, lỡ tôi trốn luôn thÌ sao ?
ông ta mỉm cười : “Xem nước cờ của nị thÌ biết rằng nị không dối ngộ.”

Sau đó, tôi được ông Voòng Si (làm nghề bảo tiêu) truyền dạy cho thuật tướng phÁp. ông Voòng Si thường đÁnh cờ với tôi. ông luôn bảo “Cờ của con không cao nhưng có những nước gò bó và cởi mở đượm vẻ giang hồ chÂn thật. Thầy tin rằng, mai sau con sẽ nên người, nhưng con nghèo.”

Tôi không tin rằng chuyện tôi nghèo. Đến lúc này, đã ngoài 60 tuổi, tôi mới thấy lời tôn sư tôi nói đúng....

Qua mẩu chuyện trên, chắc cÁc bạn đồng ý với tôi rằng sự đời vô cùng biến ảo không ai có thể hướng dẫn được định mạng, nếu có thÌ thuộc ngoại lệ rồi. Nhà tướng phÁp chỉ có kể được vài điều về sự Phú Quí Bần Yểu của thÂn chủ, ít nhất ông Thày phải đoÁn vài cÂu về quÁ khứ để thÂn chủ kiểm chứng. Tuổi càng cao càng nhiều quÁ khứ. Nếu gặp phải thầy thực tài, đoÁn ra một vài điều xấu thÌ có lẽ cÁc bạn nên tin rằng đó là số mạng. Chứ đừng ép buộc ông thầy phải đoÁn cho mÌnh toàn những chuyện tốt đẹp. CÁc điều đoÁn xấu có thể là những mÁch nước giúp cÁc bạn may ra trÁnh khỏi những chuyện không tốt đến với mÌnh.

KHHB số 74L1
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Kinh nghiệm tử vi: GIẢI ĐOÁN CUNG TỬ TỨC

-Sự quan trọng của cung Tử-Tức
–Tử-Tức và cung Phúc Đức, Mệnh, Thân
–Trai nhiều hay gÁi nhiều?
–Con truyền tinh.
–Con nhiều, ít.
–Hạn sinh con.

Trần Việt Sơn

(Thuật theo kinh nghiệm cụ ThÁi Dương)



Xin nói ngay rằng cung Tử-Tức là một trong cÁc cung mà sự giải đoÁn thiếu sự chính xÁc (khÁc với sự chính xÁc của cÁc cung Mệnh, Thân, Tài, Di … ).

Nhưng cũng nên nói ngay rằng sự chính xÁc của cung Tử-Tức chỉ nằm trong những yếu tố rất đại cương. Thí dụ như có những sao xấu nào đó, là không con, hoặc được những cÁch tốt khÁc, là người nhiều con. Sự ít con hay hay nhiều con cũng như con thành đạt hay không thành đạt, là những ý niệm rất tương đối. Trong 5 đứa con ra đời, thế nào cũng có đứa thành đạt và đứa không thành đạt.

Ngoài ra nữa, số con cÁi cũng phải tùy theo cả hai vợ chồng. Một người số ít con, lấy một người có số nhiều con, sẽ thành ra thế nào? Nếu thêm một người hai vợ, hoặc một người hai ba chồng, thì phải xét khÁc. Nếu số cả hai người cùng một vợ một chồng thì cÁi sự nhiều con hay ít con tùy theo số của vợ hay của chồng lại phải tính khÁc.

Cũng bởi thế, khi tìm hiểu về con cÁi, phải có cả hai lÁ số vợ và chồng và phải biết rõ tình trạng hôn nhân (một vợ, nhiều vợ, người chồng lấy vợ kế, người vợ tÁi giÁ …)

Vị thế của cung Tử-Tức

Con cÁi là một yếu tố quan trọng của hạnh phúc. Người không con, hoặc có con cÁi mà không ra gì, hoặc có con cÁi mà không nuôi được, là người thiếu hẳn hạnh phúc.

Bởi thế mà xem cung Tử-Tức cũng phải xem cung Phúc-Đức. Cung Phúc-Đức được coi là chỉ về sự thịnh vượng hay sự tÁn tụ của họ hàng (vả chăng, cung Phúc Đức cũng có ảnh hưởng chủ chốt vào cả 11 cung khÁc). Cung Mệnh, Thân cũng có ảnh hưởng. Nói chung, cung Phúc-Đức tùy theo chính tinh tốt hay xấu miếu vượng hay khắc hãm, mà chủ về gia đình đông đúc hay hiếm hoi, thì cÁi đó cũng chỉ về con cÁi. Ngòai ra cung Mệnh, Thân phải tốt, thì do đó mà số con tăng lên, sự nuôi con cũng dễ dàng và mình cũng được nhờ con. Nói cÁch khÁc là cung Phúc-Đức và Mệnh-Thân tốt, thì tăng độ số của cung Tử-Tức. Ngược lại, cung Tử-Tức mà tốt, nhưng Phúc Đức lại xấu, Mệnh-Thân cũng xấu, thì phải cho rằng cung Tử-Tức bị giảm kém, hoặc đương số được con cÁi tốt mà chẳng được hưởng, chẳng được con cÁi phụng dưỡng.

Tuy nhiên, cũng còn tùy theo kinh nghiệm. Như có người mạng số thật xấu, nhưng cung Tử-Tức lại quÁ tốt. Người đó về già được hưởng sự phụng dưỡng của con cÁi. Có người cung Tử-Tức thật xấu, kể như không con, thế mà nhờ Phúc-Đức và Mệnh, Thân tốt, cũng thành có con.

Con Trai và con GÁi

Có thể phân định trai nhiều hay gÁi nhiều bằng sự hiện diện của chính tinh tại cung Tử-Tức là Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh.

Nam đẩu tinh là : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất SÁt,, Thiên Đồng, ThÁi Dương, Thiên Cơ. Cung Tử-Tức có Nam đẩu tinh tọa thủ thì con trai nhiều hơn con gÁi.

Bắc đẩu tinh là : ThÁi âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, PhÁ Quân. Cung Tử-Tức có Bắc Đẩu tinh tọa thủ, thì con gÁi nhiều hơn con trai.

Nếu có 2 chính chinh tọa thủ, 1 là Nam đẩu tinh, 1 là Bắc đẩu tinh thì sao? Ảnh hưởng Nam đẩu tinh chia đều, vậy phải xem cung Tử-Tức là cung Dương thì con trai nhiều hơn; nếu là cung âm, thì con gÁi nhiều hơn.

Nếu là Tử- Vi đồng cung với một chính tinh khÁc: Tử-Vi lại là cả Nam và Bắc đẩu tinh, thì ảnh hưởng phân định trai gÁi không còn nữa. Vậy phải xét tính chất của chính tinh đồng cung kia. Nếu chính tinh đó là Nam đẩu tinh, thì sinh con trai nhiều hơn. Nếu là Bắc đẩu tinh, thì sinh con gÁi nhiều hơn.

Vấn đề con truyền tinh

Vấn đề này được nhiều người nhắc nhở đến và cho là một yếu tố quan trọng cũng như trường hợp vợ chồng truyền tinh.

Vợ chồng truyền tinh : Cung Thê của chồng có một bộ chính tinh nào, thì cung Mạng của Vợ có đúng một bộ chính tinh đó. Hoặc ngược lại, cung Phu của vợ có bộ chính tinh nào thì cung Mạng của chồng có bộ chính tinh đó. CÁc bộ chính tinh như Tử-Phủ-Vũ Tướng, SÁt-PhÁ-Liêm-Tham, và không cứ phải đúng chinh tinh tọa thủ tại cung; cung Mạng của vợ có Liêm Trinh, cung Thê của chồng có Thất SÁt, và cả hai cung cùng có bộ SÁt PhÁ Liêm Tham, Thế cũng là truyền tinh.

Con truyền tinh: Cung Tử-Tức của đương số có chính tinh hay bộ chính tinh nào đó, xem cung Mạng trong lÁ số đứa con. Nếu cũng có chính tinh hay bộ chính tinh đó, thì đó là đứa con truyền tinh. Đứa con truyền tinh là đứa con sau này có nhiều liên quan với mình, như sau này nó chăm lo phụng dưỡng cho mình, hoặc là sống chung với mình, ở gần mình, hoặc cũng có thể là mình phải chăm sóc cho nó. Không hẳn phải là như vậy có nghĩa là cÁc đứa con khÁc không có hiếu với mình; cũng có thể có những đứa con không phải là truyền tinh cũng có hiếu với mình, nhưng chúng vì hòan cảnh mà ở xa thì chúng không thể chăm sóc đến cha mẹ theo lối sớm khuya thăm hỏi thế thôi.

Vấn đề có mấy đứa con

Trong cÁc sÁch Tử-Vi, có ghi những cÁch chỉ dẫn số con trong mấy trường hợp. Ví dụ: Có chính tinh này miếu thì năm con, có chính tinh kia hãm thì một con, có sao xấu nọ thì “đến già không có tay bồng con thơ “.

Chúng ta chỉ có thể tin ở những cÁch đó một cÁch rất tương đối, chưa kể rằng phải phối hợp cÁc cÁch đó để “tạm đưa ra một đÁp số về con”. Ngòai ra, lối đóan cũng không thể chính xÁc, là vì có những đứa con đẻ ra, mà có đứa sống được, có đứa hữu sinh vô dưỡng; xét tuổi của đương số, nếu là tuổi đương độ sanh đẻ, chưa thể biết rõ đã đành; nếu là người đã qúa tuổi sanh (thí dụ 60 tuổi) thì số con cũng khó thể chính xÁc, là vì ngày nay, những thanh niên, con cÁi của cÁc ông bà lớn tuổi, chết một cÁch lãng xẹt, thì như vậy có kể cả không ?.

Có nhiều vị nổi danh về Tử-Vi chủ trương rằng số con mình là số con mà mình nuôi được đến tuổi trưởng thành (18, 21 tuổi) chứ không phải là số con sanh ra (kể cả những đứa con chết yểu).

Nhiều vị nổi danh Tử-Vi cũng chủ trương những nguyên tắc để giải đóan số con như sau:

– Chỉ kể đến số con của hai vợ chồng chính thức (có hôn thú) và ở trường hợp một vợ một chồng, sống với nhau lâu dài thì phải tính như sau : ước lượng số chồng mấy con, ước lượng số vợ mấy con, đem cộng lại rồi chia hai. Thí dụ : Theo lÁ số chồng là 8 con, theo lÁ số vợ 2 con; cộng lại rồi chia hai thì hai vợ chồng đó được 5 con. Trong Tử-Vi cÁc cung Tài-Bạch, Điền-Trạch và Tử-Tức của hai vợ chồng bù trừ cho nhau.

-Có một ông bạn, cung Tử tức ở Dần, có Tham Lang, Bạch hổ, số con đến 16 đứa (phải chăng là con nhiều như hổ lang?).

– Một người thường, không phải là thứ đại lãnh tụ, có cung Tử-Tức rất xấu là người không có con với người vợ duy nhất của mình, nhưng nếu cung Nô Bộc thật tốt, cũng có thể có nghĩa là người đó có những đứa con ngọai hôn với những nhân tình, vợ bé.

Hạn sanh con : Sanh Trai hay sanh GÁi

Vận sinh con, cần nhất phải có sao Thai
Gặp Tiểu vận mà có sao Thai và những hỷ tinh như Hồng Đào Hỷ, SÁt PhÁ Liêm Đào, Nhật, Nguyệt, thì có tin mừng sinh con. Sao Thai là quan trọng nhất.

Tuy nhiên, không có sao Thai ở Tiểu Vận. Sao Thai có thể đóng ở Đại vận, hay ở Nguyệt Vận. Vậy ta cộng chung cÁc sao ở Đại Vận, Tiểu Vận, Nguyệt Vận , thấy có sao Thai và cÁc bộ Hỷ tinh thì đó có thể vận tốt sinh con. Tuy nhiên, ở Đại vận và Tiểu vận mạnh hơn là ở Nguyệt Vận.

Còn sinh con Trai hay con GÁi thì xem cung Tiểu vận bÁo hỉ, có Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh. Gặp Nam đẩu tinh thì sinh Trai; gặp Bắc đẩu tinh thì sinh GÁi. Nếu gặp Tuần Triệt đóng ngay cung, thì ảnh hưởng ngược lại., Nam đẩu tinh sinh GÁi, Bắc đẩu tinh sinh Trai.

KHHB số 74L1
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
TÌM HIỂU PHÚ TỬ VI
Phong Nguyên

Cách: Quân dân sủng ái
Cách: Ích Tử Vượng Phu
Cách: Thiếu niên Tân khổ

Hôm nay tôi lại xin tiếp tục thảo luận về phÚ tử vi sau khi đã gián đoạn một vài kỳ vÌ có một số độc giả đã tha thiết yêu cầu tôi sớm trả lời hoặc viết về một vài khÍa cạnh khác. Vậy quý bạn nào đang theo dõi loạt bài về phÚ tử vi xin thông cảm cho tôi.

HOá KỴ Tý CUNG KHOA LƯƠNG PHỤ CHIẾU, ĐẮC QUâN DâN SỦNG áI

Giải nghĩa: Mệnh an tại Tý có Hoá Kỵ tọa thủ và Hoá Khoa, Thiên Lương hội họp thÌ được rất nhiều người quý mến, ngưỡng mộ. Có sách chép là “ChÚng nhân tôn phục” thay vÌ “Đắc quân dân sủng ái”, nhưng sự khác biệt đó cũng không quan trọng lắm vÌ đại để cũng chỉ đề cập đến số người đông đảo mà thôi .

Nhận xét: Ngoại trừ ở cung Điền hoặc Tài, Hóa Kỵ thường bị coi là xấu cho nên trong trường hợp này thiết tưởng ta cũng không nên có thành kiến về Hoá Kỵ quá mức mà quên lãng đi một ưu điểm Ít có về sao trên. Tuy nhiên quý bạn cần lưu ý:

Điều tiên quyết là Mệnh phải ở cung Tý mới ứng nghiệm. Dù ở cung Ngọ là cung xung chiếu cũng không áp dụng được. Về lý do tại sao chỉ đặt trường hợp cung Tý tôi chưa tÌm hiểu được, nhưng về sự ứng nghiệm tôi có thề đoan chắc với quý bạn.

Điểm cần thiết thứ hai là chỉ có Hoá Khoa và Thiên Lương mới sử dụng được Hóa Kỵ hữu hiệu nghĩa là không thể lấy Hoá Quyền, Hoá Lộc hoặc Khôi Việt để thay thế cho Hoá Khoa, lấy Thiên Phủ, Thiên Tướng để thay thế Thiên Lương . Điều này cũng chẳng có gÌ lạ lùng vÌ Hoá Khoa mới tượng trưng cho thông minh, tháo vát và Thiên Lương mới chủ về người biết ăn nói (những nhà mô phạm, du thuyết thường có sao này) do đó 2 sao này phối hợp với nhau đủ khả năng sử dụng Hoá Kỵ tượng trưng cho cái lưỡi, tức là sự ăn nói nên mới được nhiều người ngưỡng mộ chứ không phải nhờ khÍa cạnh nào khác, cho nên mới cần phải có Khoa Lương là các sao rất phù hợp với lãnh vực này. VÌ vậy nếu gặp Thiên Phủ chẳng hạn thÌ đương số ăn nói lÚng tÚng, chẳng ra lời lẽ gÌ cả vÌ Thiên Phủ chủ về bệ vệ khoan thai, chậm rãi thÌ làm sao dùng được sao Hoá Kỵ. Nếu gặp sao Thất Sát lại còn tệ hơn vÌ sao này chủ về võ chứ không dÍnh dấp gÌ đến văn, cho nên khi gặp Hoá Kỵ thÌ đương số ăn nói lỗ mãng, dữ dằn, thiếu tế nhị, nhất là khi thiếu Hoá Khoa thÌ lại càng tệ hơn nữa, khi đó thÌ làm sao còn được ai ngưỡng mộ nữa . Trường hợp gặp Tham Lang tuy không trở thành người du thuyết được nhưng cũng có thể là người khéo ăn khéo nói dễ thuyết phục người khác một cách riêng tư vÌ Tham Lang dù sao cũng chủ về khôn ngoan, lanh lợi, mặc dù đương số có thể thất bại khi đứng trước quần chÚng đông đảo .

Câu phÚ đã nêu ra một cách hợp lý là Khoa Lương phụ chiếu, chứ không phải đồng cung với Hoá kỵ. Thực thế, nếu quý bạn coi lại cách an Hoá Kỵ thÌ sẽ thấy rằng không mấy khi Hoá Kỵ lại đồng cung với Thiên Lương, trừ trường hợp tuổi Kỷ thÌ vÌ Hoá Kỵ đồng cung với Văn KhÚc cho nên có thể đồng cung với Thiên Lương ( vÌ Văn KhÚc có thể đồng cung với Thiên Lương ). Đối với Hoá Khoa cũng vậy, rất Ít có trường hợp Hóa Kỵ đồng cung với sao đó.

Tuy câu phÚ trên có nêu ra tổng quát là cứ có Khoa Lương là “xài” được Hoá Kỵ , nhưng thực ra chỉ có một số tuổi là hy vọng gập, còn một số tuổi khác không bao giờ được hưởng cách trên. Nếu quý bạn chịu khó ngồi lập ra đủ 10 trường hợp tuổi theo hàng Can (và cách an sao Hoá Kỵ phải theo Can) và sao khác thÌ sẽ thấy chỉ có tuổi Giáp, Ất, Mậu là hay gặp Khoa Lương phụ chiếu Hoá Kỵ còn các tuổi Đinh , Nhâm , Quý thÌ đừng bao giờ hy vọng được hưởng cách trên .


VĂN XƯƠNG TÍNH THANH THẢ KHIẾT TỬ ÍCH PHU SƯƠNG

Giải nghĩa: Câu này chỉ áp dụng cho phụ nữ và có nghĩa là đàn bà cung Mệnh có Văn Xương tọa thủ thÌ tÍnh tÌnh tao nhã và vượng phu Ích tử.

Nhận xét: Nếu ta chỉ biết câu này thôi thÌ thiết tưởng chẳng có gÌ đáng nói, nhưng nếu ta đọc tới câu “Nữ nhân Xương KhÚc thông minh phÚ quý đa dâm” liệu ta còn dám nghĩ rằng người đàn bà đó có đáng gọi là “tao nhân” hay “vượng phu Ích tử” chăng? Thực ra hai câu phÚ này đều ứng nghiệm cả, miễn là ta phải chÚ ý tới các sao khác:

Nếu có thêm Đào, Riêu, Mộc, Cái thÌ chắc chắn vấn đề tao nhã và vượng phu Ích tử không còn đặt ra được nữa mà phải nhường chỗ cho “đa dâm”. Dù cho trường hợp này có Thiên Phủ, Nguyệt đức, Khôi, Việt…cũng vẫn còn tÍnh xấu đó, nhưng bề ngoài hơi khó nhận thấy.

Nếu vắng hẳn bộ sao “ướt át” kể trên và lại có Hóa Quyền, Khôi, Việt hoặc Thiên Phủ, Thiên HÌnh…ta có thể đoán chắc là đương số thuộc trường hợp câu phÚ thứ nhất, nghĩa là nết hạnh, đoan trang, vượng phu Ích tử.

Sau hết tôi cần nhắc lại (điều này tôi đã nêu ra đôi ba lần) là vào thời đại văn minh tiến bộ, hai sao Xương KhÚc của phụ nữ đã có môi trường thÍch hợp giống như đối với phái nam nghĩa là phụ nữ có hoàn cảnh được ăn học cho tới cao khoa, cho nên khÍa cạnh “đa dâm” đã bị vô hiệu hóa rất nhiều, và do đó nhiều khi chỉ cần tránh được Đào, Riêu, Mộc, Cái là đủ đứng đắn chứ khỏi cần thêm Thiên Phủ, Hóa quyền…như đã nói trên. Đối với phụ nữ thời phong kiến có thể nhóm sao sau này vẫn còn cần thiết để áp đảo được tÍnh lãng mạn, lẳng lơ đi.

TUẦN TRIỆT ĐƯƠNG ĐẦU THIẾU NIêN TâN KHỔ

Giải nghĩa: Theo ý kiến của đa số những nhà Tử vi thÌ “đương đầu” có nghĩa là án ngữ ngay tại Mệnh, nhưng theo một vài “cây” Tử vi thÌ Tuần Triệt ở cung xung chiếu hoặc tam hợp với Mệnh cũng phải coi là đương đầu. Còn về ý nghĩa cả câu thiết tưởng không cần phải nêu ra vÌ đã quá rõ ràng.

Nhận xét: Chắc có bạn mỉm cười khi thấy tôi nêu ra câu phÚ đã quá quen thuộc và dễ hiểu, nhưng thực ra có một vài khÚc mắc mà quý bạn không thể coi thường được:

Nếu chỉ chấp nhận trường hợp Tuần Triệt án ngữ ngay tại Mệnh mới gọi là “đương đầu” quý bạn vẫn phải phân biệt khi Mệnh có chÍnh tinh và Mệnh Vô chÍnh diệu. Trường hợp có chÍnh tinh bị Tuần Triệt án ngữ không phải lÚc nào cũng tai hại vÌ thực ra chỉ có Tử Phủ, Thiên Tướng, Cơ Lương, Vũ khÚc là sợ Tuần Triệt nhất, còn Thất sát nếu hãm địa lại gặp Triệt (hay hơn là Tuần) thÌ trái lại trở nên tốt đẹp hữu hiệu vô cùng, nhưng lẽ tất nhiên nếu Thất Sát đắc địa thÌ phải tránh Tuần mới hay. Còn trường hợp Mệnh vô chÍnh diệu gặp Tuần Triệt án ngữ cũng đừng vội cho là hay mà phải để ý xem có nhiều trung tinh tốt đẹp tọa thủ hay không. Nếu có thÌ cần tránh Tuần, Triệt (nhất là Triệt) vÌ Tuần bao vây không cho trong ngoài liên lạc được với nhau để phát huy khả năng phối hợp, còn Triệt thÌ chặt gẫy phá vỡ mọi sao hay khiến cho mất hẳn yếu tố tốt có sẵn tại Mệnh và các sao bên ngoài chiếu về không cứu vãn nổi. Trường hợp không có trung tinh tốt thÌ chỉ kỵ mỗi Tuần mà không sợ Triệt vÌ Mệnh xấu mà còn không nhờ cậy gÌ được các sao tại các cung tam hợp (bị Tuần bao kÍn không vào được) sẽ khiến cho đương số thực sự “tân khổ”, trong khi Triệt án ngữ lại thuận lợi vÌ không những phá được những yếu tố xấu tại Mệnh mà lại còn không cản trở sự trợ giÚp bên ngoài.

Nếu chấp nhận Tuần, Triệt ở cung xung chiếu hoặc tam hợp cũng gọi là “đương đầu” chắc có bạn thắc mắc không hiểu tại sao Tuần, Triệt chỉ chiếu cũng gây ảnh hưởng mạnh mẽ như án ngữ. Điều này rất dễ hiểu vÌ có bao giờ ta chỉ căn cứ vào nguyên cung Mệnh để giải đoán mà trái lại luôn luôn phải kết hợp với các sao khác ở các cung tam hợp và nhất là ở cung xung chiếu. Do đó, tỷ dụ như Mệnh có Tử Phủ (Dần, Thân) rất cần có Vũ Tướng và các bộ trung tinh khác (như Tả Hữu, Thai Tọa, Khôi Việt…) mới thành cách quần thần khánh hội, như vậy nếu các sao này ở ngoài lại bị Tuần, Triệt án ngữ thÌ làm sao kết hợp được với Tử Phủ khiến cho hai sao này bị cô đơn, vô hiệu lực, thành ra vấn đề “tân khổ” thiết tưởng cũng rất hợp lý. Ngay cả với trường hợp Mệnh vô chÍnh diệu cũng vậy, bất luận có trung tinh tốt tại Mệnh hay không cũng cần phải có sự hỗ trợ bên ngoài, không khác gÌ một nước chạm tiến cần viện trợ của nước ngoài, nếu bị Tuần, Triệt ngăn trở thÌ làm sao còn có chỗ nương tựa, khiến cho đã xấu còn xấu thêm. Tai hại hơn cả trường hợp có chÍnh tinh nhiều. Quý bạn nào mệnh vô chÍnh diệu ở trong trường hợp sẽ cảm thấy “đương đầu” theo cách chiếu cũng hiệu nghiệm vô cùng.

Sau hết, có một điểm nhiều nhà Tử vi thắc mắc là tại sao Tuần, Triệt đương đầu (dù án ngữ tại Mệnh hay ở các cung tam hợp) chỉ hành hạ lÚc “thiếu niên” chứ tuyệt nhiên không gây trở ngại cho tuổi từ trung tuần trở đi. Có vị cho rằng Triệt từ 30 tuổi sẽ yếu đi nhưng nếu nói đến “Tuần” thÌ hơi khó trả lời vÌ Tuần có ảnh hưởng suốt cả đời hoặc mạnh mẽ từ 30 tuổi trở đi. Có vị thÌ lý luận rằng lÚc Ít tuổi chịu ảnh hưởng của Đại hạn đầu tiên tức là bị Tuần Triệt chi phối vÌ Đại hạn đầu nằm tại Mệnh, nhưng qua Đại hạn kế tiếp tránh được Tuần, Triệt rồi và tuổi còn trẻ mà sao vẫn “tân khổ” (trường hợp Tuần, Triệt án ngữ tại Mệnh còn có lý vÌ hai sao đó đè lên 2 cung, nhưng trường hợp ở các cung tam hợp hoặc xung chiếu thÌ đâu còn ảnh hưởng gÌ cho Đại hạn kế tiếp). Riêng tôi, tôi cũng không sao tÌm hiểu nổi, vậy chỉ còn biết trông chờ các bậc uyên thâm Tử vi giải đáp giÚp.

