Một Số Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí Trước Những Năm Giải Phóng

MụcĐồng

Tư vấn viên
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi
Giáo sư Lê Trung Hưng

Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Tìm hiểu tính tình phụ nữ qua tử vi
Phong Nguyên (KHHB 45)

Những cách xấu

1/ Tham lang địa kiếp
Đa số các nhà tử vi ko khen phụ nữ nào có 2 sao này hay 1 trong 2 sao tọa thủ tại mệnh thân (nhất là mệnh).

Câu phú “Trai bất nhân Phá quân thìn tuất, gái bạc tình Tham Sát dần thân” chỉ chê phụ nữ có Tham, Sát dần thân là bạc tình, nhưng tôi nghiệm thấy còn tệ hơn nữa vì người đó ngoài tính bạc tình còn có tâm địa ích kỉ, tham vọng vô bờ bến về mọi phương diện nhất là về tình và tiền (gặp ai mà ưa là say mê liền hoặc đang yêu mà thấy người đó hết tiền là bỏ luôn).

Về câu phú trên tôi thấy ứng nhiều với sao Tham Lang chứ ít đúng với sao Thất Sát nếu không có sao tăng cường. Thực tế khi mạng cư dần thân có Sát thì cung xung chiếu bao giờ cũng là Tử Phủ là 2 sao trung hậu, gây ảnh hưởng ko ít cho Thất sát, nhất là khi mạng ko có ngũ hành hợp sao này, hơn nữa chính sao Thất sát là sao chủ về khắc khổ, khắc khe, u buồn, ít tình cảm, thì khó thể quyết đoán là đương số bạc tình. Phải chăng là có những tính này nên không yêu đương đằm thắm được, chứ làm gì có lòng dâm tà.

Nhưng khi có Tham Lang thủ mạng, nhất là ở tí ngọ, dần thân, thìn tuất thì khó thể níu kéo cung xung chiếu để chế hóa mạnh mẽ sao này.
Có nhà tử vi đã ko lầm khi cho rằng Tham Lang còn tệ hơn Đào, Hồng, Riêu, Mộc vì Tham Lang vừa dâm vừa gian tà ích kỉ trong khi Đào, Hồng, Riêu, Mộc chỉ có đam mê về nhục dục chứ chưa hẳn thiếu tâm hồn cao thượng, vị tha. Nếu chẳng may có Tham Lang thủ mạng lại gặp đủ bộ sao lả lướt trên đây thì thực là quá sức dâm dật hoặc vô luân; những người phụ nữ đó không thể chấp nhận làm người bạn đời được. Riêng Tham Vũ và Liêm Tham thì ít bị ảnh hưởng của Tham Lang vì thuộc về cách khác

Còn sao Địa Kiếp tuy ko chủ về tình ái nhục dục nhưng có đặc tính mạnh mẽ về gian tà, thủ đoạn, tàn nhẫn, bần tiện, ác độc. Chỉ 1 sao này cũng đủ làm cho tâm hồn người phụ nữ xấu xa và cũng đủ làm hỏng gần hết các cách hay khác. Nếu xui có thêm Tham Lang thì người đó hết làm bạn được với ai. Nếu có Đào Hồng Binh Tướng hội chiếu thường hay bị hãm hiếp; hoặc làm gái điếm khi có thêm Riêu, Mộc, Cái, Hỏa, Linh và 1 vài cách bổ túc khác.

Tôi cho rằng thà có Địa Không lâm mệnh thân còn hơn có Địa Kiếp, vì Địa Không thường chủ về vất vả, thất bại, hôn nhân trắc trở chứ ít khi chủ về gian trá, ích kỉ mạnh mẽ như địa kiếp. Mặc dù có câu phú “Không kiếp lâm Tài Phúc chỉ hương sinh lai bần tiện” tôi cho rằng chỉ ứng với Kiếp. Riêng về Không Kiếp đắc địa Tị Hợi thì ko liên quan gì đến cách đoán trên vì cách này cũng là 1 cách tốt cho nam lẫn nữ, nhất là Âm Nam, Dương Nữ (tôi đã bàn kĩ về điểm này trong bài đầu tiên của tôi trên KHHB)

2/ Đào, Hồng, Riêu, Mộc, Cái
Sau sao Tham Lang tôi chê người phụ nữ nào có các sao này, dù họ có cả Tử Phủ, Khôi Việt, Quan Phúc chiếu mệnh chăng nữa. Thực tế các sao đó có năng lực rất mạnh về tình ái, nhục dục cho nên bộ sao đứng đắn khó làm mất hiệu lực của chúng, nhất là khi có cả Không Kiếp, Hỏa Linh, Phục, Tả Hữu thì thuộc về hạng gái làm tiền.

Chỉ có 2 sao Đào Riêu vẫn là loại gái lăng loàn, trắc nết, dễ cắm sừng vào đầu chồng, chẳng thế mà có câu “Đào Riêu số gái ai hay, chồng ra khỏi cửa dắt trai vào”.

Hơn nữa, nguyên sao Đào Hoa hoặc Hồng Loan thủ mệnh cũng bát lợi cho người chồng vì 2 sao này chủ về 2 đời chồng hoặc ít khi sống gần chồng. Tôi ko cho 2 sao này nói về tình ái liên tục mà thực ra là “trăm mối tối nằm không”, như vậy có hay gì cho hạnh phúc vợ chồng. Đấy là chưa kể về vấn đề yểu tướng khi có Không Kiếp giao hội, vì có câu “Đào, Hồng hội Kiếp Không lâm thủ, sá bàn chi những lũ yểu vong”

3/ Vũ khúc, Cô quả, lộc tồn
Những sao này khi thủ mạng nữ chẳng bao giờ có nghĩa xấu xa, nhưng tôi vẫn ko cho là tốt vì các sao đó chủ về cô đơn, góa bụa, hoặc lạnh lùng, khắc khe, là những yếu tố ko lợi cho hạnh phúc lứa đôi. Nhưng bù lại, người đó có tay làm ra tiền và càng nhiều tiền càng dễ bị sống xa cách chồng. Cách này hay dở tùy thuộc cảm nghĩ hoặc í thích của người chọn vợ, vì có ông chỉ nghĩ đến tiền nên khi vợ làm ra nhiều tiền thì đương nhiên được coi là hay, nhưng có ông chỉ ưa sống gần vợ mà cứ phải nay đây mai đó hoặc phải chia ly xa cách vì hoàn cảnh sự nghiệp thì đương nhiên cách này thành xấu

4/ Phá quân, Đại Tiểu hao
1 phụ nữ không dâm tà độc địa ích kỉ, không lạnh lùng khắc khe cũng chưa đủ làm người vợ tốt: người đó còn cần có tính cẩn thận, tằn tiện, ngăn nắp nữa mới có thể thành người nội trợ giỏi, đảm đang. Như vậy phải tránh Phá quân hội Đại Tiểu hao (trừ khi Đại Tiểu hao cư Mão, Dậu) dù cho Phá quân đắc cách ở tí, ngọ vì các sao này chủ về bừa bãi, ngông cuồng, hoang phí, phóng khoáng ăn chơi, cờ bạc, nghiện ngập. Dù mình là tỉ phú cũng chẳng nên lựa người phụ nữ kiểu này, vì chẳng mấy chốc mà sự nghiệp tan tành vì bị phá của rất mạnh mẽ.

Trên đây là những điều tôi cho rằng tối kị với phụ nữ, vì thực ra còn nhiều cách xấu khác không tai hại lắm và cũng khó thể tránh được. Nhân vô thập toàn mà

Những cách tốt

1/ Tử Phủ dần thân
Cách này ít nhà tử vi dám chê và riêng tôi, tôi coi cách này hay nhất đối với phụ nữ. Mỗi khi coi lá số 1 người phụ nữ có cách này là tôi có thiện cảm và kính trọng liền, vì gần như chắc chắn người đó đoan trang, tiết hạnh và thông minh.

Nhất là khi có thêm Hóa Khoa đồng cung hoặc Khôi Việt giao hội thì thực hết chỗ chê. Riêng Hóa Khoa có điềm hay đặc biệt là vừa thông minh lại vừa nhân hậu từ trong lòng đến bề ngoài (như thế là nhân hậu thật sự chứ không phải đạo đức giả). Phải chăng vì thế mà theo cách bố cục các sao, Đào Hoa không bao giờ đồng cung Tử Phủ dần thân, vì đào hoa chủ về đa tình, lãng mạn lẳng lơ. Còn Hồng Loan tuy cũng có khi đồng cung (khi tuổi Sửu Mùi) nhưng không đáng ngại vì Hồng Loan thường chủ về 2 đời chồng hoặc trắc trở hôn nhân chứ ít khi có nghĩa đa tình như Đào Hoa, nhất là khi có Tử Phủ chế hóa nhiều

Có người thắc mắc sao không coi Tử vi cư ngọ là tốt nhất đối với người phụ nữ. Thật ra cách đó chỉ tốt về công danh uy quyền chứ không hẳn tiêu biểu cho nết hạnh phụ nữ. Chẳng thế mà cung Ngọ cũng là 1 trong 4 vị trí của đào hoa, và khi sao này cư Ngọ thì đương nhiên người phụ nữ đó coi tình ái như “pha” nghĩa là họ có thể trở thành bạc tình, dù có Tử Vi đóng ở đó nữa. và có khi chính vì có Tử Vi mà thành ngang tang trong vấn đề tình ái vì Tử vi cư ngọ được coi là “vua” trong các sao thì coi ai ra gì. Tuy nhiên khi có Tử vi mà không có đào hoa thì vẫn cho là tốt về tính tình nhưng nhất định có tính kiêu kì quá đáng, là 1 điều làm phái nam bực mình và thiệt thòi

2/ Tử Sát tị hợi
Cách “Tử Sát đồng lâm tị hợi nhất triều phú quí song toàn” là cách tốt thứ 2 đối với phụ nữ, theo ý kiến của riêng tôi. Tuy nhiên, cách này cũng có khía cạnh đáng chê là người phụ nữ đó thường nghiêm nghị quá, thành ra mất vẻ nữ tính, nhất là gặp ông nào nhiều tình cảm thì thực là giảm nhiều khắng khít. Nhưng bù lại người phụ nữ đó rất vượng phu ích tử hoặc có tay làm ra tiền như thế cũng là hay lắm rồi.