KHHB số 74L1
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
NGHĨ VỀ TƯỚNG SỐ
12 CUNG TRÊN LÁ SỐ:
Ý NGHĨA TUẦN TỰ TRONG CUỘC ĐỜI
CÁC CUNG TƯƠNG ĐỐI & ẢNH HƯỞNG VÀO NHAU

- ĐÔNG NAM Á –

Ý nghĩa 12 cung trong số Tử vi quả lÀ tinh tế, huyền nhiệm nhưng cũng rất đơn giản, dễ hiểu vì 12 cung chỉ lÀ 1 vòng tròn mÀ trÊn đó, số mệnh con người được ấn định. Nếu hiểu được Đạo mÀ vòng tròn lÀ biểu tượng thì cÁi Ý nghĩa 12 cung nó hiển lộ ngay trÊn cuộc sống của mỗi người. Vậy thì 12 cung, theo thứ tự, đã lần lượt chỉ cho ta thấy cuộc đời mỗi người. Hiểu Ý nghĩa sự sống, hiểu Ý nghĩa nhân sinh, đạt được cÁi mục d9ihc1 của đời người, đắc được cÁi Đạo Dịch Ly71 hoặc Đạo ThÁnh Hiền vÀ riÊng trong Tử Vi, 12 cung đã được Trần ĐoÀn sắp xếp có tÔn ti trật tự, thiết tưởng Ý nghĩa đó khÔng có gì lÀ khó khăn, rắc rối, khÔng có chi mÀ tăm tối, mÔng lung…

Dù sao, cũng kinh nghiệm, cũng đã từng 1 sống 2 chết, thiết tha với Tử Vi lắm lắm mới có thể cả gan dÁm phÁt biểu như trÊn. Nhưng nói thì dễ, thực ra, qua mấy chục năm mÀ tÔi vẫn chưa thấy Chân lÝ Tử Vi – đÔi khi lại còn hoang mang, bực tức hoặc buồn phiền vì thấy những sự trÁi tai gai mắt trong lÀng tướng số. hoang mang cũng phải, vì khi thì thấy Ông thầy nÀy “bịa” ra ngÔi sao Bắc Đẩu; Ông thầy kia “phịa” ra ngÔi sao Nam TÀo vÀ cho lÀ khÁm phÁ mới; hoặc có thầy thì lại tuyÊn xưng cho mình những danh hiệu hết sức li kỳ. CÁi long hoang mang của tÔi khÔng phải lÀ thiếu lòng tin vÀo chính mình, mÀ thật ra lÀ để nghi ngờ đúng theo tinh thần Tử Vi vậy
Nếu người ta có cuốn Tự điển về tinh tú Tử Vi thì có lẽ ngÀy nay phải in thÊm vÀo đó những ngÔi sao mới cho kịp đÀ tiến hóa của khoa ThiÊn Văn Học

NẾU LÀ NHÀ TƯỚNG SỐ ĐẮC TRUYỀN
Nói cho vui vậy thÔi, chứ chính lÝ ra mỗi lÁ số chỉ có khoảng 108 vị sao vÀ vÀi trăm cÁch tốt xấu. Cho nÊn, khi lÀ nhÀ Tướng Số đắc truyền, chỉ cần xét cÁ nhân ấy được tốt về những sao nÀo hay xấu về mấy sao. VÀ nguyÊn tắc để minh chứng cho những điều khen hay chÊ, tốt hay dở về cÁc sao đó đều phải băng vÀo quÁ khứ mấy Ông thầy đoÁn đó.
Ví dụ như thầy bói khen lÀ :
“Phúc đức của ngÀi lớn lắm! Nhờ vÀo cung nÀy nÊn ngÀi….thế nÀy….lại được thế kia….”
Hoặc lại biết than chủ học cao, chức vụ lớn, tiền tÀi to tÁt, tuổi lớn thì Ông thấy cÀng nói được những điều tốt lÀnh, hoặc khuyÊn nhủ, hoặc chÊ bai….
Còn trường hợp Ông thầy cứ khen nức nở, đoÁn rồi sẽ giÀu sang phú quÝ…tòa những chuyện tương lai …thì ai đoÁn chả được. hoặc những chuyện thường (??) lÝ thì ai nói cũng đặng

NóI BỪA TƯƠNG LAI
Có 1 điểm tệ hại lÀ, thầy bói nÀo cứ căn cứ vÀo chuyện thị phi, lòng tham sân si của người cầu biết việc mai sau mÀ cứ dựa vÀo điểm đó để tha hồ nói nhăng nói cuội thì quả lÀ 1 cÁi tội đÁng bị…cụt lưỡi!
Nếu có người khÁch hỏi về con cÁi họ, tương lai của những trẻ mươi tuổi, thì phải căn cứ vÀo đâu mÀ đoÁn vÀ phải dựa vÀo đâu để tối thiểu những lời đoÁn có minh chứng, có mạch lạc sÁng sủa để người khÁch tin tưởng?
Xin trả lời lÀ, trÊn căn bản của phép đoÁn, trước nhất phải xét đoÁn bậc cha mẹ, gia thế của người đó thuộc loại nÀo, như về cÔng danh hoặc tiền bạc. Thứ đến lÀ xét đoÁn về anh chị em đứa trẻ đó, nếu đứa trẻ đã mươi tuổi thì xét sức học của nó, tính tình vÀ sức khỏe nó. Sau cùng mới dung đến phép luận đoÁn của tướng số mÀ nói về tương lai của đứa trẻ. Cứ nói theo khả năng của mình vÀ đừng sợ sai. 10 câu đoÁn thì cũng phải 5 câu đúng. Vả lại, mục đích khi luận giải về tương lai trẻ lÀ có Ý để bố mẹ nó để Ý đến việc giÁo dục vÀ đời sống nó, tức lÀ chú tâm đến tương lai nó, dù tương lai đó sẽ tốt đẹp hoặc kém cỏi
VÀI PHéP ĐOÁN
TÔi chỉ xin bÀn sơ về phép đoÁn, về nguyÊn tắc căn bản của Tử Vi. Mỗi lÁ số, dù chỉ được 1 hoặc 2 cÁch cũng đủ “cuộc đời lÊn hương”. Chỉ đắc 1 hay 2 cÁch thÔi cũng ví như “1 viÊn kim cương nằm trong 1 nắm cÁt”, đủ lÀm cho cả lÁ số trở nÊn tốt đẹp. TrÁi lại, nếu xé vÀo cÁch xấu thì cả lÁ số đó cũng hư tuốt, cũng ví như 1 viÊn kim cương nằm trong nắm cÁt, viÊn kim cương đó bị nứt, bị sứt mẻ hoặc mÀu sắc loạn thì cũng vÔ giÁ trị
Tuy nhiÊn, số mạng còn cần có 1 yếu tố khÁc nữa lÀ : gặp vận tốt hoặc hạn xấu hay khÔng. Sự may rủi có đến đúng lúc, hợp thời thì mới ích lợi, chẳng hạn như giữa mùa hạn hÁn gặp 1 trận mưa rÀo đổ xuống còn quÝ hơn gấp vạn lần l;À mưa vÀng, mưa bạc. hơn nữa, 1 bÁt nước đÔi khi còn quÝ hơn 1 lạng vÀng. Bởi vậy, 1 nhÀ Tướng số phải thấu triệt nhựng điểm căn bản đó, phải vượt qua những thÀnh kiến của chính nghề mình vÀ những thÀnh kiến của khÁch thì những lời giải đoÁn của mình mới có thể tiến gần tới chân lÝ được.

12 CUNG SỐ
Bây giờ xin trở lại 12 cung số
Theo ngu Ý của tÔi, có lẽ Trần ĐoÀn đã ngầm gởi lại cÁi Ý nghĩa của sự “tiếp nối” của con người, như ta có thể thấy trong 1 lÁ số Tử Vi:
Cung Phụ Mẫu ở ngay sau cung Mệnh, tức hÀm 1 Ý nghĩa lÀ con người phải chịu 1 nguyÊn tắc cố định lÀ do cha mẹ sinh ra. Nếu tính thuận thì cung Phụ Mẫu lÀ vòng chính (thuận). Tại sao từ cung Mệnh trở đi lại theo vòng nghịch, cha mẹ sinh ra mình
Rồi sau cung Mệnh, chúng ta thấy cung Huynh đệ. Điều nÀy cho ta nhận rõ lÀ khi con người còn thơ ấu đã có lien hệ mật thiết với an hem ruột thịt cho tới lúc thÀnh nhân vÀ cho cả tới chết
Kế đến, khoảng thời gian từ 20-30 tuổi gặp ảnh hưởng cảu cung Phu/ThÊ, tức lÀ thời kỳ hÔn nhân. Đã thÀnh vợ chồng rồi ắt lÀ phải có con, vÀ chúng ta thấy cung Tử tức nằm kề bÊn
Đã đeo mang vợ con gia đình thì phải tìm cÁch sống, phải thỏa mãn mọi nhu cầu. Cho nÊn khoảng 30-40 tuổi ta thấy cung TÀi, tức cung tiền bạc. Cung nÀy thật quan trọng, nó cho thấy người ta phải bon chen 1 cÁch lẹ lÀng, khÔn ngoan…để có tiền
Thời gian ở cung TÀi lÀ thời hoạt động xÔng xÁo, nắng mưa, cực nhọc vÀ phiền não cho nÊn rất dễ đưa tới bệnh tật, đau ốm, bởi vậy ta thấy cung Ách nó đi theo sÁt ngay sau
VÀ cũng bởi cần thỏa mãn như cầu của gia đình về tiền bạc vÀ sức khỏe….để bảo toÀn hạnh phúc, khÔng phải chỉ ngồi 1 xó trong nhÀ mÀ có tiền, trÁi lại phải đi nơi nÀy, chạy nơi khÁc, hết phố nÀy đến đường kia, cho nÊn đã có ngay cung Di cho ta thấy đi đây đi đó như thế nÀo
Kế tiếp cung ThiÊn Di lÀ cung NÔ, cung bạn bè. Vì khi ra đời, đi đây đi đó, va chạm với mọi người thì phải lựa người mÀ chơi, kén bạn chọn bè. Có câu :”GiÀu về bạn” thật chí lÝ
Nếu Thân ta giÀu, cÔng danh lớn, lÀm quan tướng hoặc nói theo ngÀy nay lÀ lÀm tổng nÀy tổng nọ thì bạn bè ta ắt cũng thuộc ngang như ta. Cho nÊn kế cung nÔ lÀ cung Quan vậy
Khi đã cÔng danh, quan tước lÀ lúc có tiền bạc, sẽ tới việc mua nhÀ, tậu ruộng, lập vườn mở đất đai cho phì nhiÊu phong phú. Vậy kế cung Quan lÀ cung Điền
NhÀ cửa, tiền tÀi, danh vọng đã có, tức lÀ nền tảng đã chắc thì trong giai đoạn cuối nÀy mới nói đến phúc đức. Lúc nÀy đây mới biết rõ ai lÀ người ngay chính, ai lÀ kẻ gian tÀ, vì nếu trong giai đoạn nÀy, nếu ai bị tÁn gia bại sản, con chÁu lao đao lận đận thì có lẽ đó lÀ cÁi quả phải chịu….Còn nếu an cư tuổi giÀ 1 cÁch thanh tịnh, điềm đạm, con chÁu hòa thuận, học hÀnh tiến triển thì đó lÀ cÁi quả được hưởng của cả 1 đời xây dựng, hoặc được con chÁu tận tụy, dưỡng nuÔi hiếu thuận

Dù sao cũng nÊn hiểu tất cả cÁc cung điều chỉ lÀ tương đối vÀ đều ảnh hưởng vÀo nhau. KhÔng có lÁ số nÀo lÀ hoÀn hảo, vÔ phúc hoặc đại phúc. Có thì chỉ lÀ họa hoãn vÀ đại phúc thì khó giữ được bền lâu
Có trời đất thì cũng có ta. Con người tuy nhỏ bé nhưng định mệnh dù đã được an bÀy, con người vẫn mãi mãi tồn tại trÊn TrÁi Đất trong sự tiếp nối vÔ tận. Định mệnh khÔng hủy diệt được con người, chỉ con người mới tiÊu diệt được đồng loại thÔi
VÀ nÊn nhớ, 1 lÁ số đã được viết cho 1 người, mệnh kẻ đó đã được định thì đó lÀ 1 đại phúc chứ khÔng phải 1 tai họa. Nhất lÀ giữa thời buổi tăm tối hiện nay, người ta khÔng còn tin vÀo chính mình nữa nÊn mới tìm đến lÝ số thì cũng nÊn chờ đợi 1 hÀi nhi sang lÁng nÀo đó xuất hiện trÊn đời, thắp sang cây đuốc dẫn mọi người thoÁt khỏi si mÊ…

CÁC NÉT TƯỚNG TRONG CƠ THỂ
. LƯNG, NGỰC, BỤNG, MÔNG & TAY CHÂN PHẢI THẾ NÀO MỚI TỐT?
. TƯỚNG VÚ CỦA ĐÀN ÔNG & TƯỚNG RỐN CỦA ĐÀN BÀ
. QUÝ TƯỚNG CỦA ĐỔNG TRÁC, TỀ HOÀN CÔNG & LƯU BỊ.

- HOÀNG SINH -


CÁc phần trong cơ thể, trừ đầu vÀ cổ ra thường được y phục bao bọc kín đÁo, vừa gặp 1 người chỉ 1-2 lần, chÚng ta ít khi biết được. Người ta gọi đó lÀ ẩn tướng. Nhưng thật ra nó chỉ ẩn với cặp mắt phÀm nhÂn thÔi, còn đối với cÁc tướng thuật gia thì khÔng nhiều thì ít, nó vẫn hiện ra như thường. VÀ từ đó, người ta có thể đoÁn được thịnh, suy, họa, phÚc. Nếu tục ngũ có cÂu nói :”CÁi Áo khÔng lÀm nên thầy tu” thì ta cũng có thể nói :”Y phục khÔng thể che dấu hay sửa đổi cốt cÁch của con người”. Bởi vì:
“Dục xuyên quÝ nhÂn y
Tu sinh quÝ nhÂn thế”
Nghĩa lÀ:
“Muốn mặc Áo của người sang
Phải có 1 hình tướng quÝ”

TƯỚNG NGỰC & LƯNG:
Ai đọc TÂy HÁn Chí đều nhớ có đoạn KhoÁi ThÔng nói với HÀn Tín rằng:
“Tướng mặt của NgÀi bất quÁ được phong Hầu nhưng tướng lưng của NgÀi quÝ khÔng thể nói hết được”
KhoÁi ThÔng muốn dung tướng lÝ để xui hÀn Tín lÀm phản
Thật ra, lưng khÔng có được 1 giÁ trị quan trọng như lời KhoÁi ThÔng nói. Lưng vÀ ngực lÀ phần them hay bớt chÚt đỉnh vÀo phần tướng mặt mÀ chÚng ta đã biết để xem điều đó chắc chắn hơn mÀ thÔi. Lưng vÀ ngực luÔn đi liền nhau. Lưng phía sau thuộc Âm, ngực phía trước thuộc Dương. Lưng khÔng nên lõm xuống, có rãnh ở giữa vì đó lÀ Âm hữu dư, người suốt đời vất vả. Ngực khÔng nên gồ lên cao vì đó lÀ Dương hữu dư, người tính nóng nảy, hay gÂy sự với chòm xóm lÁng giềng.
PhÚ viết :”Ấp bối nga hung, ngã tử hÀ nan”
Có nghĩa lÀ: “ lưng lõm như lưng vịt, ngực gồ như ngực ngỗng khó trÁnh được cảnh chết đói”
Những người có cuộc đời vất vả, nếu lưng khÔng cong lõm xuống thì ngực cũng ưỡn ra lÀ vì lẽ ấy. Lưng của ai nghiêng lệch còn hiếm con nữa. Điều nÀy xÉt về phương diện y học rất đÚng: lưng nghiêng lệch lÀ vì xương sống khÔng thẳng, có bệnh. MÀ xương sống có chứa những đường thần kinh lien quan đến cơ quan sinh dục. Do đó, ai muốn kÉn chọn vợ chồng, khÔng thể khÔng để Ý đến điều nÀy.
1 cÁi lưng tốt khÔng những phải trò dÀy mÀ còn phải chắc chắn, rộng rãi nữa, khÔng được mỏng manh, yếu đuối vÀ nhất lÀ bẹt như tấm vÁn. Người ta thường dung chữ “vai hùm lưng gấu” để chỉ những vị tu7o7ng1manh5 mẽ trong truyện TÀu thời xưa. Lưng của con gấu có bao giờ mỏng manh vÀ phẳng bẹt đÂu
1 cÁi ngực tốt cũng phải rộng rãi đầy đặn, tăm sa (chỗ cuối xương mỏ Ác) khÔng được lõm xuống sÂu. Tăm sa lõm xuống sÂu cũng như lưng có rãnh, con người khÔng thể sung sướng được. Những người nhiều tuổi, mập mạp, thịt ở trên ngực chảy sệ xuống trÔng như vÚ của đÀn bÀ. Đó lÀ quÝ tướng hay phÚ tướng thì đÚng hơn:
“Tam nhũ lÀ tướng cÔng hầu
Tứ nhũ lÀ bÁu, đã giÀu lại sang”
Nghĩa lÀ những bắp thịt rũ xuống trÔng như cÀng có nhiều vÚ cÀng tốt. sang thì khÔng nghiệm lắm, nhưng giÀu lÀ điều chắc chắn. ta cứ nhìn mấy Ông TÀu chủ tiệm, bất cứ tiệm gì, lÚc ở trần thì rõ: suốt ngÀy họ chỉ có mỗi 1 việc lÀ đếm tiền. Đối với đÀn bÀ, vÚ cần lớn vÀ chắc, đầu vÚ mÀu đỏ vÀ hướng lên cao lÀ tốt hơn cả. “Nhũ đầu chi địa” lÀ tiện tướng của đÀn bÀ. Ai đã xuống xóm chị em nhiều sẽ thấy điều nÀy ứng nghiệm ngay.

TƯỚNG BỤNG
Đối với cổ nhÂn, bụng lÀ chỗ thay cho khối óc để suy nghĩ. Người ta thường nói :”Suy bụng ta, ra bụng người” hay lÀ :”TÔi nghĩ bụng rằng…”. Đối với nhÀ nho, bụng còn lÀ chỗ chứa đựng sự khÔn ngoan nữa. “Binh giÁp tÀng hung trung” (đồ đÁnh giặc chứa sẵn trong bụng) – ai mÀ quên được cÂu nói đó của Nguyễn CÔng Trứ
Thật ra, bụng chỉ lÀ chỗ để chứa đựng vÀ tiêu hóa đồ ăn nuÔi sống cơ thể. Như vậy, bụng lÀ nguồn gốc của sự sống, phía dưới bụng có huyệt đan điền cÁch rốn chừng 4 cm. Đó lÀ chỗ tích tụ khí lực của con người. CÁc đạo gia khuyên chÚng ta muốn trường thọ vÀ vÔ bệnh hãy thở bằng bụng chứ đừng thở bằng ngực (xin có 1 bÀi nói về đề tÀi nÀy sau)
Như vậy, bụng nên lớn để chứa đồ ăn được nhiều. ĐÀn Ông con trai bụng cần tròn, to chắc vÀ nhất lÀ xệ suống mới quÝ. DÁng đi khin đó sẽ trở thÀnh oai nghi, bệ vệ. Danh sư hứa Phụ dạy rằng:
“ Đại phÚc thủy hạ danh mãn thiên hạ

PhÚc như bÁo nhi vạn quốc danh đề”
Nghĩa lÀ:
Bụng lớn vÀ xệ xuống danh vang khắp nơi. Bụng như đÀn bÀ có mang, cả thế giới biết tiếng. Nhưng bụng dù to cũng phải gọn gang, khÔng được nÚng nính như chứa đầy mỡ. Ai có bụng đó, đầu lại to như quả muỗm, khÔng có góc cạnh nữa thì đó lại lÀ hạng tầm thường. Đó đÚng lÀ cÁi tÚi đựng cơm, nếu khÔng lÀm tÔi tớ người khÁc thì cũng lÀ hạng nhÀ quên ngu dốt hay quÂn cờ bạc hang điếm:
“Đầu đại vÔ giốc (góc cạnh) – phÚc đại vÔ thÁc (lớn sồ sề) bất thị nÔng phu, thị đổ bÁc”

BÀN VỀ EO CỦA ĐÀN ÔNG & ĐÀN BÀ
NgoÀi bụng có rÚn. RÚn lÀ cuống của nhau, nguồn gốc của sự sống từ lÚc còn nằm trong bụng mẹ. Từ đó ta thấy rÚn nên sÂu mới có phước lộc – gốc cÂy mÀ rễ cạn thì lÀm sao hÚt được mÀu cho tươi tốt được? RÚn nằm cao lÀ người khÔn ngoan, cÀng thấp xuống dưới cÀng kÉm hiểu biết. ĐÀn bÀ rÚn lại cÀng cần sÂu hơn nữa vì con cÁi sẽ nhờn vÀo đó, cÀng sÂu cÀng đÔng con, nếu có long lại cÀng tốt, sẽ sinh quÝ tử.
Trẻ con lÚc mới sinh ra, nếu rÚm lồi quÁ, nên nhờ mấy người ăn mÀy cầm cÁi gậy giả bộ chọc vÀo, dần dần nó sẽ xẹp xuống, dễ coin gay. QuÝ bÀ nếu có con, gặp trường hợp như vậy xin cứ thử xem, linh nghiệm phi thường. biết đÂu chỉ nhờ 1 vÀi cÁi chọc đó mÀ cuộc đời con mình khÁ hơn. Tướng số huyền bí lÀ như thế đó)
Ngũ tạng trong bụng thong ra ngoÀi bằng rÚn nên rÚn lÀ 1 vị trí quan hệ vÔ cùng. Có kẻ nói, gặp trường hợp 1 người bất tỉnh, ta chỉ cần dung kim chÂm vÀo rÚn (lể) lÀ người đó sẽ tỉnh lại ngay. Điều nÀy người viết xin để tồn nghi vì chưa được chứng kiến 1 lần nÀo
Nếu bụng to lÀ tốt thì ta suy ra rằng cả đÀn Ông vÀ đÀn bÀ eo khÔng nên nhỏ. TÔi nói đÀn bÀ mÀ khÔng nói thiếu nữ vì điều nÀy chỉ Áp dụng cho người đã lớn tuổi, lập gia đình rồi. Còn con gÁi mÀ đã sồ sề thì ai coi cho được? Ai có thắt lưng nhỏ, đÀn Ông thì cực khổ, khÔng bao giờ ở địa vị chỉ huy, còn đÀn bÀ, dù có dư tiền bạc cũng phải phong trần.
PhÚ viết:
“Nam nhi yếu tế nan chủ chủ phÚc tÀi”
Nghĩa lÀ: “Con trai eo nhỏ kÉm phÚc kÉm tiền”
“Nữ tử yêu triết, bộ hÀnh hoÀnh, chung chiêu tÂn khổ”
Nghĩa lÀ:” con gÁi eo gãy, bước đi nagng, đi hang hai, sớm chiều khổ cực”
Có cÂu :” Những người thắt đÁy lưng ong
Vừa khÉo chìu chồng lại khÉo nuÔi con”
ĐÂy có thể lÀ loại đÀn bÀ xinh đẹp, đảm đang nhưng khÔng thể lÀ hạng người sung sướng. ĐÀn bÀ cần phải có cốt cÁch trọng hậu, mÀ cốt cÁch đó muốn có, eo cần phải tr2on, lưng cần phải dầy. CÁc bÀ mệnh phụ phu nhÂn có thể khÔng xinh đẹp như ThÚy Kiều nhưng ai cũng yêu viên bối hậu cả. ĐÀn bÀ đẹp chưa phải lÀ tướng tốt. Đa số cÁc nhi kỷ nổi tiếng đều có nhan sắc diễm lệ nhưng chung than có tốt đẹp gì đÂu? Xấu như con ma Chung VÔ Diệm vẫn lÀ chÁnh cung của vua Tề Tuyên Vương trong tam cung lục viện. Cốt cÁch trọng hậu cần cho đÀn bÀ như thế.

49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI
TRAI ĐỨNG CHỮ QUÝ CÓ TÀI
GÁI ĐỨNG CHỮ QUÝ ĐI HAI LẦN ĐÒ

-TRẦN HẢI BÍCH
VĂN XƯƠNG CƯ SĨ –

Tôi đà theo dõi thường xuyên KHHB, nhất lÀ khoa Tử Vi. Trong quÝ bÁo…., cụ Đẩu Sơn cÓ yêu cầu giải đÁp 2 câu trên. Tôi xin giải đÁp như sau:

· Những tuổi đứng chữ QuÝ gồm QuÝ Dậu, QuÝ Mùi, QuÝ Tị, QuÝ MÃo, QuÝ Sửu vÀ QuÝ Hợi. Bây giờ chúng ta theo hệ thống Tử Vi thì biết :

- cÁc tuổi đứng chữ QuÝ đều cÓ giÁp Khôi giÁp Việt;

- QuÝ Mùi cÓ them ĐÀo hoa (cư TÍ);

- QuÝ Tị cÓ them giÁp Hồng, ĐÀo, giÁp Long, Phượng;

- QuÝ MÃo cÓ them ĐÀo hồng cư TÍ, đồng cung Long Phượng

- QuÝ Hợi cÓ thêm ĐÀo Hoa (cư TÍ)

- QuÝ Dậu cÓ them hồng ĐÀo đồng cung, Long Phượng đồng cung

Theo phú Trần ĐoÀn : Khôi Việt giÁp vi Kỳ cÁch.

Chưa kể những cÁch hay khÁc của tuổi đứng chữ QuÝ:

- Khôi Việt cÁi thế văn chương

- Thiên Ất QuÝ nhân cÁch – tức lÀ tọa QuÝ hướng QuÝ

- Khôi Việt đối chiếu. Giả Nghị niên thiếu đăng khoa

- GiÁp QuÝ giÁp Lộc thiểu nhân tri (giÁp khôi Việt, giÁp Long Phương, giÁp hồng ĐÀo đều lÀ quÝ. CÁc tuổi đứng chữ quÝ phần nhiều lÀ cÓ cÁch trên, cÓ tÀi năng. Chưa kể những cÁch giÁp Tử Phủ, giÁp Xương Khúc, giÁp Khoa Quyền..vv…mÀ cÁc tuổi đứng chữ QuÝ không cÓ)

- Khôi Việt phụ tinh vi phúc thọ

- Khôi Việt lâm mệnh vị chi tam thai (quyền cao chức trọng)

- VÀ những cÁch Long Phượng, hồng ĐÀo theo phú Trần ĐoÀn:

- Long Trì Phượng CÁc thủ đắc quÝ nhân

- Khúc Xương Long Phương phÁt văn

- GiÁp Long Phượng phú hữu lâu dÀi

- ĐÀo hồng cư quan tảo tuế đắc quan hÀnh chÍnh (đÀo hồng ở cung Quan sớm được lÀm công chức hÀnh chÁnh). Khoa số tử vi của ta cÓ dịch :”

- Cung quan mÀ ga95p ĐÀo hồng. thiếu niên đà thỏa tang bồng chÍ trai”

Theo những cÁch trên, trai hay gÁi đứng chữ QuÝ nhất định cÓ tÀi, cÒn ai phủ nhận nữa
Trai gÁi đều cÓ tÀi, nhưng gÁi đứng chữ QuÝ đi 2 lần đÒ, Ý nÓi tình duyên đa truân. Đa truân thì cả 2 phÁi mới đúng vì cả trai gÁi đều cÓ những cÁch giống nhau, nhưng gÁi thì đa truân cÒn trai thì không, tôi sẽ trình bÀy trong đoạn sau:
Nghiên cứ về tuổi đứng chữ QuÝ đều cÓ Thiên mà ngộ ĐÀ La (tọa hay xung chiếu) vÀ Mà ngộ Tuần hay Triệt; Mà ngộ Tuyệt – Mà cư Hợi cung
Mà ngộ ĐÀ lÀ triết túc mà (ngựa què)
MÃ ngộ Tuần, Triệt, tuyệt lÀ MÃ Tử (ngựa chết)
MÃ cư Hợi lÀ MÃ cùng đường
(cÁc cÁch trên Ý nÓi gặp tai họa suy sụp, tang thương, chết choc hay thất bại. Mệnh, Phu hay hạn cũng thế)
Bị cÁc cÁch trên, gÁi đứng chữ QuÝ thật lÀ gian truân, vất vả, lao nhọc trăm đường. Lại them cÁc cÁch Hồng ĐÀo bất lợi cho phÁi nữ dù rằng cÓ tÀi hoa, tÀi năng thÁo vÁt, siêng năng, tề gia nội trợ. Con gÁi tÀi hoa thường tÀi mệnh tương đố. Nguyễn Du mở đầu Truyện Kiều cÓ viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tÀi chữ Mệnh khéo lÀ ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mÀ đau đớn long
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thÓi mÁ hồng đÁnh ghen”

“Chữ tÀi liền với chữ tai một vần”

Theo phú Trần ĐoÀn:
:”Sở ai giả hồng Loan tứ mộ Phu cung”
Nghĩa lÀ:
Hồng loan đÓng ở cung Phu tại Thìn, Tuất, Sửu , Mùi lÀ số tang phu tức lÀ chon chồng

“Hồng Loan phùng Địa Kiếp ư phu cung bất hảo chi thập”
Nghĩa lÀ:
“Cung Phu tốt 100% cũng giảm đi 1 nửa”

“Hồng Loan thủ mệnh chủ nhị phu”
Chưa kể:” ĐÀo hoa phạm chủ vị chÍ dâm”

Trai gÁi cÓ Khôi Việt, Long Phượng, hồng ĐÀo đều tÀi năng lả lướt, đa tình, tâm hồn nghệ sĩ. GÁi thì gian truân, trai thì hạnh phúc
Tôi biết 1 vị thương gia ở ngoÀi Trung cÓ 2 vợ, mỗi vợ nhÀ cửa đÀng hoÀng, mỗi bÀ cÓ 15-16 người con. CÓ năm 2 bÀ cùng chửa, cùng đẻ, thật lÀ hạnh phúc cho anh chồng nÀy vô cùng. Trong gia đình chả bao giờ cÓ sự ghen tuông đố kị dù rằng 2 bÀ nÀy ở cùng 1 phố. Vị thương gia nÀy cũng tuổi chữ QuÝ
Nhưng trÁi lại, cô phụ nữ nÀo đa nhân duyên, 2-3 chồng cÓ dÁm sinh hoạt vÀ sống đÀng hoÀng như ông nÀy không? Dù rằng cÓ của vÀ nhất lÀ vấn đề con cÁi, giải quyết như thế nÀo?
Vậy cÁc bạn trai chữ QuÝ, nếu chưa vợ, tôi chúc cÁc bạn thÀnh công trên mọi lĩnh vực, nhất lÀ lĩnh vực tình cảm, tình duyên


49 CHƯA QUA – 53 ĐÃ TỚI
CÁc tuổi 49 vÀ 53 đều cÓ cÁc sao vÀo vận hạn như sau:

- Nam tuổi 49 gặp ThÁi Bạch, tÁn tận

- Nam tuổi 53 gặp ThÁi âm vÀ Diêm Vương

- Nữ tuổi 49 gặp ThÁi âm vÀ Huỳnh Tiền

- Nữ tuổi 53 gặp ThÁi âm vÀ Thiên La
Ta cÓ câu: ThÁi Bạch sạch cửa nhÀ; tÁn tận tan gia bại sản; Diêm Vương, Huỳnh Tiền bệnh nặng, hồn quy địa phủ; ThÁi âm lÀ tang khốc tinh;
“ThÁi âm đÀn bÀ tai Ách chẳng an
Nhất lÀ sinh sản, bệnh mang hiểm nghèo”
Thiên La đề phÒng phu thê xa cÁch, lục đục
Nhưng cÓ phải cứ cÁc tuổi 49, 53 đều vận hạn như thế không? Chắc lÀ không. Chứng minh cụ thể vÀo tru7o7ng2ho75p của tôi. Tôi năm nay 61 tuổi, qua những năm 49 vÀ 53 chẳng sao cả. CÓ lẽ vì tôi than cư Phúc Đức, lại tọa chiếu Tử Phủ, SÁt, PhÁ Tham Vũ, tam hÓa nên không việc gì chăng?
CÁc bạn 49 vÀ 53 tuổi, cÁc bạn chẳng gì phải lo cho chÓng giÀ. Muốn cẩn thận,t ất cả cÁc bạn hÃy bắt đầu từ bây giờ, hÃy triệt để thực hiện c6am ngôn sau :”Đức năng thắng số” vÀ “Dĩ đức bÁo oÁn: - thì cam đoan với cÁc bạn lÀ sẽ được:”
Tiêu tai diên thọ
Thường hoạnh cÁt tường
Viễn ly khổ hải
Tiêu tan nghiệp chướng
Vận bệnh tiêu trừ”
TrÁi lại, gieo giÓ ắt gặt bÃo. Xét hiện tại khả dĩ biết được phần nÀo quÁ khứ vÀ suy ra phần nÀo tương lai (Vũ tÀi Lục)

NGƯỜI TA TUỔI NGỌ TUỔI MùI
CÒN TôI NGẬM NGùI Vì ĐỨNG TUỔI THâN
Cụ Đẩu Sơn cÓ giải thÍch về điểm:

- Tuổi Thân thuộc Kim, rất kỵ Linh hỏa, thương Sứ, dù mệnh ở cung nÀo cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên

- Tổi Thân chỉ cÓ Nhâm Thân thuộc Kiếm Phong Kim, cÒn GiÁp Thân thuộc Tuyền Trung Thủy; BÍnh Thân thuộc Sơn hạ Hỏa; Mậu Thân thuộc Đại Trạch Thổ; canh Thân thuộc Thạch Lựu Mộc

- Sao Thiên thương bao giờ cũng ở Mộ cunug, Thiên Sứ bao giờ cũng ở Ách cung thì lÀm sao mÀ: “dù mệnh an ở cung nÀo cũng cÓ thể gặp 1 trong 4 sao trên?”
Theo tôi nhận xét, cÁc tuổi Thân bao giờ cũng cÓ Kình Dương ngộ Lực Sĩ. Phú viết:
“LÝ Quảng bất phong, Kình Dương phùng Lực Sĩ”
Vì sao Kình vÀ Lực thủ mệnh thường lÀ người giỏi giang, thÁo vÁt nhưng lận đận. Cũng vì thế mÀ ông LÝ Quảng, dù tÀi năng mÀ không được phong (Vũ TÀi Lục). hạn hÀnh Kình Dương Lực Sĩ công danh trắc trở, nếu cÓ quan chức cũng bị thải hồi vÀ nếu cÓ công trạng cũng chẳng ai biết đến (VĐTTL)
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ:

TỬ, PHỦ ĐỒNG CUNG HỘI QUYỀN, LỘC, TƯỚNG, ẤN NHƯNG VẪN…KHÔNG ĂN!

ĐÔNG NAM Á

Xin mách quý bạn một mánh lới của vài nhà đoán quẻ để phòng sẵn lúc thân chủ chất vấn về những cái đoán sai của mình: mánh lới đó là cách sửa giờ sanh, hoặc là bầy tỏ sự hoài nghi về một giờ sanh. Sau khi bầy tỏ sự hoài nghi về một giờ sanh, ông thầy bắt đầu đoán quẻ và nêu lên một vài sự kiện quan trọng. Sau đó, nếu sự kiện quan trọng được dự đoán mà không thành tựu, hoặc diễn ra trái ngược hẳn lại, thì ông thầy mới nói:

-à, nếu vậy thì là giờ kia chứ không phải giờ này! Đó, tôi đã nêu lên trước cái nghi vấn đó mà!

Và ông thầy lúc nào cũng có lý do để bào chữa.

Do chỗ đó, chúng tôi xin mách các bạn đi coi tướng số (trừ ra một vài trường hợp). hãy khẳng định về giờ sanh của mình, không chấp nhận một sự sửa đổi nào, đó là để ông thầy không thể hởm sẵn những lý do để bào chữa. Và khi đã xác định cho ông thầy một ngày giờ sanh rồi, phải đòi hỏi ông thầy đoán một vài câu chắc nịch về quá khứ (thí dụ lớp tuổi 30, thì ông thầy phải đoán rõ về học lực bằng cấp, đường công danh…) Nếu đoán được đúng ông thầy được kể là đắc truyền, còn không, ông chỉ là người đoán mò. Nêu lên như vậy không phải để bỉ mặt ai, mà là để nêu cao danh dự của nghề bói số.

Sau đây là một câu chuyện có liên quan đến Thần khê dịnh số, mà cũng khiến tôi không tin ở các thầy bói trong quá khứ.

Cụ bói Lợn

Cụ bói Lợn, vào thời tiền chiến, ở chợ Đường Cái, Hưng Yên, được nổi tiếng là thầy bói giỏi nhất Bắc Kỳ - nhưng đối với riêng tôi, tôi vẫn chẳng phục cụ chút nào là vì tôi ở quá gần và biết hết các mánh lới của cụ ngoài ra là vì cụ đoán cho trăm đứa trẻ như một (toàn là: mai sau cứng cổ ra phết! Và giầu có, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Trẻ con đều ở nhà quê nên cụ đoán như vậy. Người ở trên tỉnh đi xe hơi về xem cho đứa con mới đẻ cụ lại phong cho làm bác sĩ, kỹ sư).

Nhưng tôi cũng có những lúc phục tài bói toán của cụ Lợn, là vì có những việc đặc biệt của tôi cụ đoán rất trúng (tôi mới nghĩ rằng tại vì người đi coi bói thường hay hỏi trăm thứ chuyện vẩn vơ mà quẻ bói hay lá số không thể nào cho biết nổi – Thí dụ như một người chưa có vợ mà đã đến hỏi về con cái, đứa con thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư làm nghề gì, có khá không, thì số Tử vi không thể nào cho biết được.

Ngoài ra coi bói, coi tướng, mỗi thứ có một phương pháp và định lệ riêng, không thể làm lối hòa giải hỗn hợp được.

Lá số Tử Phủ đồng cung

Tôi xin nói về một vụ coi bói. Hồi đó là 1926 có hai người đàn ông đi xe tay ga (xe kéo) nhà, áo sa đen phủ áo trắng dài, giầy khăn sang trọng, vào hàng cụ Lợn.

Hai người đến xem cho tuổi Giáp Thìn, quê ở Phù Đổng, sanh ngày 6 tháng 7, giờ Ngọ. (http://www.lyso.vn/d...81964/1/abc.jpg) Chính đương số lại vắng mặt, hai người đến xem số chỉ là hai người nhà hay hai người đại diện. Không khó khăn cho lắm, khi quẻ bói được khấn là xem về bản mệnh, tôi có thể đoán là đương số bị đau ốm. Xem bói và bấm số Tử vi.

Theo bảng an sao, Mạng lập tại Dần, có Tử vi, Thiên Phủ. Thiên Di có Lộc Tồn và Thất sát tại Thân. Thanh long ở Tài. Vũ khúc, Văn khúc và Hóa khoa ở Tuất. Quan lộc tại Ngọ có Liêm Trinh, Thiên Tướng, Hóa Lộc.

Lá số có những cách đẹp:
-Tử Phủ đồng cung Câu phú cho biết là “thực lộc vạn chung” tức là lương bổng của bậc tể tướng ngày xưa.
-Được Song Lộc triều viên, có cả Long, Phượng chiếu.
-Các sao chánh đều đắc địa.
-Các câu phú: Thất sát triều đẩu, tước lộc vinh sương
-Tham Vũ Thìn Tuất võ quyền tột đỉnh.
Sang phú Ma Thị, có ghi:
Thân Mạng đã Liêm lại Tướng
Đấng anh hùng trí dũng ai qua
Tai người niên thiếu đăng khoa…

Cụ bói Lợn, đại khái nói một thôi dài, kể ra các cách và các câu phú như trên, rồi cụ kết luận bằng câu:
-Số này tốt lắm, cha mẹ giầu, đương số lại học giỏi. Nhưng năm nay năm nay…(cụ bấm trên tay), tiểu vận đi tới Thiên Di có Thất Sát ngộ Triệt. Mạng lại có Tuần không, coi chừng đau yếu đây.

Tôi thầm nghĩ: cụ Lợn đoán dựa rồi. Là vì chàng thanh niên 23 tuổi, khỏe mạnh đi đâu chẳng được, mà đương tự nhiên thì cần gì phải xem bản mệnh. Vậy tất nhiên là chàng thanh niên bị đau ốm rồi không sai chạy đâu được. Trừ phi là chàng thanh niên đi ra ngoại quốc.

Một người khách nói:
-Chịu thầy. Tuổi Giáp Thìn đau nặng và nhà giàu thì cụ đoán đúng lắm.

Câu nói ông khách làm tôi buồn cười. Là vì trước đây, khi chiếc xe tay nhà bóng loáng vừa hạ càng ngoài lộ, cánh cửa hàng cụ Lợn chừng 10 thước, anh Thượng là cháu cụ Lợn, ngồi ngay cửa hàng đã báo cáo:

-Cụ thầy sắp có món khách xa. Xe tay nhà sang trọng. Hai ông ùng mặc áo sa tây, giầy và khăn toàn thứ tốt, y như quan huyện Văn Lâm bữa nọ.

Như thế thì cụ Lợn đã biết đại khái gia cảnh của đương số rồi.

Phú Thần Khê

Thường lệ mỗi quẻ là 1 cắc (1 hào), nhưng khách sang và ở xa tới, cụ giã 5 hào. Khách hỏi qua loa, rồi khảo về Tử Vi, Khách thú nhận:

-Tuổi Giáp Thìn bệnh nặng lắm, xin thầy bấm kỹ cho, liệu có qua được không, sẽ xin thưởng công thầy.

Cụ Lợn bấm tay nữa rồi nói:
-Số con nhà giầu, mà học hành thông minh lắm.

Rồi cụ đọc mấy câu Phú mà tôi biết là trong Thần Khê Định Số của cụ Bảng Lê Quý Đôn:
Người nào Song Lộc triều viên
Lưng dầy thân mập, đầu tròn, tóc thưa.
Mắt sáng quắc, my như lưỡi kiếm
Sớm công danh, cận kiến cửu trùng.
Hoặc là Tử Phủ đồng cung
Phải y hình tướng, mới không sai lầm.
Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc.
Da trắng xanh, môi tím thâm thâm
Mắt to, tai mỏng, lẹm cằm
Nhan Hồi sốt hoặc thọ trong bần hàn.

Đoạn sau của 10 câu thơ đó có nghĩa là người Tử Phủ đồng cung thì cũng phải có nét tướng như kể trên mới hợp và tốt; to, cằm lẹm, thì hoặc là yểu như Nhan Hồi, hoặc là được thọ nhưng bần hàn.

Hai người khác nhìn nhau như trao đổi ý kiến sau khi nghe mấy câu phú đoán. Họ chưa lên tiếng, thì ông Lợn đã hỏi:

-Bình thường, cậu này có da có thịt không?

-Thưa thầy, cháu da xanh thường hay bị cảm, bác chúng tôi cho cháu học ngành bác sĩ, để quan đốc tây vừa dạy vừa trông nom sức khỏe cho cháu. Nhưng hơn tháng này, cháu nó đau nặng, nên xin phép nghỉ để về chữa thuốc Bắc.

Cụ Lợn hỏi:
-Bệnh gì mà đốc tờ Tây chữa không được vậy?

-Thưa cụ, bệnh thương hàn nhập lý. Cụ thầy bám kỹ xem mạng cháu có vững không? Nếu đúng, thế nào chúng tôi cũng thưởng công Cụ.

Cụ Lợn nói lớn: Anh Thượng cho tôi cơi trầu đây.

Khi đĩa trầu và ba nén nhang đã được đặt trên tráp, chưa đốt lửa, cụ Lợn gõ móng tay lên cạnh đĩa và nói:
-Bỏ vào đây hai đồng để thủ quẻ sẽ bấm Tử vi lại cho.

Người khách nói:
-Hai đồng tôi cũng chịu, nhưng cụ chắc sẽ đoán đúng chứ?

Cụ Lợn nói ngang:
-Nếu không đúng tôi sẽ trả lại tiền. Vả lại, xét số có sống mới lấy tiền, chứ thấy xấu, ai lấy công mà làm chi…

Đoán sai

Chẳng biết cụ Lợn chọn tướng mạo nào trong bài Phú trên, mà cụ nói chắc nịch:
-Tử Phủ đồng cung tại Mạng đây, chết sao được?

Hai người khách tươi hẳn nét mặt hỏi lại:
-Cụ chắc như vậy chứ. Tuy cụ cam đoan số của cháu nhất định sống, nhưng chúng tôi lại hơi ngại về câu cụ vừa đọc chi đó, nếu da xanh, cằm lẹm thì sao sao đó…

Cụ Lợn đọc lại:
-Nếu tiếng nhỏ, mặt không thần sắc
Da trắng xanh, môi tím thâm thâm,
Mắt to, tai mỏng, lẹm cằm,
Nhan Hồi số, hoặc thọ trong bần hàn

Một người liền nói:
-Da cháu có hơi xanh xanh, cằm nhỏ và hơi lẹm, có sao không?

Người khách kia liền nói ngay:
-Thì nó hay bị cảm nên da xanh. Nếu nó không quặt quẹo,chắc da nó cũng đỏ hồng.

Cụ Lợn nghiêng mặt về người này, nói:
-Nếu thế thì nó sống được.

3 ngày sau, hai người khách tới hàng cụ Lợn chất vấn ngay:
-Cụ cam đoan cháu nó qua khỏi, mà nó đã chết rồi.

Cụ Lợn thủng thỉnh đáp:
-Nếu vậy thì nó sinh vào giờ Mùi. Sanh giờ Mùi thì năm nay chết là đúng số.
-Nhà chúng tôi có đồng hồ, sai giờ sao được? Cụ cho lại chúng tôi 2 đồng.

ông Lợn viện lý và không chịu trả. Hai bên đôi co đã hơi lớn tiếng. May có cụ Khóa Văn ở xã Trai Túc, bước vào hàng. Sau khi nghe kể lể, cụ nói:
-Người mất ngàn vàng đáng tiếc biết bao; sá gì hai đồng bạc. Vả chăng, cụ thầy đây cũng phải đoán sao cho khách hàng phấn khởi, chứ ai dám bạo miệng đoán chết, khác nào là rủa độc miệng. Xin các ông vui lòng nén giận rồi ra về để các ông được việc.

Tôi cũng thấy việc đòi tiền lại là vô lý, chính lỗi là do các thân chủ cứ bầy đặt ra lối thưởng và đòi đoán cam đoan nên mới khiến cho các ông thầy đoán theo chiều, tức là đoán láo. Còn ông thầy thì dư biết là đoán láo, nhưng cũng đã thủ thân vài mánh lới để bào chữa, chúng ta nên biết vậy.

KHHB số 74L1
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương
Tôi học Tử vi: NHỮNG BÍ QUYẾT GIẢI ĐOÁN ĐẠI VẬN


* Đại vận rất quan trọng, lấn áp cả Tiểu vận

* Ba bí quyết xác định sự tốt xấu của cung Đại vận, về ba phương diện: Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa
.

Trần Việt Sơn trình bầy


Trong việc giải đoán lá số Tử vi, đối với sở thích của những người đã lớn tuổi, có thể kể rằng việc giải đoán đại vận là quan trọng nhất. Về phương diện tâm lý, với người đã lớn tuổi, người ta rất mong được biết những dịp tốt hay những vận hạn sẽ đến, nếu biết dịp tốt đến, sẽ cố gắng khai thác; nếu biết thất bại đến sẽ không dại bỏ tiền ra để rồi mất hết. Vả lại khi đã lớn tuổi, với nhiều người, gần như số mạng đã an bài, chỉ còn trông vào những thay đổi phần nào ở vận hạn. Trong thật tế có nhiều người chỉ ăn về vận. Đương là một người như mọi người, bỗng cơ may đưa đến, vọt ngay lên ngôi cao chức cả, thế rồi hết vận, lại tụt đi đâu mất không ai hay.


Người ta có thể kể không biết bao nhiêu người như thế, như ông Diệm, ông Nhu, Ông Cẩn, tướng Nguyễn Khánh, ông Trần Trọng Kim, cụ Phan Khắc Sửu, và gần đây hơn, có biết bao nhiêu người đương là giáo sư công chức, kỹ sư, dược sĩ, nhẩy ngay lên chức lớn, và có một số đã bỗng nhiên bỏ chức chức lớn mà trở về với cuộc sống bình thường; có những người đương làm ăn bình thường, bỗng lời đổ đến tay như thác nước trong cả một thời kỳ, nhưng rồi quen ăn làm tới, tiền lại ào ào đội nón ra đi. Những cuộc thay đổi lớn lao và bất thường đó là do Đại Vận, hơn là do Tiểu vận.


-Đại vận 10 năm, chủ vào 10 năm của cuộc đời. Đại vận mà khá thì cũng như có cái gốc khá. Tiểu vận có kém cũng được khá theo, và nếu Tiểu vận được khá thì lại càng khá nhiều.


Ngược lại, Đại vận mà kém thì tiểu vận có những sao tốt, cũng không thể tốt như ý muốn. Càng bởi thế, tính vận hạn, ta không nên ngạc nhiên rằng năm Thân lần trước sao ta khá thế, mà năm Thân lần này, sao ta lại quá dở, đó là vì Tiểu vận phải tùy theo Đại vận.