Còn những cách liên hệ với tử vi như Tử Tham,Tử Tướng, Tử Phá … tôi không dám cho là tốt được, vì như Tử tham thì cũng tệ như những cách xấu nêu trên, nhất là có thêm đào hoa (mão hoặc dậu), Tử Tướng lại phạm vào câu “Đế tọa La Võng, hoàn vi phi nghĩa chi nhân”, còn Tử Phá tuy khá hơn nhưng hay có tính ngang bướng, bất cần đời mặc dù cũng đứng đắn

3/ Đồng Lương dần thân
Cách “Đồng Lương tối hỉ dần thân hội” cũng đáng gọi là hay vì người phụ nữ nào có cách này tính tình nhẹ nhàng, dịu dàng và nhất là có sắc đẹp mĩ miều (nhưng ở đây tôi không bàn về nhan sắc mà chỉ nói về tính tình). Tuy nhiên, cách này vẫn thua kém 2 cách trên về sự đứng đắn, đoan trang và quí phái, vì khi đã dính tới Thiên Đồng là chủ về thay đổi, canh cải, không giữ vững lập trường tức là không thể chung tình tuyệt đối được, nhất là khi Hồng Loan đồng cung.

4/ Vũ Tướng dần thân
Cách này hay ở chỗ là người đảm đang, đứng đắn, biết xoay xở quán xuyến, nhưng vì liên hệ tới Vũ Khúc nên tính thích cô đơn, lạnh lùng và quả quyết như đàn ông (do đó cần tránh Cô quả, lộc tồn), còn Thiên Tướng chủ về chỉ huy nên dễ bắt nạt chồng. Nếu ai chịu được những điều trên thì rất nên lựa người bạn đời có Vũ Tướng để khỏi bị gánh nặng gia đình trút hết vào mình, nhất là trong giai đonạ mưu sinh khó khăn hiện nay

5/ Vũ Sát mão dậu
Cách này chỉ hay ở phương diện đứng đắn, đoan trang vì 2 sao này cũng ghét tình ái bậy bạ, nhưng về tình vợ chồng thì vẫn xem trọng mặc dù không lả lướt lắm. vậy ai thích có vợ chỉ lo toan nội trợ hoặc tần tảo bán buôn thì hãy chọn cách này, nhưng cần phải tránh được Lộc tồn đồng cung và cô quả tại “thân” (vì không bao giờ cô quả tại Mão dậu) cư hợi hoặc mùi, để khỏi gặp người khắc chồng trở thành góa bụa

6/ Nhật Nguyệt đắc địa
Cách này có thêm Tả Hữu hoặc Song Lộc là người phụ nữ đảm đam nhất về phương diện kinh doanh lớn, nhưng có điểm kẹt khi gặp đào hồng hay riêu, mộc, cái thường hay thích ăn chơi ngoài xã hội dù vẫn lo chuyện làm ăn, vì Nhật Nguyệt bao giờ cũng chủ về mơ mộng vẩn vơ, có tâm hồn, “là thi sĩ nghĩa là du với gió”

7/ Cơ Lương thìn tuất
Cách này thường hay cho phái nam nhiều hơn nữ, vì rất hợp về mưu trí, kế hoạch, cho nên phụ nữ có cách này thì khôn quá có thể lừa dối, qua mặt chồng dễ dàng. Lẽ tất nhiên nếu không có các sao xấu hội hợp thì chẳng đáng ngại, nhưng lỡ có 1 vài điểm “mờ ám” nào là phải nên dè dặt đối với người bạn đời của mình

8/ Phủ Tướng triều viên
Đây là cách trung bình, nghĩa là chỉ chăm chỉ làm ăn, không có gì xuất sắc mà cũng không có gi đáng chê trách. Thường những người phụ nữ có cách này hay làm công chức, sống cuộc đời nề nếp

Các trung tinh tốt
Cũng cần nhìn vào Các trung tinh như thai tọa, khôi việt, quan phúc, tràng sinh đế vượng quang quí, long phượng, khoa, lộc (tôi không đề cập Hóa Quyền vì sao này không chủ về tính tình tốt của phụ nữ, có sao đó chỉ người kiêu căng, hách dịch, hay bắt nạt chồng) để cho điểm cao thêm vì những sao phụ trên đóng góp khá nhiều vào tính đọa đức, đứng đắn, đảm đang.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
1001 chuyện Tử vi
THÂN CƯ – THÊ: KHÔNG LẤY VỢ THẾ MÀ CUNG VẪN LÀM MỌI CHO ĐÀN BÀ


- Hoàng Hạc _-

• Ông Ngô Đình Diệm và Ông Ngô Đình Nhu: Những sao uy quyền đều nằm trong tay cung thê.
• Một chuyện cải số bằng cách trá hình.

Cái vụ “ Thân cư Thê “ tự nó không làm mệt cho đương sự, vì cái thân dựa vào vợ hay là phải rắc rối chịu lụy vợ, không phải là một cái mệt đối với những thường nhân. Nhưng nó sẽ mệt đối với những người làm lớn, những nhà cách mạng.
“ Thân cư Thê “ – không có vợ, cũng chịu ảnh hưởng.
Có một sự trùng hợp kỳ dị, ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, có những ngôi sao uy quyền đều nằm ở cung … đàn bà.


Các vụ “ thân cư thê “ làm mọi gián tiếp cho đàn bà.


Một bạn hỏi tôi:

- Số tôi lận đận về đường vợ con, vậy chớ tôi ở vậy luôn không cưới vợ nữa như vậy có được không ?

Tôi nghĩ rằng cũng có thể tránh được nhưng mà khó. Tôi xin kể câu chuyện một anh bạn có số Tử Vi không xấu không tốt nhưng Thân lại đóng ở Thê. Cái đó mới nguy. Anh ấy khi bàn đến lá số của mình, anh ta đâm ra chán quá nhất định là anh ta không cưới vợ trong khi ấy, anh ta đang hứa hôn với một người. Nhưng anh ta hỏi tôi:

- Tôi muốn sống độc thân có được không ?

Tôi nói:

- Sao không được ? Anh có chính tinh đắc địa, lại không có dâm tinh thi đâu có khó. Và dù có dâm tinh cũng không sao. Nhưng tôi e rồi anh cũng sẽ “ làm mọi “ cho đàn bà . Rất tiếc, nếu “ làm mọi” cho đáng, chả nói chi, e rằng lại “ làm mọi” một cách gián tiếp thì mệt quá .

Không lấy vợ cũng cứ làm mọi cho đàn bà

Anh ta hỏi:

- Nghĩa là thế nào ?

- Nghĩa là thế nào anh cũng dính. Khó chạy. Tuy nhiên, có “ tận nhân lực “ mới “ tri thiên mạng “ . Anh thử xem, nhưng phải cương quyết là nếu gặp đàn bà mà cưới về làm vợ, thì có nhiều sự bất tiện cho sự nghiệp của anh.

Nghe lời tôi, anh không lấy vợ. Nhưng một hôm, anh bảo:

- Khổ quá, “tránh cha mồ mắc cha mả “ “ tránh thầy cả gặp thầy con” . Không thèm cưới vợ bây giờ lại kẹt con em gái tôi, chồng nó chết bất ngờ, lại có thêm một bầy con, tôi đã nhận mấy đứa nhỏ và kêu mẹ nó về…. nuôi cả gia đình. Chứ làm sao bây giờ ! Khổ quá ! Thà là tôi có vợ đi thì dù chúng nó có muốn ở với tôi, tôi bao quanh chúng nó, cũng khổ như là vợ con mình.

Tôi bảo:

- Không sao ! Đàn bà mà Thân đóng cung Phu là ( nhờ chồng ) chứ đàn ông mà Thân đóng cung Thê, dở lắm. Nhất là cung Thê xấu nữa.

Anh nuôi bầy cháu và em gái anh, chỉ cực có cái tiền, chứ không bị hệ lụy ở cái tình. Gặp một chị vợ đòi hỏi nhiều hơn cái đồng tiền của anh …. Vậy thì thà như vậy, đỡ khổ.