-Trong việc đoán số mạng đoán Đại vận là nắm được cái tốt xấu trong cả một cuộc đời, cho nên đoán đại vận là một sự rất hứng khởi. Có một lần, một vị độc giả, hận vì đã bị đoán số lầm, nhất định xin hỏi cụ Thiên Lương giải đoán cho vận hạn mấy năm. Vị độc giả đó không nói trước điều nào. Cụ Thiên Lương tính toán rồi nói: “Mấy năm nầy, ông làm ăn thất bại, thiệt tiền của”. Vị nọ thở phào, tự coi như an ủi vì số mạng đúng. Ông mới tâm sự: “Đó là mấy năm tôi phải bỏ một số vốn lớn công ty vào một việc. Tôi đã hỏi kỹ mấy ông thầy. Mấy ông bảo tốt, cứ xúc tiến công việc đi. Tôi yên trí bỏ tiền ra không ngờ mất tất cả. Nhưng tại sao lại hỏng việc được? Rõ ràng hành của cung đại vận sinh cho hành mệnh của tôi như thế bước vào đại vận này là phải tốt chứ? Cụ Thiên Lương trả lời rằng ông mới được địa lợi, nhưng Thiên thời lại hỏng.

Và bây giờ chúng tôi xin trình bày những kinh nghiệm của cụ Thiên Lương.

Ba yếu tố chính


Để xác định một cung Đại vận là tốt hay xấu, có ba yếu tố chính:

1.Hành của bộ Tam hợp cung Đại vận sinh cho hành của bộ Tam hợp cung tuổi, hay đồng hành, là tốt. Khắc là xấu. Đó là yếu tố Thiên thời. Được Thiên thời là được thế thắng, được vận tốt do số mạng dành cho mình là được khá hơn đại vận khác.

2.Hành của cung Đại vận sinh hay khắc cho Mệnh của mình. Sinh là tốt, khắc là xấu. Đây là yếu tố chủ về thế thắng và vận tốt. Chắc các bạn thích Tử vi đã nhận ra rằng đây là yếu tố chủ chốt mà các nhà giải đoán Tử vi thường dùng để xét đoán vận tốt xấu, (nhưng các ông lại không để ý đến yếu tố là yếu tố Thiên thời).


3.Sự thích hợp hay không thích hợp của bộ sao tại Đại vận đối với bộ sao tại cung Mệnh. Có những bộ sao mà quý bạn đều biết: Sát Phá Liêm Tham, Tử Phủ Vũ Tướng, Cự, Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương: Yếu tố này cũng được các sách cổ nói đến và các thầy Tử vi sử dụng, nhưng không có sự hệ thống hóa đầy đủ, chỉ nói sơ trong vài trường hợp (tỷ dụ: Mệnh có bộ sao này, đến cung đại vận gặp bộ sao này, thì tốt hay xấu). Yếu tố thứ 3 này là yếu tố Nhân hòa.


Yếu tố về Tuần Triệt đã được chúng tôi trình bầy, chúng tôi sẽ nhắc lại. Còn các trung tinh, hung tinh là những yếu tố thêm vào cho các yếu tố chính, và chỉ rõ thêm về các trường hợp cá biệt, như vận mạng về gì, hạn về phương diện nào. Thí dụ:


-Được cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa là được đại vận rực rỡ. Nếu lại được các trung tinh tốt và thoát được các hung tinh hãm, thì càng rực rỡ hơn.


-Bị cả 3 yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, cùng xấu, là bị đại vận xấu. Nếu lại bị những sao hung xâm nhiễu, thì đó là đại vận rất nặng, gặp nhiều thất bại, và có thể đi đến cái chết.


Trong số giai phẩm này, chúng tôi xin trình bầy hai yếu tố Thiên Thời và Địa lợi. Các yếu tố khác, sẽ xin trình bầy trong giai phẩm sau.


A-YẾU TỐ THIÊN THỜI


Trong Tử vi, đừng bao giờ quên yếu tố các bộ Tam hợp. Xin nhắc lại hành bộ Tam hợp trên lá số:


1-Thân Tý Thìn: THỦY

2-Hợi Mão Mùi: MỘC
3-Dần Ngọ Tuất: HỎA
4-Tị Dậu Sửu: KIM

Nguyên tắc: Trước hết, ghi nhận hành của tam hợp cung tuổi. Như người tuổi Tý thuộc tam hợp Thân Tý Thìn, hành Thủy.


Rồi muốn đoán cho mỗi đại vận cứ xét hành của tam hợp của cung Đại vận đó. So sánh hai hành (Hành của tam hợp cung tuổi và hành của tam hợp cung Đại vận) thấy sự sinh khắc chế hóa thế nào thì biết Thiên thời của Đại vận là xấu hay tốt.


-Hành tam hợp Đại vận sinh cho hành tam hợp tuổi: tốt, được Thiên thời.


-Hành tam hợp Đại vận đồng hàng với tam hợp tuổi (đây là trường hợp đại vận vào cung có Thái tuế Quan phù, Bạch hổ): tốt. Thiên thời đến cho mình.


-Hành tam hợp Đại vận khắc tam hợp tuổi (trường hợp mình bị khắc nhập) xấu nhất, thời gian và hoàn cảnh chung đánh vào mình và thắng mình, mình bị nhiều thất bại và thua thiệt.


-Hành tam hợp Đại vận bị hành tam hợp tuổi khắc (trường hợp khắc xuất): mình khắc thời vận, gặp nhiều khó khăn, nhưng mình cố gắng và chịu chật vật nhiều, có thể thắng được.


-Hành tam hợp Đại vận được hành tam hợp tuổi sinh (trường hợp sinh xuất): tuy sinh, nhưng sinh xuất, cho nên lao đao, như người mất máu huyết, mất sức lực tiền bạc.


Ghi các trường hợp


Quý bạn cứ theo các giải đoán trên mà xác định về Thiên thời: sau đây, nên ghi các trường hợp.


1)Tuổi Thân, Tý, Thìn Tam hợp Thủy

Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn: được Thiên thời, tốt nhất của mình
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Thủy sinh Mộc, vậy bị sinh xuất.
Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Thủy khắc Hỏa khắc xuất. Mình khắc thời, phải chật vật mới thắng
Đại vận đến Tị Dậu Sửu (Kim). Sinh nhập, Thiên thời.

2)Tuổi Hợi Mão Mùi Tam hợp Mộc

Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi, tức đến tam hợp Thái tuế, tốt nhất.
Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn (Thủy): Mình được sinh nhập. Tốt, mình có Thiên thời.
Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Mình bị sinh xuất, lao đao.
Đại vận đến Tị Dậu Sửu (Kim). Mình bị khắc nhập xấu.

3)Tuổi Dần Ngọ Tuất (Hỏa)

Đại vận đến cung Dần Ngọ Tuất (tam hợp Thái tuế): tốt.
Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn (Thủy): Mình bị khắc xấu
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Mình được sinh nhập. Tốt.
Đại vận đến Tị Dậu Sửu (Kim) khắc xuất, phải chật vật mới thắng

4)Tuổi Tị Dậu Sửu (Kim)

Đại vận đến cung Tị Dậu Sửu (tam hợp Thái tuế): tốt.
Đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn (Thủy): Mình bị sinh xuất.
Đại vận đến cung Hợi Mão Mùi (Mộc) Khắc xuất
Đại vận đến Dần Ngọ Tuất (Hỏa) Mình bị khắc nhập

Dàn bài cho đủ các trường hợp, chớ thật ra bạn nắm vững nguyên tắc các bộ tam hợp và hành sinh khắc, là bạn giải đoán được ngay.


B-YẾU TỐ ĐỊA LỢI


Hành của cung Đại vận sinh cho mệnh của mình, là sinh nhập, tốt nhất.

Hành của cung Đại Vận đồng hành với Mệnh là tốt.
Hành của Mệnh mình sinh cho hành cung Đại Vận, là sinh xuất, lao đao.
Hành của Mệnh mình khắc hành cung Đại vận: Khắc xuất, bị chật vật nhưng có thể thắng.
Hành của cung Đại vận khắc hành của mệnh: Khắc nhập, xấu, thất bại.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương
Tôi học Tử vi: NHỮNG BÍ QUYẾT GIẢI ĐOÁN ĐẠI VẬN


* Yếu tố thứ ba: bộ sao gặp Đại vận có hợp với bộ sao tại Mạng không?


Trần Việt Sơn


Trong giai phẩm trước, chúng tôi đã trình giải kinh nghiệm của cụ Thiên Lương về việc giải đoán Đại vận. Chúng tôi đã nói đến hai yếu tố đầu, bây giờ xin nói đến yếu tố thứ ba, sau đó sẽ xin nói đến những yếu tố phụ thuộc (nhưng cũng quan trọng).


Nhắc lại: Yếu tố Thiên Thời: được thời vận thì dù các yếu tố khác có kém, mình cũng khá. Xét yếu tố này, phải cân nhắc tam hợp cung tuổi của mình và tam hợp cung đại vận: nếu đến tam hợp Đại vận đồng hành với tam hợp tuổi, mình được khá nhất; tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, là có Thiên Thời tốt; tam hợp Đại vận khắc tam hợp cung tuổi: khó khăn nhất và hoàn cảnh thắng mình. Tam hợp tuổi sinh cho tam hợp Đại vận là bị sinh xuất: mình bị lao đao, có khá được cũng mệt mỏi tiêu hao nhiều.


-Yếu tố hai là yếu tố Địa lợi: phải ghi hành của Mệnh mình (tức là Mệnh của mình là người Kim, Mộc, Thủy, Hỏa hay Thổ) rồi xét xem Đại vận đến cung nào, hành của cung này sinh khắc cho Mệnh thế nào. Tùy theo các thế sinh khắc mà ta đã biết: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, ta biết được cung Đại vận sinh khắc chế hóa như thế nào với Mệnh của ta. Cung Đại vận sinh cho Mệnh của ta là tốt nhất. Cung Đại vận hòa với Mệnh của ta là trung bình. Mệnh của ta sinh cho cung Đại vận, là ta bị sinh xuất, có đạt được cũng lao đao, cuối cùng cung Đại vận khắc Mệnh của ta, là ta gặp khó khăn, hoàn cảnh chế ngự ta, ta không thể thắng nổi. Nếu Mệnh bị cung khắc, còn có thể xét xem được yếu tố Âm Dương của cung giống Âm Dương của Mệnh thì cũng dở.


Yếu tố thứ ba: bộ sao ta gặp ở Đại vận


Yếu tố thứ ba là bộ sao ta gặp ở Đại vận hợp hay không hợp với bộ sao ta có tại cung Mệnh. Đây là yếu tố mà ta thường thấy ghi ở các sách cổ kim, nhưng các trường hợp này không được giải thích và hệ thống hóa. Cụ Thiên Lương đã hệ thống hóa như sau:


Như trong sách “Tử vi nghiệm lý” cụ đã ghi, cụ phân các bộ chính tinh ra Âm và Dương, Dương là thực hành mà Âm là lý thuyết. Các bộ Tử, Phủ, Vũ, Tướng và Sát, Phá, Liêm, Tham thuộc về Dương và có tánh chất thực hành, các bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật thuộc về Âm và có tánh chất lý thuyết. Hai bên Âm Dương phân ra như vậy là hình ảnh của Lưỡng nghi.


Phân biệt ra Tứ tượng, ta có 4 bộ với tánh chất như sau:

Sát Phá Liêm Tham: 100% thực hành.
Tử Phủ Vũ Tướng: 60% thực hành, 40% lý thuyết
Cự Nhật: 60% lý thuyết, 40% thực hành.
Cơ Nguyệt Đồng Lương: 100% lý thuyết.

Luận ra các thế của Đại vận


Sự khác biệt hay giống nhau là do chỗ thế Âm và thế Dương mà gặp nhau thì nghịch, thường kém tốt; hoặc thế lý thuyết mà gặp thế thực hành thì có phát thêm, nhưng gặp họa lệch lạc, kém tốt. Tuy nhiên, nếu lý thuyết 100% mà gặp thực hành 100% thì phát mạnh hoạt động nhiều nhưng gặp họa nhiều hơn là những thế tuy khác biệt Âm Dương mà thế lý thuyết, thực hành không khác nhau xa mấy (như có thế 60% lý thuyết, 40% thực hành mà gặp thế 40% thực hành 60% lý thuyết thì không khác nhau xa mấy). Cũng vậy, thế 100% thực hành mà gặp thế 60% thực hành, 40% lý thuyết, cũng không khác xa nhau mấy.


Từ căn bản đó, luận ra các thế như sau:

-Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương (yếu, Âm, 100% lý thuyết) gặp Đại vận Sát Phá Liêm Tham (mạnh, Dương, 100% thực hành): phát mạnh thì lại bị nặng, nhiều khó khăn, có thể có những cái rủi lớn.

-Mệnh Sát Phá Liêm Tham gặp Đại vận Sát Phá Tham – giống nhau hợp, tốt.


-Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương đến đại vận Cơ Nguyệt Đồng Lương giống nhau, hợp, tốt.


-Mệnh Sát Phá Tham gặp đại vận Cơ Nguyệt Đồng Lương: kém, nhưng không hiểm nguy, mặc sống kém hơn so với các đại vận Sát Phá Tham (tóm lại là kém đi).


-Mệnh Sát Phá Tham gặp đại vận Tử Phủ Vũ Tướng, cùng Dương, vậy là không có gì khó khăn nặng, nhưng cũng giảm kém xuống một chút vì sự khác biệt về thế thực hành, lý thuyết ( Sát Phá Tham đương hoạt động 100/100, gặp Tử Phủ Vũ Tướng hoạt động giảm đi, nhưng thêm lý thuyết thế vào).


-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp Tử Phủ Vũ Tướng: tốt.


-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp đại vận Sát Phá Tham, phải hoạt động thâm lên như cũng giảm kém chút đỉnh.


-Tử Phủ Vũ Tướng với Cơ Nguyệt Đồng Lương: cũng luận như giữa Sát Phá Tham và Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng sự khắc biệt, sự giảm kém không quá mạnh, là vì Tử Phủ Vũ Tướng còn có 40% lý thuyết so với Cơ Nguyệt Đồng Lương 100% lý thuyết.


-Mệnh Tử Phủ Vũ Tướng gặp Cự Nhật: khác về Âm Dương, nhưng sự chênh lệch trong tỷ lệ lý thuyết và thực hành rất ít, nên sự giảm kém cũng rất ít. Mệnh Cự Nhật gặp Tử Phủ Vũ Tướng cũng luận theo như thế.


Vài yếu tố khác


Luận ba yếu tố trên, đủ thấy được đại cương Đại vận tốt xấu, một cách rất chính xác.


Còn những yếu tố phụ khác, nhưng cũng quan trọng, là các trung tinh lớn và các hung tinh lớn.


Ngoài ra có yếu tố lớn và chúng tôi đã nêu lên trong một kinh nghiệm trước cũng của cụ Thiên Lương, đó là kinh nghiệm về Tuần Triệt như một yếu tố để giải đoán Đại vận, Tuần hay Triệt nói chung làm giảm kém các sao tốt, nhưng lại làm tốt những sao hãm.


Nếu ở cung Mệnh có Tuần giải chế Mệnh thì đến Đại Vận có Triệt, mệnh được cởi gỡ ra và khá lên. Cũng vậy, nếu ở Mệnh có Triệt thì đến Đại vận có Tuần, vận mệnh được gỡ ra và khá lên.


Một lá số để thử nghiệm


Xin lấy một lá số để cụ thể hóa các nguyên tắc trên bằng một cuộc áp dụng thật tế, để dễ nhận định hơn.

e24a775a81ef9767b9a49754fdcd6539_37754709.dsc0472sua.jpg

Lá số trên, Mệnh tại Sửu, cách Sát Phá Liêm Tham; Hỏa mệnh; Âm nam; tam hợp tuổi là Hợi Mão Mùi thuộc Mộc.

Đại vận 12-21 tại Tý – Tam hợp Đại vận là Thân Tý Thìn, thuộc Thủy, Thủy sinh Mộc, vậy là được Thiên thời, yếu tố chính. Cung Đại vận tại Tý là cung Thủy, khắc mệnh Hỏa: mất Địa lợi. Bộ chính tinh là Cơ Nguyệt Đồng Lương, lệch với bộ Sát Phá Liêm Tham, nhưng không nặng bằng khi Mệnh là Cơ Nguyệt Đồng Lương mà gặp đại vận Sát Phá Liêm Tham. Trong giai đoạn này, đương số sống dưới bóng cha mẹ, được đầy đủ điều kiện ăn học, nhưng cũng gặp khá nhiều vấp váp trong việc học thi trượt mấy lần, và lúc cuối đại hạn cũng lên được đại học. Bị một đau tưởng chết.


Đại vận 22-31 tại Hợi – Được Thiên thời vì Đại vận tại Hợi thuộc tam hợp Hợi Mão Mùi đồng hành với tam hợp tuổi. Cung Đại vận thuộc Thủy, khắc mệnh Hỏa, mất Địa lợi, nhưng cũng kéo lại phần nào là vì cung Âm đồng mệnh Âm. Bộ sao nặng về Tử Phủ Vũ Tướng, thuộc Dương cùng với bộ Sát Phá Liêm Tham được lợi lạc. Tuy hành cung Đại vận khắc hành Mệnh, nhưng cũng được khá. Trong đại hạn này, đương số sống cuộc đời nhiều biến cô, chen lẫn tốt với xấu. Đường công danh thi trượt nhiều lần, nhưng đi làm, thi đậu đi làm chức cao, nhưng rồi lại bỏ việc, sống khổ một thời gian ngắn, rồi lại khá lên. Đường vợ con: lấy vợ, sanh con. Sức khỏe: mang những bệnh nặng trong người tưởng khó thể qua khỏi, nhưng rồi vẫn sống được. Tóm lại: nhiều bước thăng trầm, nhưng vẫn khá.


Đại vận 32-41 – Tại Tuất, tam hợp Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa, vậy là tam hợp tuổi bị sinh xuất (Mộc sinh Hỏa).

Đại vận ở cung Thổ, mạng Hỏa, vậy là Mạng bị sinh xuất. Hai yếu tố Thiên thời, Địa lợi bị kém, chủ về sự lao đao. Về bộ sao thấy có Cơ Lương chiếu, Cự Nhật chiếu, chủ về sự giảm kém. Đương số quả gặp những bước lao đao, gây được một ít tài sản lại phải bỏ đi cư gặp mấy lần hạn nặng (vì chánh trị, cụ Ngô Đình Diệm cho đi nằm ấp), một lần đau nặng cả năm trời tưởng chết, nhiều lần thay đổi chỗ ở. Mặc dầu làm việc nhiều nhưng chỉ đủ ăn.

Đại vận 42-51 – Tại Dậu, thuộc Tị Dậu Sửu hành Kim, khắc tam hợp tuổi thuộc Mộc, là mất Thiên thời. Cung Đại vận thuộc hành Kim, hành Hỏa của Mạng khắc Kim, tuy là khắc xuất không nặng bằng khắc nhập, nhưng cũng là xấu, tuy chế ngự được hoàn cảnh và có những thành công, nhưng phải khổ công hoạt động rất nhiều. Được Nhân hòa đúng bộ Sát Phá Liêm Tham như tại Mệnh. Lại được thêm một yếu tố quan trọng: sao Triệt tại đây cởi gỡ cái Tuần của Mệnh nên vận mạng sáng ra, được ổn định hơn.

Đương số trải qua những phen hứng khởi, hoạt động nhiều, đường làm ăn đều hòa hơn, tuy có vài trận đau ốm. Nhưng gọi là thành công như ý muốn thì không có. Tuy nhiên, việc làm ăn, hoạt động và hứng khởi, đều hơn trước, khá hơn trước, cho phép sắm sửa trong nhà, sống sung túc hơn.

Đại vận 52-61 – Đại vận tại Thân, thuộc Thân Tí Thìn, Thủy sinh cho Mộc của tam hợp tuổi. Được Thiên thời, cung Đại vận thuộc Kim, so với mệnh Hỏa là khắc nhập: vẫn phải tranh đấu nhiều để khắc phục hoàn cảnh. Chính tinh gặp thế Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật Đại vận phải giảm kém. Mất yếu tố Triệt cởi gỡ Tuần trong Đại vận trước. Tuy nhiên, yếu tố Thiên thời là quan trọng.

Trong đại vận này, đương số đã bị một vài tật bệnh tưởng nguy nhưng thoát cả. Việc làm ăn được đều hòa và có phần sung túc nhờ được người tốt giúp đỡ. Nhưng đại vận này mới được phân nửa, chưa cho biết rõ hơn.
Muốn rõ chi tiết, phải coi nhưng trung tinh và hung tinh khác trong các cung.

Sự quan trọng của yếu tố Đại vận


-Yếu tố Đại vận rất quan trọng vì nó đứng chủ cho các tiểu vận. Các tiểu vận khá hay xấu là do Đại vận mà ra.


-Phần nào, Đại vận cho phép bốc lên một cách khốc liệt theo Mạng, hoặc có thể vùi dập xuống đến đất đen.

Như một người Mệnh thường nhưng mấy chục năm, chỉ làm những công việc thông thường. Nhưng gặp Đại vận được cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, bổng bộc phát dữ dội. Nhưng qua khỏi Đại vận đó, lại tụt thang, trở về nếp sống cũ.

-Một sinh viên có một cung mệnh rất tốt, tương lai huy hoàng. Gặp phải đại vận mà cả ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa cùng hỏng, thế là đương nhẹ bước thang mây và có tương lai hứa hẹn huy hoàng, anh ta bị nạn lớn và từ trần. Xem lá số, không thấy Mệnh và Phúc chỉ sự yểu vong – nhưng xem đến Đại vận, thấy hỏng cả mấy yếu tố, nên chết. Đại vận thật là ghê gớm vậy (lá số của anh sinh viên này sẽ được cụ Thiên Lương dẫn giải trong số giai phẩm tới)


Đó chỉ là một yếu tố để ấn định tai họa nặng. Cũng có những lá số được Thiên thời hay Địa Lợi hay Nhân Hòa, nhưng bị chết, là vì còn những yếu tố khác.


KHHB số 74G2
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Nghiên cứu Tử vi

10 ĐIỀU SOI SÁNG CHO KHOA NGHIỆM LÝ TỬ VI

Phần I:
1)Các sao Đức và Quí nhân
2)Các sao Tứ hóa
3)Ý nghĩa cung Thiên Di
4)Vòng Thái tuế ở đại hạn và tiểu hạn
5)Thế sinh nhập ở tứ sinh và tứ nguyệt.

· Của giáo sư Lê Trung Hưng – giảng viên Cao đẳng Nông Lâm Súc Bình Dương.

Giáo sư Lê Trung Hưng là một nhà nghiên cứu về khoa Tử vi. Ông thâu thập được rất nhiều kinh nghiệm, qua các lá số của thân nhân, bạn bè, ông lại có biệt tài dẫn giải các kinh nghiệm đó theo lối trình bày pha trộn cả Đông phương và khoa học Tây phương. Nhưng ông không có coi số cho thiên hạ.

Điều đáng quý ở ông cũng như ở cụ Thiên Lương, là dẫn giải tường tận những kinh nghiệm đạt được trong Tử vi, hoặc là kinh nghiệm riêng, hoặc là kinh nghiệm được truyền thụ do cụ Thiên Lương, hoặc là những kinh nghiệm cũ được hiểu qua ánh sáng mới. Giai phẩm Khoa học Huyền Bí được hân hạnh đăng những bài dẫn giải của giáo sư Lê Trung Hưng, và rồi sau này, sẽ còn trình giải thêm nữa về những điểm đã được nêu ra tại đây.
Đây là phần đầu của bài “10 điều soi sáng cho khoa nghiệm lý Tử vi”. Phần thứ 2 sẽ đăng trong số giai phẩm sau. Kính mời quý bạn đọc thưởng thức.

I- PHẦN KHAI TỪ:

Khoa huyền bí Đông Phương thật vô cùng phong phú, nào bốc dịch, nào thần tướng diện, nào nhâm độn, nào địa lý … nhưng phải thành tâm mà nói thêm : Khoa Tử-vi Đẩu Số có những nét khả tín nhất. Bởi lẽ môn này đã căn cứ vào những yếu tố thời gian tương đối đặc thù của mỗi cá nhân : năm, tháng, ngày và giờ sinh, tạo thành sử mệnh cho mỗi cá nhân một cách huyền diệu. Khoa Tử-vi mỗi ngày càng phơi bày nét chính xác của một ngành học nhuốm tính cách nghiệm lý và nhân văn, nó bộc lộ rõ rệt cái khuynh hướng của mỗi số mạng, nó chỉ vẽ dù là bàng bạc cái nghiệp của con người trong cuộc sống, cũng như thể hiện được tinh thần tự do của con người (Xưa nay nhận định thằng thiên cũng nhiều – Nguyễn Du). Định Mệnh trong Tử-Vi chỉ có nghĩa là một khuyến cáo (hơn là một loan báo), kêu gọi chúng nhân tự điều chỉnh đời sống, công danh của mình, để hóa giải phần nào cái căn quả nhận chịu ở đời này (Đức năng thắng số), rồi từ đó tạo cơ duyên hạnh phúc trên căn bản tự giác tự tha. Tử-Vi có ưu điểm là phải luận giải (khoa Áo-Bí biện chứng) tích cực, chứ không phải phú đoán tiêu cực như cổ nho, vô tình làm làm cho Tử-vi bị du vào địa hạt huyền bí (hiểu theo nghĩa bao gồm những luận cứ viễn vông). Tư-Vi không thể hiểu theo nghĩa huyền bí thiếu xác tín, mà phải hiểu là khoa nghiệm lý (nghiệm cái lý của siêu việt tính). Thế nên những công trình nào quyết tâm đi tìm cái chân lý tiềm ẩn trong bản số Tử-vi, cũng nên quảng bá, truyền thông cho tha nhân cùng soi sáng. Trong phạm vi bài tham luận này, kẻ viết chỉ xin triển khai một vài điểm kinh nghiệm đã thấy cảm ứng khá rõ rệt.


II- PHẦN KINH NGHIỆM THÂM CỨU

Gồm có 10 chủ đề diễn ý một cách tương đối nét tinh hoa của bản số Tử-vi

1/ Đức trọng qủy thần kinh : Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan và Thiên phúc.
2/ Huyền thọai của chính diệu : Tứ Hóa (Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kị)
3/ Tha nhân là địa ngục : Thế tương quan Cung Mệnh – Cung Di
4/ Cơn bĩ cực hồi thái lai : Vòng Thái tuế trong đại hạn và tiểu hạn
5/Thuận thiên giả tồn nghịch thiên giả vong : Thế ngũ hành sinh nhập ở Tứ sinh và Tứ tuyệt
6/Tham thì thâm : Thế lấn của vòng Thái tuế
7/ Đời là bể khổ : Vai trò của Thiên mã
8/ Chung thân đối kháng: sao Thiên Tài
9/-Bản tính nhân chi sơ :người Âm, Dương với cung Âm, Dương
10/Thời thế tạo anh hùng : các sao trong lưu niên tiểu hạn.


Đức trọng quỷ thần kinh

Trong hàng ngũ các sao hiền của bản số Tử vi mỗi người, ai cũng biết, mà cũng ít ai lưu tâm đến, đó là bộ Tứ đức (Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức và Long Đức) và bộ Quý nhân (Thiên Quan và Thiên Phúc). Tánh chất của bản thiện thường là hành động trong âm thầm, không lớn lối, không vung vít như bộ hung tinh chiến lược (Không Kiếp Kình Đà Linh Hỏa). Quý vị cứ kiểm nghiệm mà xem: sau sao Thiên đức, Nguyệt đức, Phúc đức, Long đức, Thiên quan, Thiên phúc luôn luôn hóa giải dễ dàng những tai ương do hai quỷ tinh Tuần và Triệt gây ra. Nói cách khác, bộ Tứ đức và bộ Quí nhân không sợ sự kìm kẹp của Tuần không và Triệt lộ, ngược lại nhiều khi chính Tuần và Triệt bị chiêu hồi để giải tỏa các hung tinh khác. Cho nên vào đại vận hay tiểu vận có bộ Tứ đức hay bộ Quí nhân trấn đóng, thì cứ yên tâm về sự xuất hiện của hai sao Tuần hay Triệt ở cung của đại hay tiểu vận (chính sao Tuần còn mở đầu cho một hanh thông nữa là đằng khác).


Huyền thoại của chính diệu:
Nhiều người say mê Tử-vi thường có thói quen đam mê luôn bộ Tứ hóa khi đắc cách và cho rằng: Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Hóa Kỵ (đóng ở Tứ mộ) là bốn sao thần thánh đem bóng dáng hạnh phúc lại cho mình, rồi nhiều khi quên đi cả các chính diệu hiện diện tại cung có Tứ Hóa ấy. Đây là một sự nhầm lẫn cần phải phản tỉnh ngay: Khoa Tử-vi gắn liền với sinh hoạt nghiệm lý (như cụ Thiên Lương chủ trương), nên bất cứ lúc nào cũng phải suy luận và kiểm nghiệm tánh chất của mỗi dữ kiện (được gọi là sao). Do lẽ ấy, bốn sao Tứ Hóa (Khoa Quyền Lộc Kỵ) chỉ là bộ mặt mới của các chính diệu tính theo thập can của tuổi mà thôi. Thí dụ tuổi Kỷ thì chính diệu Tham Lang có bộ mặt mới là Hóa Quyền, mà tuổi Ất thì Hóa Quyền lại là hậu thân của Thiên Lương. Nói cách khác, tùy theo thập can mà chính diệu thủ lãnh những vai trò mới như sau :

- Chủ về thi cử, phúc lành: Hóa Khoa.
- Chủ về địa vị: Hóa Quyền.
- Chủ về tiền của: Hóa Lộc.
- Chủ về sự thầm lặng: Hóa Kỵ.

Thành ra khi thấy Tứ Hóa xuất hiện ở cung nào, ta chỉ nên hiểu là chính tinh đã biến ảo ra, để lãnh sứ mạng nói trên mà thôi. Nói cho cùng, thì không có sao Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Kỵ (hiểu theo nghĩa là những tinh đẩu riêng biệt), mà Tứ Hóa chỉ là sự biến thái của chính diệu tùy theo Thập can vậy.


Tha nhân là địa ngục

Trong vị trí tuần tự của 12 cung trên bản số Từ-vi, cung Mệnh và cung Thiên Di luôn luôn đối mặt nhìn nhau (xung chiếu), đây là ý nghĩa thâm sâu của người sáng chế ra khoa nghiệm lý này : Mệnh là ta, Thiên Di là tha nhân (chứ không phải sự đi xa như nhiều sách đoán luận giải ). Đời sống là trường tranh đấu, ta muốn tồn tại thì phải ganh đua với chúng nhân trong xã hội (tích cực hay tiêu cực), thế nên tha nhân vừa nhìn ta để học hỏi, vừa để đối phó (ngược lại, ta nhìn tha nhân cũng với cung cách này). Điều kiện hòa đồng là cần, nhưng phải có sự khắc chế mới đủ nghĩa sống ở đời (lẽ mâu thuẫn lấy biến dịch làm căn bản nhân sinh), trong ý nghĩa Dịch động ấy, ta lấy luật Ngũ hành làm luận cứ cho sự tương giao của hai cung Mệnh và cung Thiên Di. Thế tam hợp của 12 cung như sau:

–Cung Tị, Dậu, Sửu : Hành Kim
–Cung Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
–Cung Thân Tý Thìn : Hành Thủy
–Cung Hợi Mão Mùi : Hành Mộc

Vậy khi nào hành của cung Mệnh chế ngự được hành của cung Thiên Di thì người ấy mới mong ra đời được đắc thắng và kính nể, bằng trái lại, hành của cung Di áp đảo được hành của cung Mệnh thì rõ ràng là số phận tôi mọi của thế nhân.


Thí dụ : Cung Mệnh an tại Tuất (hành Hỏa), cung Thiên Di an tại Thìn (hành Thủy) ta thấy ngay : tha nhân là Thủy luôn luôn làm tắt Hỏa là bản thân ta, tức là: đời ta là một chuỗi dài thua thiệt ở phút sau cùng mỗi khi tranh sống với thiên hạ. Mặt khác, khi cung Mệnh chế ngự được cung Thiên Di, lúc ấy mới mong được hưởng các sao đẹp ở trong cung Thiên Di (có nghĩa như là những chiến lợi phẩm mà ta thâu đoạt được ở kẻ khác, ta lấy và ta hưởng)


Cơn bỉ cực, hồi thái lai

Mấy lúc gần đây, khi cụ Thiên Lương triển khai tầm quan trọng của vòng Thái Tuế, để giúp người xem Tử vi nhận biết đại vận hên xui. Đại cương cung nào chứa vòng Tam hạp của Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ thì Đại hạn mười năm tại cung đó là thời vận tốt.

Thí dụ Mệnh tại cung Dậu, tuổi Mẹo Âm Nam, Kim Cục, thì theo chiều nghịch ; cung Dậu 4-13, cung Thân 14-23, cung Mùi 24-33 ... Vòng Thái Tuế gác đầu 3 cung Hợi-Mão-Mùi, do đó Đại vận 10 năm từ 24-33 tuổi là lúc thịnh thời, gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên tùy theo 3 đầu cung của Vòng Thái Tuế, nếu gặp đầu cung :

- Có sao Thái Tuế là đắc thời một cách chánh đáng.
- Có sao Quan Phù là đắc thời trong sự tính toán.
- Có sao Bạch Hổ là đắc thời trong sự làm việc thái quá vất vả.

Cho nên người xem số Tử-vi, thấy đến Đại vận của Vòng Thái Tuế, được kể như đã tới hồi thái lai, thoải mái. Nhưng cẩn trọng đề phòng sự thiệt thòi xui rủi đưa tới:

- Tiểu vận đến cung chứa sao Thái Tuế : đáo tụng đình.
- Tiểu vận lâm cung chứa sao Quan Phù : thị phi, bị tai tiếng.
- Tiểu vận lâm cung chứa sao Bạch Hổ : đau ốm, tai nạn.

Nói cách chung: Đại vận của Vòng Thái Tuế là hên, mà tiểu vận của vòng Thái tuế là xui rủi vậy.


Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong

Mười hai cung của bản số Tử-vi, tuy mang 12 chủ đề khác nhau nhưng chúng lại có những gắn bó kỳ lạ, nếu chịu khó luận giải luận ngũ hành của từng cung trên căn bản :

- 4 Cung Tứ Sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
- 4 Cung Tứ Tuyệt : Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Ta thấy 4 cung Tứ Sinh và Tứ Tuyệt khác nhau từng đôi một :
- Cung Tỵ (Hỏa) đối lập với cung Hợi (Thủy)
- Cung Thân (Kim) đối lập với cung Dần (Mộc)
- Cung Ngọ (Hỏa) đối lập với cung Tý (Thủy)
- Cung Mão (Mộc) đối lập với cung Dậu (Kim)

Vậy khi các cung nói trên mang chủ đề gì (trong 12 chủ đề : Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào) thì chúng xung khắc nhau như bản chất cung của nó.

Thí dụ : Tuổi Âm Nam, Mệnh an tại Dậu, ta có :

- Tiền bạc (cung Tỵ) khắc chế với cung Phúc Đức (cung Hợi)
- Huynh Đệ (cung Thân) không hạp với bạn bè (cung Dần)
- Nhà đất (cung Tý) không hạp với hàng con cái (cung Ngọ)
- Bản Mệnh cung (cung Dậu) bất hòa đồng với tha nhân (cung Mão)

Các sự xung khắc trên là một điều loan báo đối với đương số. Để tùy nghi chọn lựa một trong hai điều: Hoặc chọn Tiền Bạc hay chọn Phúc Đức; hoặc muốn Con Cái an toàn hay muốn Nhà đất khang trang.


KHHB số 74F1
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Nghiên cứu Tử vi

10 ĐIỀU SOI SÁNG CHO KHOA NGHIỆM LÝ TỬ VI

Phần II:

6)Tham thì thâm, luật thừa trừ tính theo vòng Thái tuế

7)Đời là bể khổ: sao Thiên Mã là cỗ xe của cuộc đời
8)Chung thân đối kháng: Vai trò độc đáo của sao Thiên Tài
9)Bản tính nhân chi sơ: bản tính con người theo cung đóng Mệnh
10)Thời thế tạo anh hùng: Ý nghĩa của cung Lưu niên

·
Của giáo sư Lê Trung Hưng
(Tiếp theo kỳ trước)

Tham thì thâm


Vòng Thái Tuế ngòai ý nghĩa cho biết thời may vận tốt của mười năm, nó còn cung cấp một đặc tính qúy báu khác, là tìm biết căn tính của con người, cũng như thử thách của đương số trong sinh hoạt thường nhật. Ta nên để ý:

- Tuổi Âm Nam và Dương Nữ : trước khi tới thời kỳ 10 năm của Vòng Thái Tuế, đã gặp 10 năm của Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức.
- Tuổi Âm Nữ và Dương Nam : lại gặp Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức sau khi đã an hưởng 10 năm của Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Cả hai cách trên đều cho ta thấy : Xét luật Ngũ hành thì Vòng Thiếu Dương, Tử Phù, Phước Đức ở thế lấn so với Vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.

Thí dụ : Tuổi Tuất - Dương Nam, thì Vòng Thái Tuế là Hỏa, còn Vòng của Thiếu Dương là Mộc, mà Mộc sinh Hỏa (có nghĩa là mình đang gặp tối đa thuận lợi, lấn tới lấy thời gian Mộc để dưỡng cái TA - Hỏa). Lợi thì có lợi thật, nhưng Luật thừa trừ đã xuất hiện, để ổn định cái bất công, cho nên khi ai bước vào thời kỳ này (Vòng Thiếu Dương) sẽ phải gặp sao Thiên Không ở cung với Thiếu-Dương, đó là nét thâm thúy và đầy nhân -văn, tính nhất của khoa Tử-vi : Ở đời không nên tham vọng, vì quá đáng sẽ gặp "Thiên-Không ở cuối đường hầm" (Hạn Thiên Không thì ai biết xem Tử-vi, đều rõ cái tai hại của nó).


Đời là bể khổ

Sao Thiên Mã là nghị lực của người đời nhưng còn biểu tượng cả chiếc xe đi của đương số. Nếu xét Ngũ hành của cung mà Thiên Mã đóng, với Ngũ hành của bản Mệnh, chúng ta sẽ thấy ngay những tương quan có tính cách cảnh cáo hay nhẹ nhàng là báo trước về chiếc xe mà đương số sử dụng trong mưu sinh ở đường đời :


– Hành Mã khắc hành của bản Mệnh: Chết vì tai nạn xe cộ.
– Hành Mã sinh hành của bản Mệnh: Xe cộ luôn an toàn, giúp đỡ người chủ thật đắc dụng .
– Hành Mệnh khắc hành của Mã: Xe cộ luôn ở trạng thái hư hao, gây tốn kém cho chủ.
– Hành Mệnh sinh hành của Mã: Coi chừng mất xe.
– Hành Mã đồng hành với bản Mệnh: Bình thường mọi chuyện xe cộ, di chuyển.
Thí dụ : Người tuổi Tân Tỵ (Hành Kim). Thiên Mã đóng ở cung Hợi (Thủy). Vậy tức là Mệnh Kim sinh xuất Mã Thủy, ít nhất trong đời phải mất xe một lần. Người Nhâm Ngọ (Mộc) Thiên Mã đóng ở cung Thân (Kim), nên cẩn thận lắm, Mã Kim chém Mệnh Mộc. Vai trò của sao Thiên Mã xét theo khía cạnh này, đã được nhiều người kiểm chứng, thấy hiệu nghiệm rõ ràng.


Chung thân đối kháng

Sao Thiên Tài trong Tử -vi quả là có vai trò độc đáo, nó luôn luôn làm điều trái ngược lại tinh thần của cung mà nó đóng. Sao Thiên Tài ví như vị Thiên Sứ, có nhiệm vụ đảo ngược tình hình ở cung mà Thiên Tài phải hiện diện : nhiều sao đẹp mà gặp Thiên Tài (đồng cung) thì kể như vô dụng, mà nhiều sao xấu gặp Thiên Tài hóa ra đắc dụng. Đắc biệt những cung tiềm ẩn tính cách lượng số (như cung Huynh Đệ, Tử-Tức, Tài Bạch) thì sự hiệu nghiệm nói trên của Thiên Tài quả không sai lệch. Thành ra, điều kết luận về sao này, ta phải nhìn nhận quả là "Thiên Tài" (genie) hiếm có vậy.


Bản tính nhân chi sơ

Khoa Tử-vi Đẩu số, ngoài việc tiên tri các điều công danh, thọ yểu,... của mỗi con người, nó còn là khoa tâm lý thực nghiệm khá chính xác. Quý vị thích nghiên cứu trong tinh thần triết học, hãy để ý sự kiện (Đã được nghiệm lý) sau đây : Áp dụng luật tính âm-dương cho bản mệnh với cung Mệnh, là :

- Người Âm đóng cung Âm : thế lưỡng Âm nên thái quá nhu nhược, rất thâm trầm, khôn ngoan ...
- Người Dương đóng cung Dương : thế lưỡng Dương nên quá cương, rất nóng nảy đến độ hồ đồ võ phu ...
- Ngừơi Dương đóng cung Âm : có thực lực nhưng kín đáo nhún nhừơng, biết mình, biết người ...
- Ngừoi Âm đóng cung Dương : người kém thực lực, sống giả tạo, nhiệt tình vay mượn ...

Thí dụ : Người Quý Mùi (Mệnh Âm) Cung Mệnh an tại Dần (Cung Dương), nên chưa cần phải nhìn sao, ta có ngay một ý niệm là người không bản lãnh, biết ít mà phô trương nhiều, sống tạm bợ với nhiệt tình vay mượn.

Thời thế tạo Anh-hùng

Tiểu hạn mỗi năm được xác định tại một cung. Người xem Tử-vi hay có thói quen lấy cung tam Hợp và cung Nhị hợp với cung lưu niên, để giải đoán vận hạn hên xui của một năm (giống như cách xem đại hạn 10 năm). Thật ra muốn tìm hiểu thời kỳ đại hạn là hay hoặc dở ta chỉ nên luận giải về vòng Thái tuế, còn tiểu hạn một năm phải bám sát các Sao ngụ trong cung lưu niên. Một năm cũng có thời kỳ riêng của mỗi hành trong Ngũ hành :

- 2 tháng rưỡi đầu mùa Xuân : hành Mộc
- 2 tháng rưỡi đầu mùa Hè : hành Hỏa
- 2 tháng rưỡi đầu mùa Thu : hành Kim
- 2 tháng rưỡi đầu mùa Đông : hành Thủy
- 15 ngày cuối mỗi mùa : hành Thổ.


Rồi từ căn bản này, ta đối chiếu với các hành của sao trong cung lưu niên muốn xem, và phải để ý đến tính chất : sao thuộc hành nào sẽ hoạt động (giống như phiên trực của quân đội) vào thời gian của hành ấy (chứ không thể có sự hoạt động nhất loạt của các sao trong suốt năm mà người đời thường chọn ngày cúng sao hạn là vì vậy).

Thí dụ : Người Mệnh Thổ, lưu niên tại cung Tý có các sao :
-Hành Mộc : Đào Hoa, Ân Quang, Hóa Quyền.
-Hành Hỏa : Thiên Khôi, Thiên Đức, Địa Kiếp, Phi Liêm.
-Hành Thổ : Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù.
-Hành Kim :Thiên Khôi (đới Kim), Tả Phù (đới Kim), Hồng Loan (đới Kim)
-Hành Thủy: Tham Lang, Hồng Loan.


Ta giải đáp dễ dàng niên hạn của đương số như sau:
-Mùa Xuân : Có quý nhân giúp đỡ, thăng tiến công danh rất mau.
-Mùa Hè : May rủi liền nhau, càng cao danh vọng càng dày gian nan.
-Mùa Thu : Trở lại sự bình yên, có bằng hữu thuận thảo.
-Mùa Đông : Tình cảm thoải mái, yên vui ...

Riêng 15 ngày cuối mỗi mùa (Thổ) gặp các sao Phúc Đức, Tuyệt, Thiên Tài, Tả Phù nên hay có chuyện lo nghĩ, nhờ Thiên Tài hóa giải nhóm hung tinh : Tuyệt và Tả Phù ... thành ra cũng qua khỏi vào phút chót. Khi áp dụng luật Ngũ Hành cho sao theo mùa, ta không nên quên so sánh Ngũ Hành của sao với Ngũ Hành của Cung, để thấy rõ hơn cường độ hoạt động của các Sao bị ảnh hưởng như thế nào trong mùa của nó.
Qua thí dụ trên : Cung Tý là Thủy, đương nhiên các sao Hỏa đã bị kém hiệu lực, các sao Mộc tăng cường lực, các sao Kim bị suy nhược, các sao Thổ bị trở ngại và các sao Thủy khởi sắc nhất (Giang sơn nào anh hùng nấy)

Tóm lại, bài viết này không ngoài mục đích muốn cống hiến người hâm mộ Tử-vi một vài quan điểm mới, để cùng nhau soi sáng một khoa học cổ điển (vốn bị hiểu lầm là lạc hậu, thoái hóa) có giá trị cao độ của ngành nghiệm lý xã hội.

KHHB số 74G1
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
ĐỌC TỬ VI NGHIỆM LÝ CỦA CỤ THIÊN LƯƠNG

· Những nguyên tắc, bí quyết giải đoán số Tử vi đã được chứng nghiệm.
· Đây không phải là khám phá hoàn toàn mới, mà là bí quyết của cổ nhân được hệ thống hóa và khoa học hóa.

Trần Việt Sơn

Như đã trình bầy với bạn đọc trước đây, sau khi chúng tôi được phép trình giải các bí quyết và chìa khóa giải đoán Tử vi của cụ Thiên Lương trên giai phẩm Khoa học huyền bí, chúng tôi đã thể theo ý kiến của nhiều bạn đọc để đề nghị chính Cụ viết tập sách Tử vi nghiệm lý, và hẳn nhiên chúng tôi phải vui sướng khi thấy cuốn sách ra đời. Sách này cũng có những sở trường và sở đoản, chúng tôi cứ xin thật tình trình bầy.

Đơn giản

Trước hết, thành thật mà nói, cuốn sách Tử vi nghiệm lý Lý mệnh học có phần đơn giản và không làm hài lòng tất cả mọi người. Chúng tôi đã được tiếp xúc với nhiều bạn đọc.

Có bạn nói: viết vắn tắt quá, chúng tôi khó hiểu (nhưng rồi những bạn này cũng cho biết ngay rằng mình mới học Tử vi, cần những sự giảng giải thật kỹ).

Có bạn lại nói: đơn giản thật, nhưng không sao. Cái đó càng thúc đẩy chúng tôi cầm lấy cây bút để vẽ trên tờ giấy, hầu mở ra tất cả các trường hợp. Thí dụ như chúng tôi đã biết 4 bộ Tam hợp và hành của 4 bộ Tam hợp đó rồi, thì chúng tôi chỉ cần luận chung quanh cái đó. Có những đoạn cụ Thiên Lương chỉ nói đến một trường hợp, của một bộ Tam hợp thôi, nhưng nếu chúng tôi nắm được nguyên tắc rồi, chúng tôi luận ra cho cả 3 bộ tam hợp còn lại, thế là cũng được. Chỉ sợ rằng luận sai, nhưng đã nắm vững nguyên tắc sinh khắc chế hóa của các hành thì không sợ nữa.

Có một số bạn đã thành thạo về những bí quyết giải quyết mà giai phẩm Khoa học huyền bí từng trình bầy, lại bảo: “Cuốn sách đơn giản thật, quá đơn giản là khác, nhưng sự vắn tắt đó lại càng tập giúp trí nhớ cho những người đã rõ nguyên tắc, khác với những bài mà giai phẩm Khoa học huyền bí trình bầy trước đây, có phần lòng thòng. Chúng tôi được sử dụng cuốn Tử vi nghiệm lý này, rất mừng. Các nguyên tắc có đầy đủ, trình bầy gẫy gọn, mà không phải giải thích dài giòng.

Rốc hết cõi lòng

Chúng tôi đã có những lúc hơi buồn rằng sách cô đặc, nhưng được nghe những bạn đọc cho biết như trên, chúng tôi lại trở nên vui. Không phải ai cũng cho rằng sách cô đặc là điều đáng tiếc, có bạn đã cho rằng sách cô đặc thì người nghiên cứu tử vi càng có sáng kiến của riêng mình để tìm hiểu và càng thấu triệt, và người đã rành các nguyên tắc, càng được thấy sự cô đặc và đáng thích, nhất là sách càng cô đặc lại càng chính xảo.

Một bạn từng theo dõi cẩn thận các bài “những kinh nghiệm của Thiên Lương” trên giai phẩm KHHB, đã cho cảm tưởng trong một câu ngắn nhưng hàm xúc: “Cụ Thiên Lương đã rốc hết cõi lòng”.

Chúng tôi cũng nghĩ vậy, cụ Thiên lương đã rốc hết cõi lòng, không dành riêng những bí quyết nào khác nữa để làm bảo bối riêng. Họa chăng là còn những trường hợp nhỏ để giải đoán, nhưng các cách nhỏ đó đã có sẵn trong những sách của cổ nhân.

Cụ Thiên Lương và cổ nhân

Dần dần, chúng tôi mới tìm hiểu lại bước đường khám phá của cụ Thiên Lương. Chúng tôi muốn tìm xem cụ đã tạo ra những khám phá của riêng mình và trái với cổ nhân, hay là cụ theo đúng cổ nhân?

Và chúng tôi thấy ra điều này: cụ Thiên Lương không đi trái với cổ nhân. Nhưng cổ nhân chỉ nêu lên những cách biệt lệ trong những câu phú mà không hệ thống hóa thành nguyên tắc giải đoán áp dụng cho mọi trường hợp. Cụ Thiên Lương đã nắm lấy những biệt lệ không được giải thích của cổ nhân để tìm ra lý do dẫn giải đến các cách giải đoán đó, rồi hệ thống hóa thành một nguyên tắc. Sự gắng công của cụ Thiên Lương vì thế là một sự gắng công đáng tin, bởi vì có cả các kinh nghiệm của cổ nhân ở trong.