Anh ấy đồng ý, nhưng lại nói,

- Thì té ra như lời anh đoán suốt đời làm mọi đàn bà.

- Anh có thương cô em đó không ?

- Thương lắm chứ sao không ?

Chỉ có hai anh em từ nhỏ không rời. Đến khi lớn lên nó lấy chồng, tôi buồn ghê lắm, nhưng dầu sao cũng phải xa nhau.

Tình máu mủ đậm đà bởi cha mẹ đều mất cả. Trên đời trơ trọi có hai anh em. Mà nghĩ kỹ, nếu tôi không nghe lời anh, thì nay khó xử. Tôi không thể bỏ em tôi và bầy cháu. Nếu tôi phải bỏ một trong hai người nhứt định tôi giữ em tôi. Tội nghiệp, hiện tôi là lẽ sống của cả gia đình nó.

Câu chuyện như thế, hiện nay, tuy anh không lập gia đình, nhưng bầy cháu đều xem anh như người cha và anh đã yêu- thương lo – lắng không khác con đẻ. Một nhà đầm ấm….
Người em gái lo lắng cả vấn đề săn sóc anh còn hơn một người vợ lo cho chồng. Té ra đổi cảnh, tuy khác nhau mà lại y số mạng.

Cải số…. bằng cách trá hình

Về vấn đề cải số, tôi được một nhà lý- số có tài cho biết, việc gì chứ cải số là được ngay. Mình trá hình…. Như xưa kia Khổng Minh cầu thọ bằng cách làm “ đám ma “ cho mình…

Tôi nói:

- Dùng “ ma thuật “ à !
- Không đâu. Nói phải thì không phải, nhưng không hẳn là vô lý. Là như thế này!

Bạn tôi thuật:

- Có một người bạn quen thân, theo lá số thì năm… ấy phải có việc tục huyền. Hỏi tôi phải làm sao ? Tôi bảo: nếu dám làm mà đừng sợ dư luận, thì tôi thử chỉ cho.

- Rồi ông chỉ cách nào ?

- Tôi bảo đầu năm ấy… hai ông bà xin ( ly dị ) đi. Đăng báo hẳn hoi và hai ông bà sau thời gian xa nhau, bà về quê ở một thời gian. Bà không chịu. Là vì bà ta nghi tôi sắp đặt để cho ông ấy cưới vợ khác . bà nói: “ Chết thì chết, chứ xa nhau làm việc ly dị công khai nhục nhã lắm. Thiên hạ dị - nghị lắm. Tôi không chịu. tôi bèn cắt nghĩa : mình làm giả, chứ đâu phải làm thiệt. bà cũng không chịu bà vẫn nghi ngờ đây là một âm mưu gì đây.

Tôi khuyên ông chồng:

- Anh có đồng ý với tôi chăng ? Và anh tin tôi không ?

- Tôi tin mới hỏi. Tôi biết anh đã tiên đoán được nhiều việc không sai, tôi lo lắm ! Tôi cũng đã hỏi nhiều người khác rất thông Tử Vi thì họ cũng quyết đoán như anh.

Xin anh bày vẽ cho tôi cách khác, vì vợ tôi khó tánh lắm và nhất là ghen đáo – để.

Tôi bèn nghĩ cách khác:

- Thì anh xin đổi đi nơi khác thật xa, và bảo rằng chừng nào lo xong việc nhà cửa sẽ đem gia đình về đó.

Ông bạn tôi nghe nói, liền nói:

- Được. Trong sở người ta cũng định gởi tôi đi ngoại quốc làm việc ở một tòa lãnh sự. Nhưng tôi ngại xa xôi con toi đang đi học tại đây.

Tôi nói:

- Vậy, anh cứ nhận đi, rồi viện lẽ con đang đi học, anh sẽ lo liệu sau. Miễn là anh đi ra xa vắng gia đình trong khoảng năm nay để tránh tiểu hạn là được. Phải có đau khổ vì một cuộc sinh ly giống như tử biệt thì mới mong thoát ! Nhất là anh cũng vừa để cho mất một số tiền.

- Tại sao vậy ?


- Vì tài hào cũng là hào vợ nữa, tán tài để cứu mạng vợ anh.

Bạn tôi nghe theo tôi. Nhưng lại hỏi ý kiến mấy thằng bạn khác giỏi về Tử Vi, chúng nó bảo: không sao cứu vãn. Thế nào cũng phải ly biệt vĩnh viễn.

Bạn tôi tâm sự tôi bảo:

- Ăn thua anh, nếu anh tin tôi thì tin không tin không còn là lỗi tôi nữa. Tôi không còn trách nhiệm.

Anh bạn tôi về nghĩ sao không rõ thì tháng sau có sự vụ lệnh đổi anh đi… như anh đã nói. Anh cho tôi hay, tôi nói:

- Còn anh phải “ làm mất “ một số tiền.


- Rồi ! Tôi đã “ phóng thích “ cho một người bạn thiếu tôi gần triệu bạc bằng cách xé giấy nợ nhưng tôi không cho vợ tôi biết mà bạn tôi thì cám ơn tôi lắm !

- Đáng lẽ anh phải cám ơn người bạn đó.

- Đúng vậy nhưng mà anh bạn tôi chẳng hiểu lý do gì tôi lại quá tốt đến thế.

Vậy mà qua tháng 8 vợ anh ấy đau nặng, đánh điện gọi anh về, thì lúc anh đi vắng phải công cán một nơi khác. Đến khi về thì hay là vợ anh đã được cứu chữa. Chỉ trong khoảnh khắc là thấy chết.

Bạn tôi kết luận:

- Tránh số là vậy. Nhưng rồi anh ấy cũng vẫn điêu linh, vì đau khổ lo nghĩ như người đã chết vợ và người vợ anh cũng ở trong tình trạng có chồng mà như mất chồng.

Sau năm ấy anh được hồi hương sau một năm rưỡi xa nhau và theo lời khuyên lén của tôi, anh làm một cái lễ để “ cưới lại vợ anh “ lúc này chị vợ anh không còn dám cãi tôi nữa, và để cho chồng làm gì thì làm.

Cải cái số “ Thân cư Thê “

Hôm nay xin tiếp câu chuyện đổi mạng đổi số mà tôi vừa thuật cho các bạn tức là chuyện một người biết có số mình có Thân đeo cung Thê muốn tìm con đường tự do ( không cưới vợ ) để dễ dàng và thênh thang trên con đường làm chính trị của mình.

Chúng tôi đồng ý với anh bạn ấy vì nếu là một nhà cách mạng thật sự cách mạng vì dân vì nước, không nên sớm xây dựng gia đình như Aristide Briond đã nói: Một là khỏi bị ràng buộc trong tình thương mà đâm ra rụt rè e ngại, hai là đừng lôi cuốn vợ con vào cảnh bất thường của con nhà cách mạng. Anh bạn tôi chưa định hy sinh gia đình để lấy gia đình của dân tộc làm gia đình mình.

Anh có lý phần nào nhưng rồi “ Thân đeo cung Thê “ rốt cuộc lại cũng là chạy khỏi cảnh đeo theo vì phải gánh vác một gia đình khác. Đó là “ chạy cha mồ mắc cha mả, chạy thầy cả mắc thầy con “
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Khi các ông lớn mê tướng số

Ông lớn nên học tướng số chứ đừng nên mê tướng số

Đó là điều ước mong đầu tiên của người viết.

Trước hết, là những người có quyền trong tay, nghĩa là có ảnh hưởng vào đời sống của dân và vận mạng đất nước. Tin vào người ngoài có khi toi mạng. Người ngoài cũng có thể không dám đoán đúng vào sự thật, vì sợ mất lòng, sợ vào tù. Trừ khi gặp được một nhà tiên tri thật giỏi và dám nói sự thật.

Người có quyền trong tay nên tự mình học tướng số, dịch lý, để biết mình, biết người mà hiểu đường tiến lui mà làm việc nước, như vậy tốt hơn.

Vận nước và vận ông lớn

Trong thời kỳ vừa qua, vận nước không hề đi đôi với vận của nhà cầm quyền, như các ngài Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Cao Kỳ lên lên xuống xuống mà tuyệt nhiên đất nước vẫn còn đó, vẫn còn nguyên đó với sự tồn tại của mình và cả với cuộc chiến tranh của mình.

Một vụ coi Tử vi của các tướng trước cuộc đảo chánh nhà Ngô

Làm đảo chánh là đứng trước cái sống, cái chết, sơ sẩy một chút là nguy. Cho nên các tướng tụ tập chung quanh tướng Dương Văn Minh hồi tháng 10/1963, đã nghĩ đến sự huyền bí của số mạng và đi thỉnh ý các nhà Tử Vi.

Một ông Tá hét ra lửa lúc đó cũng là một cây Tử vi (được biết là Đại tá Đỗ Mậu, người cầm đầu ngành an ninh quân đội) đã xách ngày giờ sanh của các vị tướng đã dấu sẳn tên trong Hội đồng Cách mạng tướng lãnh đến để cụ Ba La coi, cụ là một nhà tử vi nổi tiếng, những lời của cụ chắc nịch và rất đúng.