Chúng tôi xin lấy một vài thí dụ: bộ ba Hồng Loan, Đào hoa, Thiên Không, Quý bạn có những cách, hay những biệt lệ, được giải đoán trong các câu phú đoán của cổ nhân nào “hạn ngộ Thiên không nhi táng quốc”, nào “có Thiên Không ngộ Hồng Loan thì số đi tu”, nào số Đào hoa,…khiến quý bạn có phần bối rối khi tiếp nhận những cách giải đoán mâu thuẫn, tuy là các kinh nghiệm cổ nhân đều đúng. Nhưng với bút trên tay để vẽ trên giấy, khởi từ các cách an các sao Hồng Loan, Đào Hoa, Thiên Không, thấy những thế gặp nhau giữa các sao đó, nhận ra những vị trí chủ và vị trí khách của các sao đó tùy theo các cung, có thể mường tượng được ngay ý nghĩa. Đó là giai đoạn đầu, đã hệ thống hóa được cho tất cả các trường hợp Hồng loan, Đào hoa, Thiên không. Giai đoạn sau là kiểm chứng bằng các lá số. Công trình kiểm chứng này hẳn nhiên lâu dài, mấy chục năm trường, để rồi đi đến độ nắm vững nguyên tắc trong tay, cụ Thiên Lương và các môn đệ của cụ đã có thể vừa liếc nhìn lá số, đã thấy ngay những nét chính. Có lần tôi thấy cụ Thiên Lương gạt ngay một lá số mà bảo “Không muốn xem lá số này”, vì đó là lá số của một người xảo quyệt hay của một người làm giàu vì tham nhũng (chính chúng tôi đã từng chứng kiến những vụ như vậy và được bằng chứng ngay rằng lời giải đoán đã rất đúng).

Một ưu điểm: các lá số tập trung

Vào thời kỳ đầu mà chúng tôi đăng những lá số danh nhân, cổ nhân do cụ Thiên Lương giải đoán, chúng tôi có sự bỡ ngỡ và nhiều bạn đọc cho rằng bí hiểm, khó hiểu, có quý vị sành Tử vi lại cho là “chẳng ra nguyên tắc nào cả”. Nhưng khi các chìa khóa giải đoán được trình bày ra lần lượt, những lời giải đoán các lá số của cụ Thiên Lương trở nên dễ hiểu hơn. Thành thử phải nắm hết các chìa khóa giải đoán, mới thấu được các bản giải đoán đó của cụ Thiên lương.

Chúng tôi đã trở lại các bản giải đoán cũ để nghiên cứu lại. Giở lại các giai phẩm cũ là một việc phiền toái: phải mất công đi tìm, phải dò số giai phẩm này, dò số kia. Sự phiền toái đó không còn nữa, khi có một cuốn sách tập trung các lá số tiêu biểu với các lời giải đoán. Muốn tìm gì, cứ trong cuốn sách đó với 38 lá số. Chiếu lên phần đầu, thấy các lời giải đoán đều có những nguyên tắc để dựa vào.

Đây là lần đầu mà có một cuốn sách dám nêu lên những lời giải đoán đầy đủ.

Nhân đây, chúng tôi muốn nhắc lại một lời độc giả: “Giải đoán cho những danh nhân và cố nhân mà mọi người đều biết cuộc đời thì có khó gì. Cứ dựa vào tiểu sử các vị đó mà đoán”.

Chúng tôi thưa lại: “Những lá số danh nhân và cổ nhân, đem ra mà giải đoán, không phải là để chứng minh tài đoán đúng hay trật, mà là để giải thích, để chứng nghiệm nhưng nguyên tắc giải đoán lá số. Chắc quý bạn đọc đều thấy dụng ý đó. Nếu nguyên tắc để giải đoán mà phù hợp với cuộc đời của danh nhân cổ nhân thì nguyên tắc là đúng, đáng tin được. Nhân đấy, quý bạn mới tiếp thu các nguyên tắc giải đoán. Nhưng chúng tôi xin quý bạn cứ xét hàng trăm hàng ngàn lá số những người chung quanh mình, để thấy các nguyên tắc giải đoán là thật đúng rồi hãy tiếp thu hẳn các nguyên tắc ấy.

Công việc làm của giai phẩm Khoa học huyền bí

Trong số các chìa khóa giải đoán mà cụ Thiên Lương nêu lên trong cuốn Tử vi nghiệm lý, đã có một số quan trọng được trình giải trên giai phẩm KHHB. Còn một số chìa khóa nữa chưa được trình giải:
-Ý nghĩa từng sao trong vòng Thái Tuế đối với Mệnh Thân.
-Luận thêm về Lưu hà, Kiếp sát.
-Lục sát tinh: Không Kiếp Kình Đà Linh Hỏa
-Phá toái
-Cô thần, quả tú.
-Thiên khốc, Thiên hư
-Luận giải về các nhóm chính tinh đi với các sao thích hợp.
-Cung đại hạn.

Chúng tôi sẽ xin tiếp tục trình giải về những điều nào còn thiếu xót.
Chúng tôi đã trình bầy về cung nhị hợp của cung Mệnh và cung Thân, ảnh hưởng vào Mệnh và Thân như thế nào.

Ngay trong số này, chúng tôi xin trình bày về 3 nguyên tắc chính của cụ Thiên Lương để giải đoán về Đại vận. Các cung Đại vận rất quan trọng và ảnh hưởng tuyệt đối vào các cung Tiểu vận, cho nên cần xác định về các cung đó. Sau đó, chúng tôi lại sẽ xin triển khai những kinh nghiệm nào còn thiếu.

Một công việc nữa mà chúng tôi dự trù là khai triển những điểm của cụ Thiên Lương trong cuốn sách Tử vi nghiệm lý, mỗi khi có bạn đọc muốn hỏi thêm. Hoặc chúng tôi sẽ xin cầu cụ Thiên lương trả lời cho rõ. Vậy xin quý bạn đọc có gì thắc mắc, cứ viết thư hỏi.

Lại có một công việc nữa, là tóm thâu các chìa khóa giải đoán tử vi bằng những đồ bản tóm tắt, quý bạn cứ chiếu vào đó là thấy ngay và nắm ngay được những nét chính của cuộc đời người có lá số.

Và lại có một công việc cuối cùng nữa chúng tôi là lấy lại một số các lá số danh nhân và cổ nhân để nhấn mạnh lại các điểm đã được suy ra từ các nguyên tắc giải. Như thế, các bạn sẽ có những bài thực nghiệm giải đoán quý giá.

Sau khi có cuốn sách Tử vi nghiệm lý mà chúng tôi trình bầy ít điểm ở trên, chúng tôi hi vọng cuốn sách sẽ giúp ích được quý bạn nghiên cứu Tử vi rất nhiều, và riêng phần chúng tôi cũng xin tự nguyện tiếp tục trình giải thêm nữa.

Ngay lúc này, chúng tôi đã trình bầy với cụ Thiên Lương để chuẩn bị một cuốn sách trọn vẹn, đầy đủ trong chi tiết về các bí quyết giải đoán lá số Tử vi với đầy đủ giải thích khoa học. Chúng tôi hi vọng rằng cụ Thiên Lương thực hiện cuốn này để khai triển cuốn đầu, và khi cụ thực hiện xong, thì giá giấy và công in phải hạ xuống, để cuốn sách có thể sớm ra đời với giá rẻ.

KHHB số 74G1
Thần khê định số
GIẢI THÍCH NHỮNG CÂU PHÚ ĐOÁN TRONG MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP:

· Mạng có Nhật Nguyệt tại Sửu, Mùi
· Tham Lang thủ Mạng Sát Phá Liêm Tham
· Tử vi, Lộc tồn
· Thất sát triều đẩu

Đông Nam Á – T.V.S trình bày

Chúng tôi được biết cụ Đông Nam Á thường sử dụng Thần khê định số để đoán số mạng, nên có yêu cầu cụ cho những bí truyền của cụ, mến KHHB, Cụ đã thẳng thắn kể trường hợp được bộ Thần khê định số của cụ bói Lợn, chợ Đường Cái (Hưng Yên) như thế nào. Cụ lại được rất nhiều trường hợp áp dụng phú đoán Thần khê định số của Lê Quý Đôn, hoặc với kinh nghiệm thời sống chung với cụ bói Lợn, hoặc với những kinh nghiệm riêng sau này. Chúng tôi đã kể ra hai trường hợp những kinh nghiệm đó. Chúng tôi còn làm thêm một công việc nữa là nhờ cụ giải những phú đoán đã có nêu lên trong các bài. Sau đây cụ Đông Nam Á làm công việc đó. Trước hết, cụ ghi các câu phú, sau đó, là các lời giải (để cho rõ nghĩa hơn, chứ chính ra các câu phú cũng đã khẳng định rõ ràng).

Diệc sinh đồng niên, đồng nguyệt, đồng nhật, đồng thì, nhi phú quý thọ yểu bất đồng, khán trường chân, trường giã. (Trần Đoàn)

Nếu sinh cùng năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng giờ, mà phú quý, thọ yểu không giống nhau, thì xem nét tướng để phân định số mạng. Lời của Trần Đoàn tiên sinh đã được dùng làm nền tảng cho Thần khê định số do cụ bảng Lê Quý Đôn nêu lên và bây giờ do cụ Đông Nam Á thành tâm phổ biến để quý độc giả Khoa học huyền bí tiếp thu.

Trường hợp hai người sinh cùng một lúc phải được phân biệt do nét tướng, vì tuy sinh cùng giờ, nhưng có người ăn vào sao này, có người ăn vào sao khác. Trường hợp chung của mọi người cũng vậy: trên lá số, không phải chỉ có một hai chính tinh ở cung mệnh mà còn có một số những sao khác cũng rất mạnh: Không, Kiếp, Kình, Đà, Kị, Hình, Khốc, Hư, Kiếp Sát, bản mệnh của một người cũng có thể đặt dưới dấu hiệu của một trong những sao đó, thay vì đặt dưới dấu hiệu của một chính tinh. Vậy cho nên phải xét tướng, xem vận mạng của một con người đặt dưới dấu hiệu của sao nào, sau đó mới quyết đoán được vận mạng.

PHÚ THẦN KHÊ ĐỊNH SỐ (LÊ QUÝ ĐÔN)

Mệnh có Nhật Nguyệt tại sửu mùi
Những người mệnh có âm dương
Phải xem ngay mặt, thần quang thế nào.
Nếu mặt tròn, không hao chẳng khuyết,
Thì tính hiền và biết thủy chung
Lại như thêm cặp mắt trong
Trên đường khoa bảng có công đạt thành.

Những người hứa hẹn khoe màu,
Mặt thường khuyết hãm mắt, mắt sâu, nhọn mồm
Phải coi số lại cho tường,
Kẻo lầm không, kiếp, âm, dương, kị, hình
Nên suy đoán cho tinh mọi lẽ
Thì mới tường cội rễ sâu nông
Bởi chừng nhật nguyệt ngộ không
Tham tàn, e lại hung bạo không lường
Dù thêm có khúc xương thủ chiếu
Càng cơ mưu lắm mẹo hại đời.

Tham lang thủ mạng
Tham lang mà ngộ lộc, quyền
Sức như Phàn Khoái, tửu nhường Lưu Linh
Nếu lại thêm Mã, Hình, Ấn chiếu
Tài tướng quân danh trấn biên cương,
Tai to, nhỡn lộ, tiếng vang,
Râu hùm, hàm én, ngang tàng cường hung
Tuổi Mậu, Kỷ, Quý, cùng với Giáp,
Có tướng trên mới được Vương hầu.

Sát, Phá, Liêm, Tham

Người nào Sát, Phá, Liêm, Tham,
Phải uy nghi, phải hiên ngang mới hùng,
Nếu tóc rậm, đầu không vuông vức,
Mắt đỏ hoe, miệng tựa thềm thừ,
Như say, như tỉnh đôi khi,
Ất, Canh, Đinh, Bính liệu bề lo toan.
Có Thiên Đức lòng hiền khả phú
Ngộ Kình, Đà e khó thọ tường,
Dần, thân mạng có Tham Lang,
Hổ, Long, Linh, Hỏa hiên ngang anh hùng,
Tham ngộ Tuế, dễ lòng tửu sắc,
Râu rậm xanh, thê thiếp đa phòng
Tham, hình mặt đỏ môi cong
Nên tu nhân đức, mới mong thọ trường.

Mạng Tử Vi, Lộc Tồn
Tử vi mà gặp lộc tồn
Hoặc Long, Phượng chiếu các phương triều về
Dạ hành đắc cách cẩm y
Nên coi thần sắc thuộc về màu chi
Thân đầy, nét mặt phương phi
Tam đình câu hãm, phát về phú thôi
Lại phải xe nếu người mặt trắng
Thân như que, liếng thoắng, mồm loe,
Ấy phường gian yểu kể chi
Giầu sang giấc mộng, đức kia liệu bàn.

Thất sát triều đẩu
Thất Sát đóng tại Dần Thân
Lộc Quyền giáp Quý nhiều phần chắc nên
Hợp cho các tuổi mệnh Kim
Người cao, da trắng thần hiền mới hay
Nếu môi đỏ, tóc mây thưa thớt.
Dường công danh, văn nghiệp dễ thành,
Kỵ thay tuổi Bính tuổi Đinh
Vì hao, hổ, kình, hình lại lâm
Người xương xẩu, lẹm cằm, mũi huếch,
Phải nên phòng bệnh tật hiểm nguy
Đức nhân may giải mọi bề
Trán cao, da tía nghiêng về phú thương
Nhưng lòng hiểm, dạ toan sâu sắc
Thì chỉ e chữ phúc suy vong
Như cây cằn bị gió rung,
Tử tôn bất khả, long đong tuổi già.

GIẢI NGHĨA

Những người mệnh có nhật nguyệt tại sửu, mùi

Nếu người mặt tròn, phúc hậu, thì tánh hiền, có thủy chung, nếu lại thêm cặp mắt trong, thì có công danh, khoa bảng, học hành được.

Còn những người hứa hẹn lung tung, mặt khuyết hãm, mắt sâu, nhọn miệng, thì tuy cũng có nhật nguyệt tai sửu mùi ở mạng nhưng phải coi xem có kị, hình, không kiếp thì người đó thuộc các sao này chứ không phải thuộc nhật nguyệt. Cái ý chính của cụ Bảng Lê Quý Đôn là muốn bảo rằng trong cung Mệnh, không phải cứ gặp chính tinh nào là mình ăn theo chính chính tinh đó, còn phải xét xem các sao khác, và xem nét tướng của mình ăn vào sao nào trong mệnh, thì mới đích thực vận mạng của mình theo sao nào. Nếu mệnh có nhật nguyệt mà lại có không, kiếp lâm vào, lại thấy dáng người, nét tướng và tính tình như trên, thì đó là người hung bạo, dù có thêm xương khúc, cũng không phải là tài giỏi, học khá mà chỉ thêm lắm mẹo hại đời, do cái hiểu biết gia tăng của mình.


Tham lang thủ Mạng

Có Tham Lang thủ Mạng, thêm Lộc Quyền, lại thêm Mã, Hình, Ấn chiếu, thì chưa phải là tuyệt thế. Phải có sức khỏe (như Phàn Khoái) và phải uống rượu nhiều (cũng là một thứ giỏi theo quan niệm xưa) thì mới được danh trấn biên cương. Sức khỏe như Phàn Khoái bộc lộ ra bằng những nét tướng vai to, mắt lộ, tiếng vang, râu hầm, hàm én, và tánh tình ngang tàng, những người tuổi Giáp, Mậu, Kỷ, Quý được như vậy là có số vương hầu.

(Chú thích của TVS. – Ngắm ra có phần đúng, là vì cũng được các sao Tham Lang thủ Mạng, Lộc Quyền tại Mạng, lại thêm Thiên Mã, và một lô sao tốt chiếu thế mà người có lá số này, mà chúng tôi biết lại chẳng được danh trấn biên cương hay lên tới Tể tướng Vương hầu, mặc dù mình cũng tuổi Kỷ. Là tại sao vậy? Là tại không có sức như Phàn Khoái, không rượu như Lưu Linh, không vai to, tiếng vang, râu hầm, hàm én, không ngang tàng cường hung. Phải có những nét tướng vừa kể mới thật là ăn vào Tham Lang và Quyền Lộc. Nhưng cũng có những cách giải đoán khác vì biết đâu rằng còn những Tuần, Triệt giảm chế, và các sao tốt có thể còn khắc chế hành của Mệnh).

Sát Phá Liêm Tham

Người có Sát Phá Liêm Tham là tốt, nhưng phải uy nghi, hiên ngang mới thật là đúng với cách đó và mới hùng (nghĩa là làm võ và làm lớn).

Còn cũng là Sát Phá Liêm Tham mà tóc rậm, đầu không vuông, mắt đỏ, miệng như miệng cóc, người khật khừ như say như tỉnh, với các tuổi Ất, Canh, Đinh, Bính thì không được ăn về Sát Phá Liêm Tham. Nếu có Thiên đức và lòng hiền, thì gỡ được và làm giầu được. Nhưng nếu có Kình, Đà thì lại khó thọ.

Mạng ở Dần, Thân, có Tham Lang, có thêm Hổ Long Linh Hỏa thì anh hùng.

Tham Lang mà có Tuế, thì dễ say tửu sắc, nhất là người râu rậm, thì nhiều thê thiếp.

Có Tham Lang mà có Hình, nếu lại mặt đỏ, môi cong thì kém thọ. Phải tu nhân đức mới mong thêm chữ thọ.

Mạng Tử vi, Lộc tồn

Tử vi lại có thêm Lộc tồn là rất tốt, nếu lại thêm Long, Phượng càng tốt. Nhưng chỉ tốt thật sự cho người nào thân đày đặn, mặt mũi phương phi, thì tuy tam đình không cân đối, cũng được hưởng chữ phú. Còn nếu cũng được những cách tốt trên trong lá số, nhưng người gầy như que, miệng nói liến thoắng, miệng loe ra, thì gian và yểu, dù có giàu sang cũng chỉ được nhất thời, sau hỏng, phải lấy đức độ mà rắng gỡ số.

Thất sát triều đẩu

Thất sát tại Mạng ở Dần, Thân, có Lộc Quyền, người tuổi Giáp, Quý là tốt lắm, nhưng phải người mệnh Kim và có tướng da trắng, hiền hậu mới hay. Nếu lại được môi đỏ, tóc mây và thưa, thì dễ thành công trong văn nghiệp.

Những người tuổi Bính, Đinh mà có Hao, Hổ, Kình, Hình, Tướng người xương xẩu, cằm lẹm, mũi huếch, thì phải coi chừng nhiều tật bệnh, phải ăn ở ngay lành, làm việc phúc đức mới giải đi được. Nhất là nếu được trán cao, da tía, cũng được dự phần chữ phú. (Nhưng nếu là người có tánh hiểm độc, thì chữ Phúc suy vong như cây cằn bị gió, con cháu khó mà khá được hoặc bần yểu, tuổi già bị long đong).
(Chú thích: đây là trường hợp cụ bói Lợn mà cụ Đông Nam Á sẽ kể lại trong một kỳ sau).

KHHB số 74G2
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Nghiên cứu Tử vi
KHOA TỬ VI “THẦN SẦU “ ĐỜI NHÀ TRẦN

· Chuyện kể trong sách Đông A di sự
· Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư đều là tay Tử vi giỏi
· Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn được truyền khoa Tử vi
· Truyện Đoàn Nhữ Hài và số mạng rất lạ.
· Các phái tử vi ở VN ngày nay.
· Các cao thủ tử vi: Nguyễn Mạnh Bảo, Song An Đỗ Văn Lưu, Nguyễn Phát Lộc, Hoàng Quân, Nguyễn Văn Y, Việt Viêm Tử, Vân Điền Thái Thứ Lang.

Giáo sư Trần Quang Đông

KHOA TỬ VI TẠI VIỆT NAM

Khoa Tử vi truyền sang VN vào năm Đinh Tỵ (1.257) niên hiệu Nguyên – Phong thứ 7 đời Trần. Quan nhà Tống không chịu lệ thuộc nhà Nguyên sang xin nội thuộc VN. Trong số này có Hoàng Bính mang 1200 người, tông thuộc xin theo vua Trần Thái Tôn. Hoàng Bính tiến cử con gái cho vua Trần, được phong là Huệ túc phu nhân. Hoàng Bính có mang theo hai bộ sách Tử vi rất quí giá, đó là bộ “Tử vi chính nghĩa” và bộ “Triệu Thị Minh thuyết Tử vi kinh”. Hoàng Bính truyền khoa Tử vi cho ba người: “Một là vua Trần Thái Tôn (như vậy vua Thái Tôn là con rể của Hoàng Bính) hai là Hưng Đạo Vương, ba là Huệ túc phu nhân. Nhưng trong đời Trần có rất nhiều nhà nghiên cứu Tử vi thành danh, hơn cả Hoàng Bính. Trong sách Đông A di sự kể lại những nhà nghiên cứu Tử vi đời Trần nổi tiếng là: Chiêu minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật, Hưng nhượng vương Trần Quốc Tảng (Xin đừng lầm với Hoài văn hầu Quốc Toản là người bóp bẹp quả cam), Nhân huệ vương Trần khánh Dư, và cháu nội Chiêu minh vương là Trần nguyên Đán. Các công trình nghiên cứu của họ Trần được chép thành bộ “Đông A di sự”. Đông A di sự là bộ sách chép tất cả những gì xẩy ra trong đời Trần, nhưng đến nay bị thất truyền, chỉ còn phần chép về Tử vi là còn lại, do con cháu nhà Trần lưu giữ (Chữ Đông với chữ A ghép thành chữ Trần).

Phần cuối cùng của sách có chép: Năm Ất Sửu, niên hiệu Xương phù thứ 9 (1386) quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán tính số Tử vi thấy Thái thượng Hoàng Nghệ Tôn có Vũ Phá thủ mệnh, coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như ruột gan chắc chắn sẽ nghe Lê Quý Ly mà giết vua Trần Đế Nghiễn, thấy Quí Ly có Tử Phá thủ mệnh tại Mùi, biết y sẽ cướp ngồi, và nhà Trần mất. Muốn bảo toàn lấy giòng giống, ông kết thông gia với Quí Ly, rồi bỏ quan về ở ẩn. Ông sáng tác rất nhiều thơ, chép thành tập. Con rể ông là Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại ông là Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi sưu tập thơ của ông, chú giải đặt tên là Băng hồ thi tập (Băng Hồ là tên hiệu của Trần Nguyên Đán). Bài tựa Nguyễn Trãi viết nhan đề là Băng Hồ di sự lục.

Công phu nghiên cứu Tử vi của nhà Trần được truyền qua Nguyễn Trãi. Một số con cháu nhà Trần khi thấy Lê Quý Ly cướp ngôi, mai danh ẩn tích đổi họ, sống trong dân gian, nhờ vậy bộ Đông A di sự còn được lưu truyền đến ngày nay.

Trong bộ Đong A di sự, ngoài việc chép công trình nghiên cứu Tử vi, còn chép rất nhiều lá số của các danh nhân đời Trần. Căn cứ vào đây ta có thể biết rõ ngày sanh tử của các vị này

Chuyện Đoàn Nhữ Hài

Sau đây là một giai thoại về cuộc gặp gỡ giữa Đoàn Nhữ Hài và vua Trần Anh Tôn:

Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc Tử Giám. Vào niên hiệu Hưng Long thứ 7 đời Trần Anh Tôn (1299), tức năm Kỷ Sửu, Hài đúng 20 tuổi. Một hôm ra chùa Một Cột chơi, gặp thầy Tử vi. Hài xin xem giùm vận mạng.
Thầy hỏi :
- Cậu sinh năm nào?
- Tôi tuổi Kỷ Mão, tháng 9 ngày mồng 1, giờ mão
Thầy bấm tay một lúc rồi nói :
-Mệnh cậu lập tại mùi, xương, khúc, kình miếu địa thủ mệnh. Lại được Nhật mão, Nguyệt tại hợi tịnh minh chiếu, thêm cách giáp Quang, Quý. Đây là cách của đại thần phò tá Đế Vương. Năm nay Đại hạn của cậu ớ Tị có hình, tang, cơ, mã được nguyệt chiếu. Tiểu hạn ở thân, ngoại triều có tham vũ, tướng, quyền,lộc,tả,hữu tất thành đại hỉ sự, đại hỉ sự sẽ đến một cách bất ngờ. Khi cậu bị ngựa đá hoặc cắn thì là khi công danh tới đấy.


Hải mừng lắm, về chăm chỉ học, không ngờ trong cuộc thi tuyển chọn thí sinh để năm Giáp Thìn (1304) thi Thái học sinh (Tiến sĩ) bài của Hài bị đánh trượt vì ngông nghênh quá. Hài tức lắm, ra chùa Một cột tìm thầy tử vi để đập tráp vì tội nói láo. Nhưng thầy tử vi phân trần:


- Tôi chỉ nói năm nay cậu có hỉ sự, tôi đâu có nói cậu thi đậu? Đây tôi cho cậu biết: ngày 13-6 này cậu sẽ gần Thiên Tử. Tôi chỉ xin cậu một điều là khi cậu thành danh rồi thì....


- Nếu đúng như lời thầy thì tôi sẵn sàng nghe lời dạy bảo


- Thế thì tốt quá. Ngày 13-6 này cậu còn hoạnh phát tài nữa. Vậy cậu phát bao nhiêu xin cho tôi một nửa. Sau này ở địa vị cực cao quý, cậu phải thương yêu muôn dân.

Hài đồng ý, về nhà. Đến đúng ngày 13- 6 không thấy gần vua như thầy Tử vi nói. Hài xách gậy đi tìm ông thầy đánh về tội nói láo. Trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa đụng vào té văng dưới đất. Người đó vội xuống ngựa đỡ Hài dậy xin lỗi rối rít.


- Tôi đi vội quá lỡ đụng tiên sinh. Xin tiên sinh bỏ qua cho.


Hài nhìn người đó thấy mặc quần, áo lót đội mũ phía sau ra phía trước. Hài bên phải sang bên trái, coi vẻ hốt hoảng. Hài bực mình hỏi :
- Nhà ngươi đi đâu
- Tôi đi tìm cha tôi


Nguyên đó là nhà vua Trần Anh Tôn. Hôm đó vua uống rượu say mê mệt. Nhân tôn hoàng thượng bất thần về kinh, thấy con say, giận lắm để cây gậy thiên trượng lên mông nhà vua ngụ ý đánh đòn, rồi bảo các quan về Thiên Trường họp.


Lúc tỉnh rượu, Anh Tôn được cung nga, thái giám kể lại, sợ quá chụp mũ đội lên đầu. Trong lúc vội vàng, mới đội phía sau ra phía trước, quên cả mặc áo ngoài, đá chân nọ sang chân kia và đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Vua hỏi Hài :


- Tiên sinh là ai?


- Tôi là Đoàn Nhữ Hài, học trò trường Quốc Tử Giám. Tôi đang buồn vì thi trượt đây.


- Tiên sinh biết chữ chăng?


Hài bực tức :
- Nhà ngươi điên chắc? Ta đã chuẩn bị thi Thái học sinh, thì phải thông Bách gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo, lẽ nào không biết chữ?


Vua Anh Tôn vẫn nhũn nhặn:
- Tiên sinh làm dùm ta bài biểu tạ tội với phụ hoàng ta, rồi ta bảo quan Quốc tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm Giáp thìn ta sẽ lấy tiên sinh đỗ trạng nguyên, như vậy được chăng?


Đoàn Nhữ Hài vẫn chưa biết là vua, quát lên :
- Nhà người điên chắc? Muốn rụng đầu chăng? Nhà ngươi có biết rằng chỉ có một người được phép lấy trạng nguyên không? Nhà ngươi là ai?


Vua Anh Tôn đáp :
- Tôi là vua


Hài thất kinh hồn vía nhìn lại, quả nhiên thấy người ấy đội mũ thiên tử, chân đi hài bên thêu Long, bên thêu Phụng.Hài quỳ xuống tung hô vạn tuế và tạ tội. Gặp quan tuần Hoàng thành, vua sai lấy thêm ngựa cho Hài cỡi, lấy áo cho vua mặ rồi lên đường về Thiên Trường. Trên đường đi Hài làm bài biểu dài 2.200 chữ cho vua tạ tội. Thượng hoàng đọc bài biểu ấy, thấy lời văn hàm súc ý tứ cao thâm. Truyền tha tội cho Anh Tôn và gọi Hài vào hầu. Ngài nhìn qua Hài rồi nói :


- Trông tiên sinh dung quang khác lạ, chắc thế nào cũng là bậc văn thần sau này. Để bần tăng coi lại lá số tử vi cho tiên sinh xem. Hài trình niên canh bát tự. Thượng hoàng bấm tay xem qua mừng lắm :


- Ta đang lo không có một văn thần trẻ tuổi phò tá con ta. May gặp tiên sinh đây là người trung liệt, văn mô vũ lược, chí tả, tâm hùng đáng là bậc đại thần vậy.


Hài trình việc gặp thầy Tử vi ở chùa Một cột Thăng Long. Thượng Hoàng cười bảo Hài :
- Khoa Tử vi do Hoàng Bính tiên sinh truyền chó Thái Tông nhà ta. Con gái người là Hoàng Thái Phi truyền cho bần tăng.Còn thượng phụ cũng được người truyền (thượng phụ tức là đức thánh Trần). Thượng Phụ truyền cho Hưng Nhượng Vương. Hưng Nhượng Vương sau khi bình thát đát, xuất gia đạo hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Chính bần tăng là đệ tử của ngài Tuệ Trung. Người xem tử vi cho tiên sinh là ngài Tuệ Trung đấy.


Hài than dài:
- Không biết thân có ân phước gì mà gặp toàn những bậc Thánh chúa, Thánh tăng chỉ đường, chỉ lối vậy?


Thượng hoàng nói :
-Chẳng qua là số.Số tiên sinh cung nô có Tham,Hồng,Đào,Quyền,Tả nên gặp may, duyên kỳ ngộ mà gặp chúa.
(Trích Đông A di sự)

Khi nhà Hổ cướp ngôi, con cháu nhà Trần ẩn tích mai danh, cải họ, phiêu bạt tứ phương. Quân Minh sang đánh nhà Hồ chở hết sách vở về Kim lăng trong đó có bộ Đông A di sự. Duy có bộ Đông A di sự của con cháu Hưng nhượng Vương Trần Quốc Tảng (Con thứ hai đức Thánh Trần) nhờ xuất gia nên còn lưu lại trong cửa Thiền được, truyền đến nay. Một bộ nữa do Băng Hổ Tướng công Trần Nguyên Đán truyền cho cháu ngoại là Nguyễn Trãi. Sau khi xẩy ra cái án Thị Lộ, bộ trên thất truyền. Suốt trong thời Hậu Lê, con cháu nhà Trần không giám xuất hiện vì bị nhà Lê nghi ngờ trung hưng Trần Triều vì vậy khoa Tử vi lại trở thành bí truyền.

Mãi tới đời nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), lại tìm được sách của người Trung Hoa trong phái Hà Lạc, về nghiên cứu, Khoa Tử vi phổ thông từ đấy. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông cả Thiên văn, Địa lý, Bói dịch nên khoa Tử vi của ông nghiên cứu thiên về Bói dịch nhiều quá, nhiều hơn cả khoa Tử vi của phái Hà Lạc nữa.

Đời Lê – Trịnh, ông Lê Quý Đôn (1726-1784), đậu Bảng nhãn năm 29 tuổi. Năm 1760 ông được sung chức Phó sứ, sang Trung Hoa. Bấy giờ nhằm niên hiệu Càn Long thứ 25, thời gian này là lúc vua Càn Long chưa thống nhất các môn phái Tử vi. Ông Lê Quý Đôn giao du với các danh sĩ Trung Hoa, được phái Âm Dương cho bộ “Tử vi Âm Dương Chính nghĩa Kinh, Bắc tông”. Trở về ông nghiên cứu, truyền bá trong dân gian. Ông là một nhà bác học đa năng, nên công cuộc nghiên cứu của ông rất giá trị, hiện còn lưu truyền.

KHOA TỬ VI VN NGÀY NAY

a)Các thư tịch còn lại

Điểm qua các sách ta thấy:
-Phái Triệu gia thừa hưởng chính thư của Tống Thái Tổ do Hi Di truyền lại. Trải qua các đời còn lưu giữ được nguyên vnej Phái này có bộ “Triệu Thị Minh – Tuyết Tử vi kinh”. Cuối đời Tống bộ “Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi Kinh”, và bộ “Tử vi tinh nghĩa” được Hoàng Bính truyền sang cho con cháu nhà Trần. Con cháu nhà Trần nghiên cứu thêm, chép thành bộ “Đông A Di sự”
-Bộ “Đông A di sự” bị nhà Minh mang về Trung hoa. Nhà Thanh căn cứ vào bộ:
-Tử vi tinh nghĩa
-Triệu thị Minh Thuyết tử vi kinh
-Đông A di sự
Mà chép thành bộ Tử vi Đại toàn.

Các bộ sách trên đây được coi là chính thư. Học rất mau hiểu và đoán rất chính xác. Hiện nay một số con cháu họ Trần ở Nam Định di cư vào Nam, còn lưu truyền bộ Đông A di sự. Nhưng vì bộ này không chép riêng khoa Tử vi, mà còn chép nhiều điều bí mật trong họ Trần, nên không mấy người được đọc. Bộ này thực là quý báu.

-Một số nhà nghiên cứu Tử vi ở VN, hiện tại là nhờ sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn để lại. Sự khác biệt giữa các sách thực nhiều vô kể. Nhưng xét kỹ thì bộ Đông A di sự vẫn có lý hơn.

b)Sự khác nhau giữa chính thư và tạp thư

-Về cách an sao: Như sao Hỏa tinh, Linh tinh phái Hà lạc. Âm Dương căn cứ vào Năm rồi lại căn cứ vào Tháng, Giờ mà an. Trong khi phái Triệu, Trần, Thanh lại chỉ căn cứ vào năm mà thôi.

Như sao Khôi, Việt, chính thư an ở Dần, Ngọ, cho tuổi Tân mà thôi. Tạp thư lại đi an cả cho các tuổi Canh nữa. Vòng Trường sinh chính thư và phái Âm Dương an ở bốn cung Thân, Hợi, Dần, Tỵ. Trong khi phái Hà lạc lại đi an cả ở bốn cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu nữa. (Cung khởi cho sao Trường Sinh).

-Phái Hà Lạc thêm vào rất nhiều sao nữa như đã nói ở trên.

-Về tính chất, vận hạn: Phải công nhận chính thư đúng, chính xác nhất. Những bài phú đoán văn chương, uẩn súc vô cùng của các vua nhà Tống của các vua nhà Trần còn lưu lại. Còn những câu phú của tạp thư có lẽ người Tầu họ cũng không thành thực với nhau nên đã sửa đổi, thêm bớt đi khá nhiều.

Thí dụ: tính chất của sao Liêm Trinh, và Tham Lang tại Tị, Hợi:
-Tạp thư ghi: Liêm Tham Tị Hợi hình ngục nan đào (Mệnh lập tại Tị, Hợi mà có sao Liêm Tham thủ thì thế nào cũng bị tù).

-Chính thư lại nói khác:
Liêm, Tham Tị Hợi tứ Sát hình trượng nan đào.
Nhược Bính Quí nhân chung thân khất cái.
Giáp Mậu Kỷ tuế vĩnh thế vô ưu
Nghĩa là: Mệnh Liêm Tham lập tại Tị Hợi mà có tứ Sát mới bị tù.
Người tuổi Bính, Quí còn lang thang ăn mày cả đời. Người tuổi Giáp, Mậu, Kỉ thì cả đời vô lo (Sách Đông A di sự còn chú giải thêm: Tuổi Bính Quí bị thêm Đà la, Kình dương, Hóa kị nên ăn mày, Tuổi Giáp có Hóa Lộc, tuổi Mậu Kỷ có Hóa Quyền thì tốt lắm).

Chỉ một câu trên ta thấy tạp thư bị cắt xóa đi nhiều. Nếu chép đầy đủ những dị biệt của hai phái ra phải mất vài ngàn trang giấy.

c)Các nhà nghiên cứu Tử vi ngày nay

Theo chỗ chúng tôi biết, thì chưa có nhà nghiên cứu Tử vi nào đi đoán lấy tiền mà đoán cho ra hồn. Hầu hết học qua loa rồi đi bịp đời làm giầu mà thôi. Những nhà nghiên cứu đến nơi đến chốn họ thường khó tính, khi xem cho ai, tốt thì họ nói tốt, xấu thì họ nói xấu. Nên thường làm phật lòng thân chủ mà không cần chú ý. Hơn nữa những vị này thường có địa vị nên đâu phải ai cũng nhờ họ coi dùm được, họ rất bận rộn.

Hiện VN có những nhà nghiên cứu thành danh sau đây, đều không mở tiệm lấy tiền và có địa vị khá ngoài xã hội:
-Nguyễn Mạnh Bảo (Kiến trúc sư)
-Đỗ Văn Lưu (tức Song An)
-Nguyễn Phát Lộc
-Hoàng Quân (giáo sư, ký giả)
-Nguyễn Văn Y (đại tá, cựu Tổng giám đốc CSCA).
-Việt Viêm Tử (học giả)
-Vân điền Thái Thứ Lang (Tu sĩ).

1-Ông Nguyễn Mạnh Bảo: Là một kiến trúc sư, uyên thâm cổ học. Đem phương pháp chú giải sách Tây phương ra nghiên cứu Dịch kinh, Tử vi. Ông chú giải sưu tầm tất cả công trình của hệ phái cụ bảng Đôn, tức là phái Âm Dương Trung hoa. Nhưng ông không chú giải kỹ nên kẻ nào mới vào nghề đọc sách của ông rất nhức đầu. Ông bận rộn nhiều việc nên công trình của ông bỏ lửng. Công trình nghiên cứu của ông, được nhiều người ngoại quốc chú ý, và sưu khảo. Phải nói rằng ông làm cho người ngoại quốc biết đến Tử vi VN vậy.

2-Ông Đỗ Văn Lưu tức Song An: Con nuôi họ Trần ở Nam Định nên học được một phần của bộ Đông A di sự. Nổi tiếng từ năm 1930 tại Nam Định. Ông có trước tác nhiều sách Tử vi. Nhưng vì ông không được truyền hết bộ Đông A di sự, nên tác phẩm của ông chưa đến chỗ tuyệt hảo. Ông mất năm 1962 tại Vũng Tầu. Ông không có con trai, nên kinh nghiệm của ông bị mất đi, thực đáng tiếc.

3-Ông Việt Viêm Tử còn có tên là Hà lạc dã phu (Gã nhà quê nghiên cứu về Hà lạc). Công trình nghiên cứu của ông nằm trọn trong bộ “Tử vi áo bí”. Đọc sơ qua cũng thấy ông trong phái Hà lạc trung hoa. Bộ sách của ông có nhiều khuyết điểm vì nó có nhiều chỗ bị sai lạc, và nhất là điểm bắt độc giả phải chấp nhận những điều không hiểu tại sao. Trong khi khoa Tử vi có thể giải thích được. Hình như sách của ông do hai người viết, vì có nhiều đoạn hành văn rõ ra người tân học, và có đoạn lại hành văn ra người cổ học. Sách của ông có nhiều đoạn dài dòng vô ích, như cách tìm Cục, tìm sao Tử vi, chỗ giải thích lôi thôi về Âm Dương ngũ hành. Nhưng sách của ông giới mới học rất thích.

Bốn nhà nghiên cứu trên đây nổi tiếng nhờ tác phẩm. Song 3 nhà nghiên cứu sau đây mới là ba nhà nghiên cứu tinh vi, và nổi tiếng nhờ tài giải đoán, dạy học trò: Nguyễn Phát Lộc, Nguyễn Văn Y và Hoàng Quân. Ba người đều có địa vị lớn và có dịp tiếp xúc với các danh nhân. Cả ba đều khó tính, và hay nói thực làm mất lòng người nhờ coi, mặc dầu sự giải đoán đúng 100%.

4-Đại tá Nguyễn Văn Y: Cựu Tổng giám đốc CSCA hồi đệ nhất Cộng hòa. Ông lớn tuổi, địa vị cao, ở và tư thế đặc biệt, nên ông liếc mắt qua là thấy một lá số nào bị: mất cắp, ở tù, bị lừa, bị đánh, bị cướp, bị bỏ, bị chết,…Hình như 100 lá số ông đoán trúng cả 100.

Người nghiên cứu tử vi lấy làm lạ là ông không mấy chú ý đến phá cách, mà đáng lẽ ở địa vị của ông phải coi là chính. Công trình nghiên cứu của ông hình như thuộc phái Âm Dương, nhưng ông không quá chú ý vào lẽ Âm Dương. Đưa một lá số của người bị tù ra hỏi ông, ông có thể đọc cho năm bị tù, bao lâu và bao giờ được tha. Nhưng đưa một lá số của một người có địa vị ra hỏi ông rằng người đó đang mê muội, làm sao cho hết thì ông không quen.

5-Giáo sư Hoàng Quân: còn là ký giả (Saigon có 2 Hoàng Quân). Một Hoàng Quân người Nam, không biết Tử vi cũng là ký giả, lớn tuổi. Một là Hoàng Quân trung niên, họ Trần, vì tránh tên cố Đại tá Trần Hoàng Quân nên ông bỏ họ đi Giòng giõi Hưng Đạo Vương, nên ông được thừa hưởng công trình của phái Đông A. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm và đậu cử nhân văn khoa, sau khi du học về báo chi. Ông làm việc cho cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu, nên còn có đủ sách của các phái khác (?) Nhờ vào vị trí làm đại diện cho vài cơ quan nghiên cứu và báo chí ngoại quốc nên ông có dịp tiếp xúc với hầu hết danh nhân đương thời, do đó ông đoán về bước thăng trầm danh vọng rất trúng. Cầm một lá số của vị Tướng, ông đọc được năm nào thăng cấp, năm nào bị phạt, bị thương, bị mất chức trong suốt đời binh nghiệp. Song ông chú ý đến phá cách nhiều hơn. Cầm một lá số của một thân chủ nào đó ông có thể trả lời ngay cho biết muốn làm cho đương số nghiêng ngửa thì dùng loại người nào và cách dùng nào. Công trình nghiên cứu của ông độ 6000 trang in offset và không phổ biến cho ai ngoài thân hữu và huyết tộc.

-Ông Nguyễn Phát Lộc: Giữ một trọng trách quan trọng, là một bác học đa năng, ông đã trước tác một cuốn sách Tử vi. Song sách không phải là đại diện cho công trình nghiên cứu của ông. Công trình của ông không nhất thiết theo phái nào. Song coi kỹ thì cách an sao của ông lại theo phái Âm Dương, trong khi tính chất các sao khi thì có vẻ như phái Đông A, khi thì có vẻ như phái Âm Dương. Ông được mời làm giảng viên trường Đại học Chiến tranh chính trị về khoa Tử vi, nên công trình của ông có nhiều ảnh hưởng trong tương lai vào lớp người sau.

7-Vân Điền thái Thứ Lang: là một Đại đức, tu tại Đà lạt. Ông có trước tác cuốn sách mang tựa đề “Tử vi đẩu số tân biên”. Cuốn này của ông trình bày rất có phương pháp, mạch lạc. Đọc qua sách của ông, thấy ngay ông ảnh hưởng hai phái:
-Một là phái Âm Dương qua cụ Lê Quý Đôn.
-Hai là bộ Đông A di sự.
Ông qua đời trong một tai nạn xe hơi trên đường Đà lạt Saigon.

V-Kết luận

Trên đây chúng tôi đã trình bầy sơ sài về khoa Tử vi ở VN để hướng dẫn những vị nào có trí thông minh, có sức kiên nhẫn muốn tìm hiểu khoa này. Quí vị cứ thử nghiên cứu đi sẽ thấy mình mê ngay khoa này. Và bấy giờ mới tỉnh ngộ: Hỡi ơi, mấy tên thầy bói nói láo bịp đời trong khi chẳng biết cái gì cả. Nếu độc giả nào không sợ bị sự thực mất lòng, thử tìm đến một trong ba nhà nghiên cứu trên mà xem, tôi xin cam đoan các bị đó sẽ nói đúng mọi sự quá khứ vị lai ra. Nhưng làm thế nào để quen được với các vị là một điều khó (Tôi xin mách: Muốn tới Đại tá Y thì nên để cho người nào mà thân nhân có tai nạn hỏi xem có bị tù không? Tù bao lâu? Bao giờ tù? Bao giờ ra tù? Tới ông Nguyễn Phát Lộc thì các vị cứ nói rằng nghe tiếng nay có sự đến xin chỉ dẫn. Tới giáo sư Hoàng Quân thì nhờ mấy tờ báo làm trung gian (Tôi xin dặn trước rằng cả ba người đều ở vào địa vị nhiều tiền danh vọng cao…Xin chớ nói đến trả thù lao mà bị mắng liền).

KHHB số 74G2
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Kinh nghiệm:

MỘT TIẾNG CHUÔNG KHÁC VỀ VÒNG TRÀNG SINH

Nhận xét về: 1) Tứ mộ 2) Sao Mộ 3) Mộ khố 4) Ngũ hành sinh khắc và Ngũ hành đồng loại.

Lê Ốc Mạch

Chúng tôi viết bài này để giải thích về tứ Mộ, sao Mộ và Mộ khố với mục đích để quý vị độc giả KHHB đang muốn hỏi thêm về Tử vi đẩu số rút thêm kinh nghiệm và chúng tôi ước mong rằng quý Cụ cao niên uyên thâm về khoa Tử vi đẩu số chỉ điểm cho những chỗ sai lầm thì thật là vạn hạnh.

A-Tứ mộ

Tử vi đẩu số có 12 cung, mỗi cung mang tên một trong Thập nhị địa chi là Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thuộc Thổ cho nên các cụ tiền nhân gọi là Tứ Mộ

B-Sao Mộ

Khi con người được sinh ra mỗi người có số mệnh của mình gọi là Thiên Mệnh cũng thế. Ngài Hi Di Trần Đoàn lập ra vòng Tràng sinh theo thuyết nhà Phật, gồm có 12 sao là:

-Tràng sinh tiêu biểu cho sự được Trời sinh ra.
-Mộc dục tiêu biểu cho sự tắm gội, giữ vệ sinh
-Quan đới tiêu biểu cho sự thích làm quan cho oai vệ
-Lâm quan tiêu biểu cho sự thích khoe khoang làm giáng
-Đế vượng tiêu biểu cho sự lập công tích đức để được giàu sang mỗi ngày mỗi tăng.
-Suy tiêu biểu cho sự già nua suy yếu.
-Bệnh tiêu biểu cho sự bệnh hoạn lúc già.
-Tử tiêu biểu cho sự chết là linh hồn lìa xác
-Mộ tiêu biểu cho sự chôn cất, thành mồ mả.
-Tuyệt tiêu biểu cho sự cắt đứt với cuộc đời trần tục
-Thai tiêu biểu cho sự đầu thai lên làm kiếp khác theo thuyết nhà Phật và còn có ý nghĩa nữa là thành cái bào thai trong bụng mẹ.
-Dưỡng tiêu biểu cho sự được nuôi dưỡng trong bụng mẹ. Chúng tôi tự đặt ra câu hỏi: Trong 12 sao trên đây tại sao Sinh, Vượng, Mộ lại là tốt, nhất là Mộ là mồ mả thì tốt ở chỗ nào?

Xin thưa: Sinh là được sinh ra làm người do Thiên Mệnh là tốt lắm, vì theo thuyết luân hồi nhà Phật thì có người vì tội lỗi phải đầu thai làm súc vật kia mà, do đó được làm người là sung sướng lắm.

Vượng là làm ăn thịnh vượng giàu sang cho nên nói là quí lắm.
Còn Mộ thì có chết mới có chôn, chết bờ chết bụi, chết tại pháp trường cát là chết ô nhục, còn như chết mà được chôn cất, có mồ mả đàng hoàng thì đó là sự vinh hạnh đấy.

Do sự giải thích trên đây mà Tràng sinh, Đế vượng và Mộ là ba sao tốt nhất trong vòng Tràng sinh.

Chúng tôi đọc sách Tử vi chữ Việt, cho nên không thấy sách nào nói rằng sao Mộ phải an vào Tứ Mộ. Quý vị độc giả của giai phẩm KHHB thấy “sao Mộ” phải an vào tứ Mộ nói trong cuốn sách nào, xin cho biết, chúng tôi cảm tạ trước.

Chúng tôi lại nhận thấy trong mấy lá số Tử vi đăng trong KHHB, mấy đương số là Âm Nam Dương Nữ được sao Mộ an ở Tứ Mộ, thành ra làm cho hai sao Tràng sinh và Tuyệt, thay vì an ở Dần Thân Tị Hợi lại được an ở Tứ chính (Tý Ngọ Mão Dậu). Vốn có máu giang hồ, anh hùng rơm, chúng tôi thích tính chuyện lỗ lãi, và ở đây chúng tôi thấy sự đổi chác này là đổi hai lấy một cho nên chúng tôi cho là bị lỗ vốn nên không chịu đâu, quý cụ ạ. Vả lại, nếu Tràng sinh và Tuyệt không an ở Dần Thân Tị Hợi mà được an ở Tí Ngọ Mão Dậu thì định nghĩa của bốn cung Dần Thân Tị Hợi là Tứ sinh hay Tứ tuyệt hẳn sai rồi!.

Chúng tôi vẫn có ý nghĩ là vòng Tràng sinh tiêu biểu cho Mệnh, cũng như vòng Lộc tồn tiêu biểu cho Thân và vòng Thái tuế tiêu biểu cho Hạn. Trong ba vòng này thì vòng Tràng sinh là quan trọng hơn cả, vì muốn an Lộc tồn chỉ cần biết Can của năm sinh, muốn an Thái tuế chỉ cần biết năm sinh là năm thuộc Địa chi nào, còn như muốn an Tràng sinh thì khó hơn, phải biết tháng sinh, giờ sinh để an Mệnh, rồi theo vị trí của Mệnh ở cung nào, với Can của năm sinh mà tính ra Cục để an Tràng sinh.

Cũng như vòng Tràng sinh là quan trọng thì vòng Tử vi và vòng Thiên Phủ cũng quan trọng hơn các vòng sao khác còn lại. Muốn an Tử vi, sau khi biết Cục, phải biết ngày sinh của đương số nghĩa là cần cả bốn điều: năm, tháng, ngày, giờ sinh. Trong khi đó thì vòng Tả Phụ, Hữu Bật chỉ cần biết tháng sinh; vòng Văn khúc, Văn xương chỉ cần biết giờ sinh; vòng Long trì, Phượng các chỉ cần biết năm sinh (Địa chi); vòng Ân quang, Thiên Quí thì cần biết ngày sinh, và Thiên Khôi, Thiên Việt, thì cần biết năm sinh (Thiên Can)…

Khi đoán một lá số Tử vi, chúng ta nên nhớ:
1)Vòng Tử vi Thiên Phủ chỉ cần một sao gọi là chính tinh (có khi có hai chính tinh đồng cung) là chúng ta có thể giải đoán là tốt hay xấu.

2)Các vòng sao bàng tinh như Tả Phụ, Hữu bật, Văn khúc, Văn Xương, Long Trì, Phượng Các…thì cần phải đủ bộ mới quyết đoán là tốt, nếu chỉ có một thì ảnh hưởng ít lắm.