Nhà tử vi Đỗ Mậu chỉ cho biết đó là số của những ông tướng muốn làm ăn lớn. Cụ Ba La bấm số rồi nói lên những câu điếng hồn:

– Thành công cũng có thể, mà sao số quái gì mà thấy những tù tội không à, ngay năm Quý Mão này là có chuyện rồi à, mất nghiệp chứ chẳng phải chơi.

Cụ Ba La đoán đã tài ba, nhưng đem lời đoán ra mà suy luận thì khó mà biết. Chuyện thiên cơ mà! Các nhà tướng lúc đó chỉ nghĩ có chuyện thành công hay thất bại mà thôi. Mà thất bại thì vào tù, như vậy đảo chánh sẽ thất bại và sẽ vào tù cả lũ!

Nghĩa thật là ngao ngán!

Nhưng một liều, ba bảy cũng liều, không đảo chánh cũng lộ và bánh xe chính quyền sẽ nghiền nát. Vả chăng, số đã định: sẽ mất nghiệp, sẽ vào tù.

Tiếc rằng hồi đó cụ Ba La không được xét lá số của ông Trần Thiện Khiêm và ông Nguyễn Văn Thiệu, hai người cùng ở trong Hội đồng quân nhân cách mạng và là hai người thật sự nắm binh quyền. Nếu xem hai lá số đó, cụ Ba La sẽ thấy hai ông đó phây phây còn lên mạnh, chứ không bị mất nghiệp như các ông Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính, Trần Văn Đôn, v.v…

Cuộc đảo chánh đã xảy ra, thành công hoàn toàn, vào ngày 01/11/1963, tức ngày 16 tháng 9 năm Quý Mão. Các ông tướng trong Hội đồng quân nhân cách mạng đều lên cao tột bậc. Nhưng ba tháng sau, ngày 30/01/1964, tức ngày 15 tháng chạp năm Quý Mão, các ông tướng ở ngôi vị cao nhất (Quốc trưởng, Tổng tưởng quốc phòng, Tổng trưởng nội vụ, Tổng giám đốc cảnh sát công an, Tổng trưởng văn hóa, v.v…) chỉ ngủ một đêm, sáng đã thấy mình mất chức và bị đưa an trí.

Tử Vi thật là tài ! nhưng không thể thấy các số nhân vật để luận vận nước. Cơ trời vẫn khó bị tiết lộ.

Trong số những tướng lãnh trong Hội đồng quân nhân cách mạng, chỉ có hai ông có lá số thật tốt, là ông Khiêm và ông Thiệu, hai trong số những người chủ não trong cuộc chỉnh lý ngày 30 tháng Giêng. Hai ông còn tiến xa hơn nữa.

Tướng Nguyễn Khánh tin tướng số hơn ai hết

Khi ông Nguyễn Khánh lên đến tột bực rồi, các nhà Tử Vi am hiểu đã chê lá số của ông tướng Bính Dần ấy một cách thẳng thắn. Còn các nhà tướng thì chê đôi mắt của ông ta và cái cằm lẹm. Đó không phải là số và tướng của con người ở ngôi vị lâu dài, dù con người đó nhiều mánh lới. Cái cằm lẹm báo trước một hậu vận thật xấu.

Có lẽ biết lo hậu vận xấu, cho nên ông Nguyễn Khánh tin tướng số hơn ai hết, đó là nguyên ủy bộ râu của ông, một nhà tướng nổi danh bảo: phải có bộ râu che cái cằm lẹm đi, mới tránh được hậu vận xấu.

Cái lối tránh né như vậy để cải tướng thật là khó tin, nhưng ông Nguyễn Khánh lại quá chất phác để tin rằng bộ râu (che cái cằm lẹm) có thể cải tướng (thay vì ăn ở phúc đức, cai trị với sự ngay thẳng).

Mang bộ râu như một đạo bùa hộ mạng, ông Nguyễn Khánh làm nhiều trò quay quắt, chống lại những kẻ đã gầy dựng cho ông, gieo ra cuộc chống đối nhau giữa hai tôn giáo, và lập hiến chương Vũng Tàu tự nắm hết quyền độc tài. Thế rồi ông bị quốc dân biểu tình đánh đổ.

Như vậy, cái bộ râu không phải là bùa hộ mạng nữa. Ông lên Đà Lạt nằm, cắt mẹ nó bộ râu đi, và trở về Sài Gòn, nắm lại quyền. Bộ mặt ông lạ hẳn đi, ai cũng thấy cái cằm lẹm.

Một thời gian ngắn sau đó, ông Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ lật đổ, bị hất ra ngoại quốc, và sống im lìm đã 7 năm nay, chẳng ai còn nhắc đến.

Ông Kỳ và ông Thiệu

Ông Nguyễn Cao Kỳ cũng rất tin Tử vi, và rất khoái cái cách Nhật Lệ Trung Thiên (Thái dương cư ngọ) của ông. Tuy nhiên, thường trong cuộc đời, người ta chỉ ăn một đại hạn là nhiều, ông Kỳ được một đại hạn cũng là rất quý, giờ đây, ông có thể khéo léo mà khai thác những bước tiến cũ để đừng xuống dốc quá đáng như tướng Nguyễn Khánh.

Lá số tử vi của ông cũng chỉ cho ông mấy đường tiến. Vừa đây, ông Kỳ có phát ngôn về cái vụ một thầy tướng nổi danbh xem tướng cho bà Thiệu, và cho rằng ông Thiệu nhờ bà, vì bà có tướng mệnh phụ phu nhân. Tướng quý tiên của đàn bà coi rất dễ (sẽ trình giải trong một số sau) – tuy nhiên, bảo rằng ông nhờ bà thì chẳng đúng chút nào. Thói thường, chồng và vợ dựa lẫn nhau trong một số yếu tố (như con cái, tiền bạc), có sự bù trừ giữa hai người, chứ không thể bảo một ông này lên to vì bà vợ có tướng tốt, hoặc một ông kia xuống thấp vì vợ tướng xấu. Trên đường công danh, yếu tố chính vẫn là do đương sự có tướng tốt hay có số tốt hay không.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
GIẢI THÍCH CÁCH PHÚ: “THẠCH TRUNG ẨN NGỌC” ĐỂ XÁC ĐỊNH: HÌNH TƯỢNG CỦA NHẬT – NGUYỆT
Bài của Nghi Nghi
Trần Nhật Tường

Bài sau đây có những ý tưởng lạ khác với những cách giải đoán cũ, kính xin quý vị cao thủ thấy không thể tán đồng, cho chúng tôi ý kiến… Những người trẻ đi tìm Tử vi ngày nay khá đông, nghĩ sao là cứ nêu ra – nhưng còn vấn đề kinh nghiệm nữa.

Trước khi trình bầy lá số của Thạch Sùng tôi xin giải thích một câu phú ghi trong tập Tử vi đẩu số toàn thư của đức Hi Di Trần Đoàn sau đây thì mới thấy cái hay, cái lạ và cái vô cùng lý thú của Tử vi được:
“Cự môn Tý Ngọ: Khoa Quyền Lộc, Thạch trung ẩn ngọc, Phúc hưng long”
Nghĩa chính của câu phú thế này “Mệnh ở Tý Ngọ có Cự Môn tọa thủ gia thêm Khoa Quyền Lộc nữa là cách: “Thạch trung ẩn ngọc” (Ngọc ẩn trong đá) sẽ được hưởng phúc lớn”.

Đó là ý chính còn muốn hiểu cho rõ ngọn nguồn và cho chính xác câu phú trên, ta phải tự hỏi: Cự môn là một sao thuộc hành Thủy, đóng tại cung Tý là Thủy địa hay vào cung Ngọ là Hỏa hướng, tại sao lại được coi như “Ngọc ẩn trong dá? Ngọc ở đâu và đá ở đâu? Trong khi chỉ thấy có Thủy, Hỏa. Nước với lửa không lẽ thành ngọc, thành đá được!

Để trả lời cho thỏa đáng câu hỏi này, tôi phải ghi lên đây một vài nhận xét mà trong dân gian thường dùng làm biểu tượng hay để ví von…Như câu:
“Song long tranh châu” chẳng hạn, thức là nói đến hình vẽ hai con rồng tranh ông mặt trời hoặc “Ngọc thổ thanh kỳ” là con thỏ ngọc trong đẹp lạ lùng: ý chỉ mặt trăng sáng sủa rực rỡ…

Từ đó nói chung: Châu, Ngọc là hình tượng của Mặt trời, Mặt trăng (Nhật, Nguyệt) theo quan niệm của Á đông ta vậy.
Hiểu như trên rồi, câu phú mới có thể giải thích được:

A)Trường hợp thứ nhất:
Cự môn ở Tý, Cự môn ở tý luôn luôn kết hợp với Thái Dương (ngọc) ở Thìn (Thổ thạch) để thành cách Cự, Nhật (Mệnh sẽ chịu ảnh hưởng sự chi phối của hai sao này).

Chú thích:
Ngọc: là hình tượng của Thái Dương
Thạch: là đá, thuộc Thổ, là cung Thìn
Cho nên: Thái Dương ở cung Thìn mới chính là “Ngọc ẩn trong đá” (Thạch trung ẩn Ngọc) vậy.
Sao Cự môn (Thủy) trong mạng chính là cái mầm mống dùng để câu hút Thái Dương (Hỏa) ở cung Thìn cho bản Mệnh được sáng sủa, không có nó không xong. Một Thủy một Hỏa một Âm một Dương thu hút lẫn nhau. Suy rộng ra giống như luật hấp dẫn vũ trụ. “Attraction d’univers” của Newton ngày xưa vậy.

Cự môn ở Tý theo các sách Tử vi khác:
“Nếu Mạng được Tuần triệt án ngữ hoặc Hóa lộc đồng cung (Kỵ ngộ Lộc tồn) thì vẻ đẹp sáng sủa tốt đẹp mới được rõ rệt, cũng như đá đã được phá vỡ, ngọc lộ hẳn ra ngoài”

Câu này được rút trong sách Tử vi Đẩu số tân biên của cố Biên giả Vân Đằng Thái thứ lang trang 56, nói về sao Cự môn. Hay nói chung các cụ ta cũng đều giảng như thế cả. Không hiểu các cụ đã căn cứ vào đâu để giảng giải như vậy? Theo tôi thấy thì nó có hơi kỳ cục! Nếu nói: “Gặp Tuần, Triệt án ngữ hoặc Hóa lộc đồng cung thì ngọc mới lộ được ra ngoài và đã coi như đã bị phá vỡ…” Một khi ngọc đã bị lộ ra ngoài là hết còn ẩn nữa rồi, mà hết còn ẩn thì coi như cách “Thạch trung ẩn ngọc” đã hỏng cho nên theo sự hiểu biết riêng của tôi thì: chữ Ẩn trong câu phú này chỉ có một dụng ý cho ta biết vị trí của sao Thái Dương đóng vào cung Thìn mà thôi. Còn điều cốt yếu trong cách này là: bản Mệnh có nhận được sức sáng của Thái Dương hay không? (do sao Cự môn câu hút). Để được tốt đẹp hơn, có thể thêm vào những phần phụ sau đây:

-Cần được Tuần, Triệt án ngữ ở Mệnh (trường hợp Cự môn ở Tý) để làm giảm, mất đi cái tính chất Ám (che, khuất) của Cự môn, Mạng mới sáng được.

-Kỵ ngộ Lộc tồn: không phải sao này làm cho ngọc cứ mãi mãi chìm trong đá. Mà vì nó có đặc tính giữ chặt lấy (Tồn) tính chất ám của Cự môn nên không có lợi cho bản Mệnh.

-Không cần sao Hóa Lộc trong trường hợp này để cho vào trường hợp sau, ở Ngọ.

B)Trường hợp thứ hai:
Cự môn ở Ngọ. Theo tôi thấy, Cự môn ở Ngọ tuy vẫn là cách “Thạch trung ẩn ngọc” song trường hợp này đã mất đi hết cái hay của cách rồi. Mấy điểm xấu có thể kể ra là:

1.Cự môn ở Ngọ bị sai vị: thất cách vì Cự môn là Bắc đẩu thủy tinh cư vào cung Ngọ thuộc Hỏa là Nam vị. Mặc dầu Thủy Hỏa vẫn kết hợp được theo nguyên tắc của Âm, Dương, Cự môn, vốn Vượng địa ở đấy nhưng…

2.Đưa đến tình trạng Thái Dương ở Tuất thất huy (không sáng sủa) nên không thể ghi “Phúc hưng long” được.

3.Khi cho Hóa lộc đồng cung: Không giải thích nổi tại sao lại tốt?
Vậy, tôi xin đưa ra một đề nghị: sửa lại câu này một chút như sau:
“Cự Cơ, Tý Ngọ Khoa Quyền Lộc.
Thạch trung ẩn ngọ, Phúc Hưng long”
Bỏ chữ Môn đi thay bằng chữ Cơ để giải thích cặp sao Cơ, Cự ở bốn vị trí: Tý, Ngọ, Mão, Dậu
Tý Ngọ: Thạch trung ẩn ngọc
Mão Dậu: Chúng thủy triều đông
Cự Môn ở Tý, Thiên Cơ ở Ngọ.
Bắc đẩu tinh Cự Môn vào Bắc vị mới hay và Nam đẩu tinh Thiên Cơ của Nam vị mới đúng. Khi đó cặp Nhật Nguyệt mới sáng sủa tốt đẹp được.

Ghi chú thêm: Cơ, Cự ở Mão mới đúng cách: “Chúng thủy triều đông”. Còn ở Dậu không phải, có chăng chỉ là:
Cơ Cự Dậu thượng hóa cát giả
Túng ngộ Tài Quan dã bất vinh

Cũng như Cự ở Tý mới tốt, Cơ ở Ngọ mới hay còn ngược lại Cự ở Ngọ và Cơ ở Tý thì cũng quá, cũng lại “dã bất vinh” mà thôi, không thể “phúc hưng long” được

Vậy bây giờ xét trường hợp: Thiên Cơ ở Ngọ. Khi Thiên Cơ ở Ngọ thì bao giờ cũng vậy, Thái Âm (Ngọc) ở Tuất (Thổ thạch)
Chú thích:
Ngọc: là hình tượng của Thái Âm.
Thạch: là đá, thuộc Thổ, là cung Tuất, cho nên: “Thạch trung ẩn ngọc” cũng là cách của Thái Âm đóng vào cung Tuất vậy.
Tính chất của Mộc là thu hút Thủy nên Nam đẩu Thiên Cơ (Mộc) với Bắc đẩu Thái Âm (Thủy): Một Nam một Bắc, Một Âm, Dương: Thiên Cơ (Mộc) thu hút lấy Thái Âm (Thủy) để biến sinh, nuôi dưỡng bản Mệnh vậy.

Phần phụ thêm
Bây giờ nếu thêm vào sao Hóa Lộc đồng cung nữa sẽ thấy cái rất hay của cách phú:
Khi có Hóa Lộc đồng cung thì Thiên Cơ (Mộc) được Hóa Lộc (Thổ) bồi đắp Thái Âm (Thủy) dinh dưỡng, sẽ đâm chồi, nẩy lá (Hóa Lộc).
Cái cảnh cây xanh lá non với trăng sáng giữa trời còn gì đẹp bằng

Đến đây coi như ta đã hiểu được thế nào là cách “Thạch trung ẩn ngọc rồi. Bây giờ chỉ còn một đoạn chót phải tìm hiểu thêm tại sao với cách này, Lão tổ Hi Di lại không ghi chẳng hạn như “Quan cư Hầu Bá” hoặc “Cự thương Cao Mại”… mà lại ghi là “Phúc hưng long”!
Ta thấy, vì trong thiên “Đẩu số cốt tủy” Lão tổ Hi Di dậy rằng:
“Âm Dương duyên thọ tăng bách phúc”
Mà ảnh hưởng chính của cách này lại do cặp Âm Dương ở hai cung Thìn Tuất tạo nên. Do đó, bắt buộc ngài phải ghi thêm vào cái đuôi “Phúc hưng long” vậy.

Sở dĩ tôi phải giải thích câu phú trên là chỉ có một mục đích, muốn nêu lên một minh chứng rõ rệt để xác định về hình tượng của Nhật Nguyệt: đến khi giải thích sang lá số của Thạch Sùng, quý vị mới thấy cái linh diệu và cái vô cùng lý thú của Tử vi được.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
1001 CHUYỆN TỬ VI
ĐÀO HOA NGỘ SAO THAI … CÓ DẮT TRAI VÀO NHÀ
MẠNG VÔ CHÍNH DIỆU TU HAY KHÔNG TU?
NGỒI TRÊN ĐỐNG BẠC MÀ VẪN CHẾT ĐÓI NHƯ THƯỜNG
ÁC TINH ĐÁNG SỢ NHƯNG CŨNG ĐÁNG QUÝ

HÒANG HẠC


LTS Dưới đây là mộ số câu chuyện ngắn ngắn của cụ Hòang Hạc về Tử Vi, nhưng chuyện lý thú, lạ và có ích. Cụ Hòang Hạc vừa làm một số nhận xét, vừa kể những câu chyện có thật về Tử Vi. Thời gian của các câu chuyện được xác định, có thể là khi cụ Hòang Hạc còn trẻ, có thể là mới xảy ra gần đây. Nhưng chắc chắn bạn đọc cũng nghĩ rằng thời gian của các việc không cần thiết lắm.

Nghề coi số bạc bẽo

Xem Tử Vi, cũng còn có nhiều tay giải, trong đó có một số là những nhà học giả. Tôi biết nhiều nhà học giả cừ khôi rất sành Tử Vi, nhưng các ông này dấu tài thật kỹ. Chỉ khi nào họ biết mình đứng đắn, họ mới nói chuyện với mình về Tử Vi thôi. Các ông này không thích cho ai biết tài, lại cũng không thích coi cho ai. Họ nghiên cứu và vui trong công việc nghiên cứu của họ, coi cho con cái, bạn bè chí thân mà thôi, vì coi số là một cái việc làm … bạc bão lắm.

Nói tốt thì người ta thích, nhưng không tốt mà bảo tốt sao được. Lợi lộc gì mà đi nói láo! Nhưng nói thẳng thì đâu nỡ.

Sao Thai mà ngộ Đào Hoa


Một người kia có người giới thiệu, đến nhà một người bạn tôi, mượn coi số Tử Vi đã làm sẵn. Bạn tôi coi một hồi, trao tôi xem và nói.