3)Các sao nhỏ khác thì cần phải có ba sao họp lại mới có hiệu lực mạnh mẽ hoặc tốt hoặc xấu.

Về việc giải thích trên đây chúng tôi xin lấy tỷ dụ một bao gạo 100 kí. Một người khỏe thì có thể một mình vác bao gạo, đối với người yếu hơn thì cần phải hai người và đối với người yếu hơn nữa thì cần phải có ba người mới khuân được bao gạo.

C-Mộ khố

Khoảng trống ở giữa 12 cung gọi là Thiên bàn để ghi: Năm, Tháng, ngày giờ sinh. Kế đến là Bản mệnh (ngũ hành) và Cục, năm tháng ngày giờ và Cục đều có chỗ để dùng rồi, thế còn Bản mệnh? Chẳng lẽ không dùng đến sao? Xin thưa là có chỗ dùng chứ, chúng ta phải dùng bản mệnh để tìm Mộ khố (cái kho tàng thạt sự đấy quí vị ạ). Trong sách có câu:
“Nạp Âm mộ khố khán hà cung”.
Xin tạm dịch: xem cung nào để nạp âm Mộ khố? Thế còn nạp âm Mộ khố nghĩa là gì?

Chúng tôi cũng táo bạo mà giải thích ý nghĩa câu “Nạp Âm mộ khố khán hà cung” như sau đây:
Chúng ta phải dùng vòng Tràng sinh, theo Bản mệnh (ngũ hành) rồi theo chiều thuận như vòng Thiên Phủ, Thái Âm khi thấy sao Mộ ở đâu đó là Mộ Khố.

Người nào tốt phúc Mệnh viên an vào Mộ khố thì gọi là Thiên khố, cái kho tàng của Trời cho, nếu cung Tài Bạch an đúng Mộ khố thì gọi là Tài Khố, cái kho tàng tiền bạc nếu cung Quan lộc an vào Mộ khố thì gọi là Quan khố, cái kho tiền bạc tiếp tài, tiếp lộc cho đương số và nếu cung Thiên Di an ở Mộ khố thì gọi là Kiếp Khố, cái kho tàng của kiếp người đi ra ngoài.

Mộ khố gặp lộc tồn, Hóa Lộc thì tốt thêm, nếu có Kiếp Không và Sát tinh hội họp thì kém phần rực rõ. Dưới đây là:
Bảng Tràng sinh để tìm Mộ khố
Theo bản Mệnh (ngũ hành)
Trong khi giải đoán một lá số Tử vi, không những chỉ xem các sao tốt xấu, còn cần phải thuộc Ngũ hành tương sinh, tương khắc để xem sao với cung sinh khắc ra sao, và Bản Mệnh với Sao và Cung sinh khắc ra sao. Chúng ta nên thận trọng khi đoán về hạn, vì Mệnh viên và Thân giải đoán có sai cũng ít hại bằng giải đoán tiểu hạn và đại hạn sai lầm.

Về Ngũ hành sinh khắc, chúng tôi có vài thắc mắc xin nêu ra đây để quí Cụ và quí vị giải thích dùm cho:

Tương sinh:
Kim sinh Thủy
Thủy sinh Mộc
Mộc sinh Hỏa
Hỏa sinh Thổ
Thổ sinh Kim

Tương khắc:
Kim khắc Mộc
Mộc khắc Thổ
Thổ khắc Thủy
Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim

Đó là việc cố nhiên rồi nhưng mà:
Thủy với Thủy thì sao?
Mộc với Mộc thì sao?
Hỏa với Hỏa thì sao
Thổ với Thổ thì sao?
Và Kim với Kim thì sao?

Năm câu hỏi trên đây chúng tôi dám chắc là không có sách nào giậy về Âm Dương nói đến.

Khi chúng tôi nêu thắc mắc lên là chúng tôi đã suy nghĩ về vấn đề này lung lắm từ lâu rồi. Theo thiển ý thì:
Kim với Kim là tốt
Hỏa với Hỏa là tốt
Mộc với Mộc là xấu
Thủy với Thủy là xấu
Còn Thổ với Thổ là bình thường.

Thành thật trình bầy mấy lời, kính mong Quí Cụ và Quí vị độc giả KHHB thông cảm mà nhuận chính cho

KHHB số 74G1

 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Kinh nghiệm tử vi

NHỮNG YẾU TỐ LINH ĐỘNG TRONG VIỆC GIẢI ĐOÁN TỬ VI

· Về lý thuyết và thực hành các sao Lộc tồn, Hóa lộc, Tang, hổ, Hóa Kỵ
· Vận hạn
· Sinh khắc giữa hành Mệnh và cung an Mệnh.

Phong Nguyên

Nhiều vị cao thủ về Tử vi đã từng tâm sự với tôi rằng khi mới biết sơ qua về cách giải đoán Tử vi thường thường ta thấy khoa Tử vi cũng giản dị và rõ ràng nhưng khi đã đạt được mức thâm thúy thì đôi lúc lại thấy việc giải đoán quả khó khăn, dễ bị sai lầm và có thể còn thấy mù mịt, không còn biết đi tới kết luận nào nữa. Mới thoạt nghe tâm sự như vậy ai cũng tưởng các vị đó quá nhún mình hoặc gián tiếp giấu nghề, nhưng sau khi nghe các vị đó giải thích và trình bầy nhiều khía cạnh thì chúng ta không thể không dè dặt khi đoán số Tử vi. Đó là lý do đã thúc đẩy tôi viết bài hôm nay để thảo luận cùng quý bạn về đôi lời tâm sự của các nhà Tử vi kể trên.

Thực vậy, sau khi đã qua được giai đoạn ABC về tử vi, tôi mới nhận thấy rằng có các sao tốt hoặc các yếu tố Tử vi tốt cũng chưa thể cho là tốt, ngược lại cũng vậy, đành rằng tỷ lệ tốt của các sao tốt vẫn luôn luôn cao hơn tỷ lệ tốt của các sao xấu. Điều khó khăn là chúng ta phải căn cứ vào những yếu tố nào để biết sao xấu trở thành tốt và sao tốt trở thành xấu. Để tìm hiểu khía cạnh đó, tôi tạm chia bài này làm hai phần, một phần về lý thuyết và một phần về thực tế.

1)LÝ THUYẾT

Có một vài nhà Tử vi đã thâu thập được khá đầy đủ những tài liệu nêu rõ tất cả các sao tốt trở thành xấu và các sao xấu trở thành tốt khi kết hợp với những sao khác hoặc khi bị thay đổi về vị trí, về Can, Chi của năm sanh hoặc năm xem hạn. Riêng về phần này mớ tài liệu đó đủ thành một cuốn sách, nhưng rất tiếc các vị đó không thể cho phổ biến và cũng không thể cho tôi coi kỹ càng, mà chỉ có bàn luận với tôi về một số sao, cho nên tôi cũng chỉ liệt kê sau đây một phần nhỏ mà thôi mặc dầu trong tâm hồn luôn luôn mong mỏi phổ biến được tối đa những sở học về Tử vi.

Lộc tồn

Quý bạn đều biết sao này là “chân nhân chi tú”, một sao gần như không có gì đáng chê cả, ở cung nào ban phúc cho cung đó, nhất là ở cung Phúc đức là “phúc lộc hà sa” thì cuộc đời của ta tha hồ hưởng phúc của ông cha để lại dù cho các cung khác yếu kém nhiều, sau nữa là ở Mệnh hoặc Thân là cách suốt đời được no cơm ấm áo, mặc dầu nhiều vị và nhiều sách chê cung Tử tức có Lộc tồn vì cho đó là cách hiếm hoi hoặc hình khắc con cái nhưng tôi đã nghiệm nhiều lá số có cách đó mà vẫn đông con (đủ cả trai gái) chỉ có điểm là cha mẹ cứ phải lo cho các con ngay cả khi chúng đã trưởng thành, có lẽ xấu là chỗ cha mẹ hơi vất vả về con cái mà thôi. Đấy là nói về khía cạnh tốt của sao tốt. Còn về khía cạnh xấu thì phải nói ngay rằng ở bất cứ vị trí nào, hoặc cung nào (nhất là cung Tử tức nếu Lộc tồn đồng cung với Cự môn thì tối kỵ, vì không những Lộc tồn không còn đặc tính bình thường mà còn tạo ra nguy nan nữa, ngay cả khi nhập hạn cũng vậy, có nhiều người chỉ vì hai sao này thôi mà bị kiện cáo, đau ốm và có khi còn bị tù tội nữa (nếu thêm cách xấu khác). Còn về cung Tử tức nếu chẳng may bị hai sao trên thì thực đáng ngại, khó lòng có con hoặc nếu có cũng chẳng nuôi được. Chẳng thế mà có câu phú “Cự phùng Tồn tú các xứ toàn hung, ưu nhập Tử cung, tống lão vô nhi” (quí bạn nên lưu ý là nhiều sách chép “cát xứ tàng hung”. Nhưng nhiều vị Tử vi cho biết là “các xứ toàn hung” nghĩa là ở các cung hay vị trí đều hung cả mới hợp lý).

Ngoài ra, Lộc tồn còn kỵ cả Thiên Cơ và Không Kiếp. Nếu gặp Không Kiếp mà xấu thì chúng ta chẳng lấy làm lạ vì Không Kiếp là hung tinh đương nhiên phải phá hại Lộc tồn, còn đối Thiên Cơ là sao tốt mà cũng kỵ thì có phải là kỳ lạ hay không? Nhưng nếu được biết rõ Thiên Cơ là cái máy, tức là có sự chuyển động, thì làm sao tiền tài có thể tụ lại được vì cứ luôn luôn bị cái máy hất tung ra. Nếu Thiên Cơ nhập hạn có Lộc tồn thì càng hao tán tiền bạc nữa vì Thiên Cơ chuyển trong hạn lại càng chạy mạnh mẽ và thường xuyên hơn, như thế tiền không có lối vô, tức là không thể tụ của được. Còn về Không Kiếp, chắc có bạn thắc mắc tại sao Lộc tồn lại không ngại Thiên không. Chắc quý bạn đều biết Không Kiếp tượng trưng cho hung đồ, chứ Thiên không chỉ tượng trưng cho hao tán chứ không bao hàm ý phá hoại. Do đó nếu Lộc gặp Thiên không có khi vẫn hay vì như thế chứng tỏ mình được ăn tiêu rộng rãi và được hưởng thụ nhiều chứ không bo bo giữ của, nhưng nếu gặp Kiếp Không thì không khác gì ông triệu phú, tỷ phú bị cướp bóc, tống tiền hoặc bị phá sản đau đớn. Trong trường hợp này nếu không có Lộc tồn lại tốt hơn vì đỡ bị mang họa vào thân mà còn hòa mình được với Không Kiếp để phát lên theo chiều hướng khác (như buồn lậu, xưng bá đố vương một vùng…)

Hóa Lộc

Có thể nói từ khi tôi học Tử vi đến giờ, tôi chỉ được nghe nói là Lộc tồn còn có điểm xấu chứ chưa thấy ai nói đến Hóa Lộc bị khía cạnh gì xấu, dù cho ở hãm địa cũng chỉ kém mà thôi. Nhưng nay có vị cho biết là Hóa Lộc không nên đồng cung với Hóa Khoa mà chỉ nên đồng cung với Hóa Quyền. Vì nếu gặp Hóa Khoa sẽ tán tài, trong khi gặp Hóa Quyền vừa mở miệng ra là người khác đưa tiền cho mình vì tín nhiệm hoặc chịu ơn…Nếu Hóa Khoa ở cung khác chiếu về thì vẫn hay như thường, chỉ ngại đồng cung mà thôi. Tại sao vậy? Vì Hóa Khoa chủ về hoạt động (cũng tựa như Thiên Cơ một phần), chỉ hay cho thi cử, học hành chứ không lợi cho tài lộc. Cho nên phú có câu “Khoa Lộc Tuần phùng Chu Bột hân nhiên nhập tướng” tuy không nói về tài lộc nhưng gián tiếp nói về Hóa Lộc gặp Hóa Khoa, vì khi Khoa phá Lộc thì rất cần sao Tuần chụp giữ Khoa lại để cho ăn được Lộc mà thành sự nghiệp hiển hách. Nhiều sách chép là “Quyền Lộc” tưởng không được đúng cho lắm, và nhất là không viết “Tuần” bằng chữ hoa thành ra ai cũng tưởng là hạn gặp Quyền Lộc chứ đâu có nghĩ là gặp sao Tuần.

Ngoài ra, khi Hóa Lộc gặp Lộc tồn (đừng nên đồng cung, mặc dù nhiều vị vẫn cho là hay) thì không nên gặp Tả phù, Hữu bật mà chỉ nên gặp Nhật Nguyệt đắc địa, vì khi đã có Song Lộc tức là cách đại phú thì chỉ làm ăn lớn, tức là xứng với cách Nhật Nguyệt chứ lại gặp luôn cả Tả Hữu là cách cái gì cũng làm thì có phải là không hợp cách hay không, và như thế tức là giảm cách giàu sang đi nhiều.

Tang, Hổ

Trên đây là một vài sao tốt đã trở thành xấu, nhiều hoặc ít tùy theo trường hợp. Nay tôi xin đề cập tới một vài sao xấu trở thành tốt. Tỷ dụ như hai sao Tang, Hổ, ai chẳng biết là bại tinh, nhưng chúng vẫn có những điểm khá hay như sau:

Khi Tang môn gặp Thái Dương (ở Mệnh Thân cũng như nhập hạn) thì lại tốt vì mặt trời chiếu qua cửa (Môn), tức là có công dụng đúng lúc và đúng chỗ, và do đó công danh, sự nghiệp tiến triển. Còn gặp Thái Âm thì không hợp cách, vì Tang không hợp với đêm tối.

Tang Hổ tuy chủ về sự phiền muộn, trở ngại nhưng cũng có nghĩa là làm cho người khác đau khổ, lo buồn khi hai sao đó đóng tại cung Quan lộc hoặc cung Mệnh. Và khi mình đã có khả năng làm cho kẻ khác lo buồn tức là mình phải có chức phận cao có uy quyền sinh sát (như về ngành Tư pháp, Cảnh sát, An ninh)…thì mới có thể gây “thất điên bát đảo” cho thiên hạ được. Lẽ tất nhiên cũng cần phải có thêm một số sao khác bổ túc mới đạt được quyền uy đó, nhất là các sao Khoa, Quyền, Lộc và …Khốc Hư. Hai sao Khốc Hư cũng vậy, tuy chủ về đau buồn, rơi nước mắt nhưng khi đóng đúng chỗ thì chính là người khác chịu như vậy chứ không phải chính mình. Tuy vậy hai sao Tang Hổ và cả Khốc Hư không nên tọa thủ tại Mệnh, Thân vì như thế chính mình cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các sao đó, tức là cũng hay bị đau buồn, khổ não trong lòng mặc dầu cũng gây ra được những điều đó cho người khác. Quý bạn hãy thử kiểm lại các lá số của những vị làm lớn, thường thường có Tang Hổ tại Mệnh hoặc Quan lộc.

Khi bạch hổ tọa thủ tại mệnh nếu có Thiên hình đồng cung hoặc xung chiếu thì đó là cách oai phong lẫm liệt, như ông tướng (Bạch Hổ) có kiếm báu (Thiên Hình) nhất là khi Bạch Hổ cư cung Dậu hoặc Thân, nhưng với điều kiện không có các sao “hiền” kèm theo, tỷ dụ như Quan phúc, bộ Tứ Đức, Thai, Tọa…vì các sao này làm giảm hẳn “nhuệ khí” của ông tướng, như thế khó thành công, khó có uy quyền thực thụ.

Long là cách rất hay ( cụ Ba la hay khen cách này lắm, và hình như Cụ Quản Văn Chính cũng đã nhắc lại trên KHHB rồi), nhất là được người Âm Nam và tuổi Đinh, Kỷ. Tôi nghiệm thấy nhiều khi không được cách gì khác mà chỉ có mỗi cách trên, thế mà đương số vẫn có địa vị và sự nghiệp cao trong xã hội.

Sinh khắc giữa bản Mệnh và cung an Mệnh

Đa số các sách Tử vi và các nhà Tử vi đều cho rằng cung Mệnh phải sinh bản mạng mới tốt, nhưng có vị cho rằng có trường hợp sinh là xấu mà khắc mới hay. Đó là trường hợp người Âm Nam hoặc Dương Nữ, cần phải có cung Mệnh khắc bản mạng mới tốt, chỉ vì lẽ thuận nghịch mà ra. Chắc các bạn cũng để ý thấy rằng khi người nào thuộc Âm nam hoặc Dương Nữ thì đương nhiên phải an đại hạn đi nghịch, và vòng Tràng Sinh, Lộc tồn cũng an nghịch. Do đó khi cho rằng cung Mệnh khắc với bản mạng trong trường hợp này, mới tốt tưởng cũng không có gì là kỳ lạ, mâu thuẫn mà thực ra như thế mới là thích hợp vì cùng theo lẽ “nghịch” cả.

Vận hạn

Về phương diện giải đoán đại tiểu hạn cũng vậy, tôi đã từng nhắc nhở quý bạn là cần nhận định tương xứng là biết ngay được tốt xấu, chứ đừng bao giờ căn cứ vào đặc tính tốt xấu của các sao mà giải đoán. Nhân dịp này, tôi lại xin nêu ra một vài thí dụ nữa cho đầy đủ: Tỷ dụ như hạn gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, Khoa Quyền Lộc Khôi việt sáng sủa ai mà không khen, thế mà vẫn có những người gặp cách này lại khốn đốn chứ không nói là bình thường chỉ vì mạng người đó có Không Kiếp hãm địa hoặc Sát Phá Liêm Tham hãm địa hội hợp. Chắc có bạn không đồng ý vì nghĩ rằng gặp cách tốt nếu không hợp thì tốt ít chứ có khi nào trở lại nên xấu. Nhưng nếu quý bạn thử so sánh nhóm sao tại Mệnh như những nhóm bất hảo, côn đồ và những sao nhập hạn như những nhân vật cao cấp, đứng đắn, uy quyền thì các bạn sẽ thấy ngay là nhóm trên đương nhiên bị nhóm sau áp đảo, không dung nạp nổi (như bắt bỏ tù hoặc dùng hình phạt nào đó). Cũng trong trường hợp này nếu nhóm sao tốt Tử Phủ Vũ Tướng bớt được Khoa Quyền Lộc và bị thêm Tuần, Triệt án ngữ thì lại lợi ích cho cách ở Mệnh vì khi đó các nhân vật ấy bị giảm uy quyền (tức là thiếu Khoa Quyền Lộc) lại còn bị gò bó (Tuần, Triệt) làm sao đè ép được nhóm bất hảo kia, đành để chúng mặc sức tung hoành. Nếu bình thường ta thấy cách Tử Phủ Vũ Tướng bị Tuần, Triệt (nhất là Tử vi tối kỵ Tuần, Triệt) thì khó lòng ta dám cho là hay, nhưng riêng trường hợp trên điểm xấu này đã dùng được, nếu không nói là tốt.

2)THỰC TẾ

Phần này hoàn toàn không dính dấp gì đến các nguyên tắc lý thuyết về Tử vi vì chỉ căn cứ vào sự nhận xét sự kiện trước mắt, rồi phối hợp với các yếu tố Tử vi đã tìm ra, xem có sự tương hợp hay không để đi đến kết luận tốt hay xấu. Để cho dễ hiểu xin quý bạn đọc vài thí dụ sau đây:

-Nếu tình cờ quý bạn xem Tử vi cho một bệnh nhân đau yếu liệt giường chỉ chờ ngày chết (nhất là người bịnh đã già) thì quý bạn cần để ý xem đại tiểu hạn của người đó thật tốt hay không, nếu còn xấu hoặc hơi xấu thì phải đoán là con bệnh chưa thể chết được cứ phải đau khổ chịu đựng nữa. Nếu may được đại tiểu hạn thật tốt, như có Quan Phúc Khôi Việt Song Hỷ Tả Hữu Đào Hồng Khoa Quyền Lộc thì có thể quyết đoán là mãn số vì lúc đó Trời, Phật (Quan Phúc Khôi Việt) mới giúp (Tả hữu) bệnh nhân dứt được mối khổ đau triền miên để ngậm cười (Song Hỷ) nơi chín suối. Phải chi bịnh nhân chỉ mới đau yếu đôi ngày hoặc đôi ba tuần thì việc giải đoán lại phải theo như thường lệ, nghĩa là thấy đại tiểu hạn xấu mới chết được.

-Tôi có được coi khá nhiều lá số của trẻ sơ sinh và có nghiệm được trường hợp mâu thuẫn sau đây: con của người lưu manh, du đãng, tứ chiếng cao bồi nếu có lá số Tử vi thật tốt (nghĩa là từ cung Mệnh, Thân, Phúc đức cho tới Ngũ hành sinh khắc đều tốt đẹp và cũng không phạm giờ xấu nào) thường thường không nuôi được mới lạ chứ! Phải chăng phúc đức của những người đó không dung nạp được nổi một quý tử như vậy cho nên phải ra đi vĩnh viễn để đầu thai qua nhà khác mới thích hợp. Vì vậy, mỗi khi xem số Tử vi cho trẻ sơ sinh quý bạn rất cần phải biết rõ gia thế, cha mẹ của đứa bé thì mới có thể quyết đoán được vấn đề nuôi dưỡng được hay không. Tôi xin nhấn mạnh là mình nên chú ý tới cái đức của gia đình đứa trẻ chứ không cần chú trọng tới sự giàu sang, vì thiếu gì các vị lãnh tụ hoặc nhân vật lỗi lạc đã xuất thân từ một gia đình bần hàn, nghèo khó hoặc từ một người nông dân lam lũ. Chỉ có điểm khó là làm sao chúng ta biết được chính xác âm đức của gia đình đứa trẻ được tới mức nào. Đó là do nhận xét tinh vi của người xem số hoặc nếu biết coi tướng mặt thì càng biết rõ hơn. Bởi vậy khi xem số cho trẻ sơ sinh chúng ta không nên quyết đoán hấp tấp khi thấy có nhiều yếu tố cực kỳ tốt, vì chính những điểm “cực kỳ” đó là con dao hai lưỡi đối với đứa trẻ, nếu gặp một gia đình có âm đức thật tốt thì đương nhiên nó sẽ nên người và có công danh, sự nghiệp huy hoàng, còn trường hợp sinh ra trong một gia đình thất đức, độc ác thì cần…hỏi lại.

-Có nhiều trường hợp giải đoán vận hạn, gặp đủ các yếu tố Tử vi tốt thực mà vẫn không đáp ứng đúng sở nguyện của người liên hệ, như thế vẫn chưa có thể gọi là hạn tốt. Tỷ dụ như một người tỷ phú tiền rừng bạc biển nhưng lại hiếm con, nhất là con trai, khi nhờ ta coi số mà thấy đại tiểu hạn có toàn sao tài lộc, sự nghiệp thăng tiến (như có Phủ, Vũ hội Song Lộc, Long Phượng Hổ Cái…) nhưng lại có sao ngăn cản sự sinh sản (như Cô Quả, Đẩu quân, Thiên hình, Thiên Hư, Tang Hổ…) thì ta đừng nên vội mừng cho đương số, nếu ta đã được biết rõ sự thực như trên về đương số. Cũng trường hợp này, nếu hội vừa đủ các sao khả dĩ báo hiệu sự sinh con (trai) thì dù có buôn thua bán lỗ chắc đương số vẫn sung sướng, thỏa mãn như thường. Tuy khía cạnh này chỉ là tâm lý và hoàn cảnh các nhân nhưng tôi thấy vẫn có thể áp dụng chung. Tôi xin nêu thêm một thí dụ khác cho dễ hiểu hơn: Nếu một người có Mệnh hội đủ các sao thanh nhàn, thụ hưởng như Thai Tọa, Quan Phúc, Đào Hồng, Song Hỷ, bộ Tứ đức mà lại gặp một đại tiểu hạn có đủ các sao hoạt động hăng say, thành công vượt bực, uy quyền hiển hách thì đương nhiên nếu ta không cân nhắc ta sẽ quyết đoán là đương số được hưởng một giai đoạn huy hoàng, sung sướng thực sự, nhưng đối với đương số rất có thể lại là chuyện “không ham” vì bị gò ép vào môi trường trái ngược với sở nguyện của mình, mặc dầu trước nhãn quang của thiên hạ đó là điều đáng ước mơ.

Qua những điều trình bầy trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy việc giải đoán Tử vi quá linh động, uyển chuyển, nhất là về phương diện lý thuyết vì phương diện này đòi hỏi một căn bản thực sự mà ít khi ta có vì các tài liệu giá trị không được ai phổ biến. Còn về phương diện thực tế có lẽ chỉ quan trọng khi ta đặt nặng vấn đề tâm lý hoặc khi ta muốn tìm hiểu lá số của chính mình cho thực khách quan, hoặc khi ta đang hành nghề Tử vi muốn chinh phục được hoàn toàn thân chủ của ta mà thôi. Tuy nhiên, quý bạn cũng đừng bao giờ nên quá đa nghi các cách tốt để đến nỗi lá số nào cũng chê là xấu, hoặc gặp lá số thật xấu lại khen là hay, như thế cũng không phải là linh động.

KHHB số 74G2
 
Bên trên