- Anh đóan dùm tôi đi! Tôi coi không nổi.

Tôi xem qua chẳng thấy gì là khó. Mới hỏ:

- Khó khổ nào?
- Ậy, cứ coi đi, rồi tự tiện mà giải đóan dùm.

Tôi bảo:

- Thì anh đóan đi. Bà chị đây cậy anh mà. Tôi thì đóan ẩu, vì học lăng nhăng.

Bạn tôi nhấp nháy tôi, bảo:

- Thôi anh cứ đóan đi

Tôi hiểu ý, bèn chỉ vào sao Thai và Đào Hoa ở tại mạng, cười hỏi:

- Đóan sao cha nội?
- Thì cứ nói? Có sao? (nhưng hỏi vậy mà anh ta nháy mắt láy tôi một cái).

Tôi ngụ ý bèn nói:

- Có cái này không mấy tốt, bà chị tha lỗi thì mới dám nói:
- Dạ, không sao cả ạ,
- Bà chị coi chừng, đàn ông nó thấy bà chị nó hay để ý lắm. Phải coi chừng vì số đào hoa mà.
- Nghĩa là gì sao gọi là số đào hoa?
- Nghĩa là ai thấy cũng thương. Bời vậy mà khổ, và coi chừng hay mang tiếng. Người ta thấy bà chị vui vẻ, tưởng bà chị không đứng đắn nên hay true ghẹo và nói xấu.
- Đúng quá í, họ nói xấu tôi, tôi cứ bị mang tiếng mãi. Chứ tôi đứng đán lắm.
- Nhưng bà chị nhẹ dạ lắm. Hay tin là vì thật thà, tưởng ai cũng thật như mình, mà thiên hạ thì quỷ quyệt lắm

Tùy cái “Đào Hoa mà ngộ sao Thai”


Bà ấy nghe liền phân bua với bạn tôi:

- Ông này là ai mà đóan hay hết sức. Đúng phong phóc.

Rồi tới chừng bà ra về, dĩ nhiên bà hết sức cảm ơn.

Bạn tôi nói

- Tôi ghét không them nói. Muốn mắng con mẹ vài tiếng cho bỏ ghét. Ngại mết lòng cũng chỗ quen lớn.

Tôi cãi

- Anh nói sai, bà ấy có gì mà đáng ghét?
- Con mẹ ấy dâm dật số dách. Còn gì nữa! Đào Hoa mà ngộ sao Thai, chồng vừa đi khỏi rước trai vô nhà!
- Không anh quên rằng bà này đâu đến nỗi. Là vì còn có sao Lộc Tồn thủ mạng, thì đã biến thể sao Đào Hoa thành vị sao đa cảm, đa tình thôi, chứ đâu phải còn dâm đãng? Anh lầm rồi.

Sao Lộc Tồn trong Tử Vi lạ lung lắm, nó có 2 tánh chất: Phúc tinh hay Lộc tinh. Nó lại cũng có công dụng là sao thanh cao gọi là “chân nhân chi tú” và nó biến tất cả những tính cách dâm đãng của các sao Đào Hoa và Hồng Loan. Tôi từng xem Tử Vi cho một người đàn bà đứng đắn lắm (một vị nữ giáo sư) vậy mà lá số tử vi có Đào Hoa và sao Thai thủ mạng lại có thêm Lộc Tồn

Anh bạn bảo:
- Lạ nhỉ để tôi kiếm lại

Mệnh Vô chính diệu: tại sao không tu?


Có nhiều người quen thân hỏi tôi về việc cãi số. Tôi đã nói về vụ đó nhiều, nhưng vẫn chưa hết hẳn. Đúng thật là cái sự xem lá số để cãi số quý hơn là để cam phận một cách thụ động để cần phú quý mà thôi.

Việc ấy rất đúng. Và về việc này, tôi có sẵn một tập hồ sơ về các vị tu sĩ. Các tu sĩ là nhhững con người dám đổi số, tin rằng “Có Trời mà cũng có Ta”, bằng không họ không bao giờ dám nghĩ đến việc tu. Vì “tu’ là gì, nếu không phải là “sửa đổi”, bồi cái hay, bỏ cái dở.

Có bạn yêu cầu tôi viết thường thường nhhững câu chuyện vui vui hơn là đi sâu các vấn đề Tử Vi mà chỉ có những bạn hiểu sâu về Tử Vi thì mới hiểu nổi. tôi cũng thông cảm như thế, nhưng để dung hòa câu chuyện vừa vui mà không kém phần nghiêm trang hơn, tôi xin kể một vị tu sĩ leo rào.

Có một tu sĩ hỏi tôi:

- Từ nhỏ đến lớn tôi thích đạo đức, nhưng mạng Vô Chính Diệu có đi tu được không?

Mạng Vô Chính Diệu tức là cung mạng không có chính tinh. Khoa đóan Tử Vi thông thường cho rằng mạng Vô chính diệu là con người hay thay đổi: nếu thêm Tam Không, Nhị Không (tức các sao Tuần Không, Địa Không, Triệt Không) thì phú quý khả kỳ (phú quý một thời mà thôi)

Nếu không có Nhị Không, Tam Không, cũng phải có nhiều cặp sao tốt.

Tôi nói:

- Mạng Vô chính diệu sao lại không tu? Dù là ông bạn đắc Nhị Không hay Tam Không, rồi thì phú quý, công danh chỉ nhhư phù vân. Đợi đến kinh nghiệm bản thân thì không còn thời giờ. Nhưng có điều này, Mạng ngộ Kình Dương lạc hãm, e rằng ông bạn cứng đầu quá. Mà người có mạng Vô chính diệu, muốn đi tu hay làm gì cho thành công, phải có người dẫn đạo, anh cần quy y và phải tìm ông thầy nào thật phúc hậu dìu dắt mới đặng. Đó là việc khó cho anh, vì anh có tánh tự phụ thái quá.
- Làm sao tìm thầy?
- Cái đó khó. Cần phải tìm thầy, nhưng rồi phải đi xa thầy đó.
- Tôi không hiểu

Cần chú ý cái sự phú quý khả kỳ
Tôi mới nói:

- Số mạng Vô chính diệu thì phải làm con nuôi, dù là con nuôi tinh thần, nhưng rồi ông bạn phải tự tìm học Đạo mà không cần ai nữa, vì có sao Kình. Sao Kình ở đây rất hợp cho người đi tu mà không bị chướng ngại. Khó là chỗ đó. Xưa nay trong tay tôi đã nhận được bao nhiêu lá số Vô chính diệu mà đắc Nhị Không hay Tam Không. Họ khóai công danh lắm. Mà đã có công danh là có suy sụp. Tôi đã thấy người bạn là Tổng Trưởng, nhưng rồi hiện giờ bị chìm sâu hết sức, bởi cái hậu quả của con diều bay cao, thì khi bị đứt dây, nó rơi xuống những vũng bùn lầy.

Tôi lại tiếp:

- Ông đó từ chỗ thật cao rơi xuống, thân danh bị hoen ố cả. Nên bạn nào mà có thấy lá số Vô chính diệu, nên xa lo tránh cái cảnh “phú quý khả kỳ” của mình đi. Những người khôn ngoan bao giờ cũng nên tránh cái thứ phú quý tạm thời ấy… Không một ai khỏi lụy một đời, khi cái phú quý tạm thời ấy đến chỗ mình.

Khổ một nỗi phú quý đến với mấy người có cái số này, lại thường không phải vì tài hoa quán thế, mà là vì đột ngột bất ngờ mà đến, cho nên khó lòng từ chối.

Muốn tránh cái cảnh ấy, nên thụ lãnh cái chức phó, nghĩa là làm phụ tá mà thôi. Người ta đẩy mình lên ngôi cao chót vót chức vị nguyên thủ quốc gia, thì nên từ chối và nếu có khóai phú quý, hãy tạm làm viên “phó tướng” mãn đời thì sẽ bình yên.

Tôi có người bạn chí thân có cái số ấy. Suốt đời ông chỉ làm phó mà thôi. Một khi được quan trên yêu mến cất lên chức Trưởng ty… thì 2 tháng sau liền mất chức. Mà việc như thế trong đời ông đã xảy ra 5, 7 lần như vậy. Tôi đã có khuyên, nhưng ông ta không nghe. Nhưng cứ ông làm phó là ông ta ngồi hòai, ngồi thật lâu.

Hạn chết đói


Khi lớn tuổi, tôi có gặp một ông Song Hao đắc địa, nhưng không có cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, nhưng ông đó lại được cách Song Lộc. Một ông thầy bảo Song Lộc triều viên là giàu lắm. Nhưng ông đó đến 50 tuổi chả thấy gì cả.

Tôi đã nói với ông bạn đó là Đại Hao và Tiểu Hao ở Tý – Ngọ; Mão – Dậu là đác địa, nhưng gặp Song Lộc là xấu. Tuy vậy mà không nghèo khổ rách rưới đâu mà lo. Là vì Song Hao ở Mão Dậu thì của có bao nhiêu rồi cũng sẽ hết, mà là hết cái này thì lại sẽ có của khác vào. Ngòai ra người có Song Hao đắc địa là người xem tiền bạc như không có, tức là kẻ trọng nghĩa khinh tài, thích giúp đỡ bạn bè.

Thường thì Lộc rất ghét Hao. Hạn của Hao gặp Lộc không ăn thua gì. Sợ nhất khỏang về già, vào hạn Thiên Thương ngộ Hao. Gặp hạn đó thì phải có lúc đói ngang xương. Nếu may sao đó lại đóng vào cung Giải Ách, sợ đau và chết vì không ăn được, chứ không phải nghèo đến nỗi không có cơm ăn.

Một câu chuyện ngồi trên đống bạc mà chết đói

Tôi còn nhớ có một Ông Cậu có cái số này.

Đã lâu rồi, hồi tôi còn trẻ tuổi. Cậu tôi là tay cự phú. Của cải ông suốt đời làm sao ăn cho hết. Một khi kia, tôi đã nói thẳng sự thật về lá số của ông, thì ông cười to lên.

- Thằng này láo. Tao mà chết đói. Năm nay tao 55 tuổi rồi, của cải điền sản của tao ăn 3 đời cũng không hết.

Tất cả nhhững người xung quanh đều cho rằng ông nói đúng. Mợ tôi nói:

- Không phải nói phách, giấy bạc của tao đem ra chợ này, đốt 3 ngày cũng chưa tắt. Mày coi sai rồi.

Có một ông thầy đồ trong làng cũng phụ họa:

- Song Lộc triều viên mà. Cậu coi không đến chỗ tinh vi. Cần học kỹ lại.

Nhưng tôi quả quyết:

- Để xem! Tôi không nói cậu chết đói vì thiếu ăn mà chết đói vì không ăn được.
- Sao vậy?
- Không biết. Mà cũng gần tới rồi, số cậu không hơn 60 tuổi – cỡ 58 lo lần là vừa.

Cậu tôi đổi sắc. Là vì biết tôi miệng hay ăn mắm ăn muối hay nói ẩu mà nói thật, nói đúng. Mẹ tôi ngồi đó rầy tôi:

- Con ăn nói vô lễ, thôi nín đi.

Về sau mẹ tôi còn rầy:

- Dù có thật như vậy, mày cũng đừng nói. Huống chi việc u u minh minh, con đừng quả quyết. Hãy bỏ tánh hiếu thắng và tự phụ của mày đi.

Tôi nói:

- Con quả quyết là cậu sắp chết vì hạn đáo Thiên Thương lại gặp cả Song Hao. Để mẹ xem. Nhưng có điều không rõ, là lý do nào lại có thể đói mà chết.

Vậy mà sau quả thật Cậu tôi bị bao tử ung thư vào nhà thương, họ không cho ăn, chỉ tiêm thuốc bổ. Cậu tôi lúc gần chết cứ kêu: “Tao đói quá, cho tao a7n chút cũng được, chích đau quá”

Nói chuyện ác tinh


Có một ông bạn chỉ thắc mắc lo sợ các ác tinh. Có một lần tôi mới bảo:

- Đừng nên sợ ác tinh lắm, không có chúng thì làm ăn gì nổi Bầy ác tinh. Nếu hợp cách thì tốt lắm. Có bậc phi thường đều là được hung tinh (ác tinh) đắc cách cả.

Người bạn đó có hỏi thêm, và tôi đã trả lời:

- Nếu cả 6 cặp ác tinh đều đác địa, thì nên biết lá số đó là của người làm nên việc phi thường. Mạng, Thân tuy không gặp, nhưng gặp hạn Tiểu Hao hay Đại Hao gì cũng vậy, sẽ hay lắm. Ta không nghe nói “hung tinh đác địa, phát giả như lôi” đấy hay sao?

Tôi đã nêu lên một vài ví dụ, xin kể ra đây để cống hiến quý bạn:

- Sao Đà La xấu lắm, nhưng nếu nó ở cung Phúc Đức mà Phúc Đức lại ở cung Thân, và ở đây không có chính tinh, thì ta gọi đó là cách Đà La độc thủ, tức là đời mình sẽ lên cao bất thường, họanh phát kinh khủng.

- Sao Cô Thần – Quả Tú xấu lắm, nhưng ở cung Điền hay cung Tài, thì là sao giữ bền tiền của hay đáo để


- Sao Tang Môn xấu, nhưng nó là Thiên Môn, (cửa trời) ở vào cung Điền thì nhà cao cửa rộng. Nếu lại gặp cả sao Cự Môn (tức là cách Tang – Cự) cùng một chỗ thì gọi là Lương Môn, tức là ở lâu đài như dinh Gia Long hay dinh Độc Lập, nếu cung Quan tốt, còn không thì cũng ở lâu đài nguy nga.

- Sao Thái Tuế rất xấu, vậy mà gặp Văn Xương – Văn Khúc, hay Khoa Quyền thì văn chương lừng lẫy ấy, gọi là cái thế văn chương.


- Ai lại chả sợ Thiên Không, nhưng nếu Thiên Không mà gặp Hồng Loan thì mưu trí ai bằng.

Không có gì là thật xấu hay thật tốt, miễn là đúng vị, đúng cách thì hay.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
TƯỚNG PHÁP BÍ TRUYỀN

Nhận xét và bàn về các kiểu mắt.

- ĐÔNG NAM Á 330 Lạc Long Quân ( Hương Lộ 14 ) Phú Thọ Chợ Lớn -


MẮT LÁ RĂM – Xin xem bài

MẮT PHƯỢNG – Xin xem bài

MẮT HỔ- Khuôn mắt nhỏ và tròn, mi cao nhọn, nhìn thẳng phía trước, là người làm lớn về quân sự.

MẮT VOI – mắt hơi dài, lòng đen ít đưa đi đưa lại, trông ôn hậu, là người có thể làm tư pháp thanh liêm, con cái hiển đạt.

MẮT DIỀU HÂU – Dài, đuôi mắt vắt lên, lòng đen nhiều, mắt sâu: người hiền tinh khôn, phát võ cao.

MẮT HẠC: - Mắt rất dài, đuôi mắt vòng xuống, rôi lượn lên tròng đen nhiều, tánh hiền, về già tu hành đắc quả, con cháu sang….

MẮT MI HEO – Mắt dầy, đuôi mắt ngắn, lòng trắng vàng vàng, mắt hay ngước lên: gian tham, phản phúc.

MẮT CÁ – Mắt khổ tròn, mi mỏng, tròng đen ít mà lồi, mắt không hay đưa qua đưa lại, lòng trắng có vằn đỏ hay vàng: yểu vong, nghèo, nhưng không hay gian trá.

MẮT DÊ – Xem trong bài.

Tất cả 12 cung trong nét mặt, mới chỉ là đại cương, và chúng ta thấy rằng Tướng của con người còn có nhiều yếu tố nữa mới có thể quyết định một cách không sai lầm, và vẫn có việc bù trừ thăng giảm.

Cho nên, lại ngay ở nét mặt còn có ngũ quan:

1 – Mắt, là giám sát quan
2 – tai, Thái thính quan
3- Mũi, Thẩm biện quan.
4- My, Bảo thọ quan.
5 – Miệng, Xuất nạp quan.


Mắt cần sáng

Giám sát quan đượm ý nghĩa về việc trông tìm rồi xét định, cho nên mắt cần phải sáng, thành mắt tinh anh, tròng đen đen kịt, tròng trắng trắng như men chén sứ. Người nào mắt tinh, thần sáng thì xét việc mau biết, tính toán không sai lầm, và đường chủ về thọ cách. Tuy nhiên, có cặp mắt sáng, nhưng lại phải có dáng nhìn thẳng thắn, đượm vẻ khoan hòa lễ độ, thì mới được là nét tướng trượng phu quân tử, sự học thông minh, có nhiều tài năng xuất chúng.

Những cách xấu

Mắt to lồi, thần sắc lờ đờ như mắt cá vàng thì yểu triết, tính nết lu lơ; chậm chạp con cái không mấy hiển đạt.

Mắt tròng trắng đục, tròng đen lờ đờ, lại bị nhỏ và ngắn, thì ngu độn.

Mắt có tia máu đỏ, thần mắt ngơ ngác, tính nết ham uống rượu thì nghèo và suy vong.

Mắt lươn

Mắt nhỏ ti hí như mắt lươn, gian dâm, xảo trá. Ca dao có câu:

Những người ti hí mắt lươn
Trai thì trộm cướp gái buôn chồng người.

Mắt lươn là kiểu mắt như thế nào mà lại “ dữ dằn “ đến vậy ?

Thứ mắt lươn, chỗ nơi con ngươi như hơi lồi lên, tròng đen đen như một chấm nhỏ, còn vành con ngươi hơi lờ lờ xanh, hình mắt cũng nhỏ và không dài lắm. Điểm đặc biệt của loại mắt lươn là luôn luôn lim dim, nhưng lúc đối diện đàm thoại với ai, cặp mắt đôi khi mở choàng ra trông lớn quá cỡ. Thêm một đặc điểm của loại mắt lươn nữa, con ngươi ít đưa đi liếc lại.

Người đàn bà có loại mắt lươn lại có thịt nhiều, lưng dài, vai rộng thì cuộc đời thường là chủ lầu xanh. Chồng là khách bốn phương, ít nhất cũng có từ 2 đến 3 đời chồng là cái chắc, con cái hầu như không có, hoặc nếu có, cũng chỉ được 1 hooặc 2 người mà ít khi có tình “ người “ !

Mắt lá dăm

Mắt nhỏ dài, đuôi mắt vút nhọn hơi chếch lên, tức là mắt lá dăm.

Ca dao có câu:

Người nào con mắt lá dăm
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền

Điểm đặc biệt của kiểu mắt này là nơi đầu mắt ( phần giáp mũi ) có thu nhọn tựa như cuống lá, hình mắt dài. Phần đuôi mắt nhọn vút tựa đuôi lá rau răm, vì thế nên nhà tướng pháp theo hình thể của nó ( lá răm ) rồi đặt cho kiểu mắt ấy, mắt lá răm thì khôn ngoan, tài đảm. Nếu thần mắt dữ, thì con cái hơi kém, nếu thần mắt hiền sáng sủa, thì con cái khôn ngoan hiển đạt.

Ngày xưa, một trăm quan tiền rất lớn, có thể làm được căn nhà đáng triệu bây giờ chỉ có cặp mắt lá răm đã có một giá trị quý báu đến vậy. Đủ biết loại mắt này có một tầm hệ trọng vô cùng,

Nhưng kiểu mắt lá răm làm đẹp cho nữ giới.
Nam giới có cặp mắt lá răm thì ủy mỵ, hay tìm các nơi cầm ca và hiếu sắc.

Mắt phượng

Mắt phượng, ở nước Việt Nam tôi mới được coi có đôi mắt Nam Phương Hoàng Hậu là người có cặp mắt Phượng Nhỡn. Sự giầu sang và các đức tính của loại mắt này, điển hình lấy ở cuộc đời Nam Phương Hoàng Hậu. Nam Phương Hoang Hậu, không hay du ngoạn không ưa ra mắt công chúng, lại còn vì Cựu Hoàng Bảo Đại vốn cũng không ưng cảnh “ Đi đâu có anh có tôi. Người ta mới biết là đôi vợ chồng “. Cho nên không hay đi đôi và mọi tình tiết về đức hạnh, không mấy ai hiểu rõ.

Ở đây, cần giải về đức hạnh của cặp mắt Phượng. Người Phượng nhỡn, ít nói, đi đứng thong thả và còn có thể liệt vào “ loại lười đi lại xa “. Đối với tình chăn gối loại Phượng nhỡn cũng không đậm đà cuồng loạn, và còn coi vấn đề sinh lý chỉ là một công việc làm để có con mai hậu mà thôi. Nam Phương Hoàng Hậu kém thọ; có lẽ vì cổ nhỏ quá, mặc dầu cổ cao có ba ngấn.

Phượng nhỡn có ở Nam tướng, là người cương nghị quả cảm có can trường. Tài kiêm văn võ. Võ ở đây có một ý nghĩa là ngồi trong trướng mà tài quyết định chiến trường ngoài ngàn dặm.

Nếu mắt phượng, được thêm mày tầm ( sẽ giảng sau về kiểu my ) thì bản tính kiêu kỳ, khó tính, chung thủy, hơi tự đắc và đôi khi can đản xông pha trận mạc ( tướng của Quan Vân Trường ) .

Tuy còn có rất nhiều loại mắt quý khác: Mắt cọp mắt to và ngắn) mắt trâu, mắt ngựa, mắt rồng, mắt sư tử v.v…

CÁC LOẠI MẮT THỌ YỂU

MẮT SÂU – Đàn ông lẫn đàn bà mắt sâu đều thọ, duy về phần đàn bà mắt sâu thì con cái ít, còn một loại mắt sâu nhưng con ngươi tròng đen nhỏ như hột đậu thì kém thọ, ngoài 30 tuổi dễ bị bịnh, vì thế nên mưu định nhân duyên sớm, may ra vượt được cảnh ít con.


- Mắt bên to bên nhỏ, hoặc bên cao bên thấp, cuộc đời kém về tiền bạc.

- Mắt lồi như mắt ốc nhồi, kém thọ.

- Mắt sáng long lanh như có nước, trai gái đều kém đức kiên tâm, tình dục lăng nhăng.

- Mắt trắng dã con ngươi đưa đẩy liếc trộm, gian dâm, nên coi chừng khi có vợ hay có chồng mà còn gia du cùng người khác.

- Mắt thần dữ dằn, dễ chết về tai nạn bất ngờ.


- Mắt trông ai hơi him nhỏ lại tiểu nhân mà còn gian manh phản phúc.

- Mắt trợn trừng, nóng nảy kiêu ngạo, ít cảm tình mà còn hơi tham lam.


- Mắt nhìn xuống, hoặc mắt nhìn đi nơi khác, gian dối, tham lam hơi ngu muội ( hay vì quá tham nên thành ngu )

- Mắt con ngươi hơi đỏ, nhìn vào người đối diện trừng trừng, hoặc ngoảnh lại mà con ngươi trừng trừng, là loại mắt rắn. Điểm đặc biệt của loại mắt rắn, mu mắt trên hơi hùm hụp, như người bị mù mắt. Nếu trán cao, rộng, xương quai hàm rộng, cằm hơi nhọn, thì sự nghiệp của họ khá cao, nhưng có tính hay đá bạn bè để lấy bước tiến thân, một loại mắt cực nguy hại.

- Mắt lúc nào cũng như khóc ( nước mắt đọng bao quanh mắt, và nơi đầu mắt nước tụ nhiều ) Trai hay gái có loại mắt này khó mấy ai không khổ về tình duyên.

- Mắt có vết thẹo ( ve ) là người kém lòng từ thiện và còn tham bẩn hiểm ác.

Tây phương nhận con mắt là cửa sổ cuộc đời. Đông phương lấy kinh nghiệm ở tướng pháp, còn ấn định rằng tất cả mọi ẩn tàng trong lòng con người đều phát hiện ra đôi mắt. Mỗi khi người ta dự định làm một việc gì dù việc lành hay việc dữ, sự biểu lộ đó xuất phát ra và chỉ trong giây khắc, bằng một cách nhìn khác thường.

Bởi cặp mắt có chứa đựng một tính chất quan trọng như vậy. Cho nên các cụ xưa đã ví

Con mắt là mặt đồng cân.

Tất cả các loại mắt trên đây đều có thể chính xác rất nhiều. Sự học tướng và sự quan sát không khó khăn mấy, nếu các bạn chuyên tâm ắt thông hiểu mau lẹ.

Về sự học coi tướng, xưa kia các cụ nhà ta quy định bằng hai câu ca dao:

Người khôn con mắt đen sì
Người dại con mắt nửa chì nửa thau

Mắt người dại, như màu chì và thau pha lẫn, nó nhờ nhờ màu xanh như gio, đượm màu vàng nhợt.

Còn mắt người khôn thì tròng đen nhiều: tròng trắng trắng tinh, trông vào cặp mắt này hầu như không thấy tròng trắng hoặc tròng trắng chỉ có độ ba phần tư ( chắc tác giả nhầm )

Các loại mắt dâm đãng và bạc tình.

Người bị cặp mắt dâm đãng và bạc tình có loại mắt dê.

Kiểu mắt dê này hơi tròn, mắt ngắn, đuôi mắt không nhọn lắm, mu mắt trên lợp như hơi lồi. Con ngươi đượm màu vàng nhạt, một kiểu mắt bất thành nhân. Nghĩa là công danh không có phận mà chỉ ở vào hàng tôi tớ ( cần vụ )

Đuôi mắt lung tung

Mắt gà mắt heo ( lợn ) cũng đều thuộc loại mắt dữ dằn tính nết không mấy ôn hậu.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Đọc sách Tử vi
TỬ VI ĐẨU SỐ PHÚ GIẢI DƯỚI MẮT NGƯỜI VỪA BIẾT TỬ VI
Võ Văn Châu (Bình Dương)

Trong đệ nhất bán niên 1974, người học Tử vi tạm thỏa mãn với ba quyển sách lý số xuất hiện trên giang hồ. Đó là các cuốn:
-Tử vi nghiệm lý của Thiên Lương
-Tử vi đẩu số phú giải của Thái Vân Trình
-Tử vi dưới mắt khoa học của Đắc Lộc

Để thay đổi “món chay trường” Giai phẩm Khoa học huyền bí, phát hành bất thường mỗi tháng đôi ba lần.

Chưa biết Tử vi, người ta “nghiện” được nghe những “tín điều” giảng luận của Thầy lý số; đã quọt quẹt đôi chút Tử vi lại càng “nghiện lậm” được đọc các bí quyết tân kỳ của các bậc tiền bối võ lâm. Tiếc thay thời củi quế gạo châu, các cụ ngại in sách ra bán không chạy nên đành ôm ấp cả ngàn trang bản thảo đợi chờ…? Khốn thay cho những kẻ “võ lâm” vừa ra đời đã phải bơ vơ, lạc lõng, thiếu người dẫn dắt, thiếu người chỉ điểm để phải mò mẫm để phải thất bại đau thương trước thực tế phũ phàng.

Trở lại vấn đề, chúng ta nhìn vào quyển Tử vi Đẩu số phú giải của biên giả Thái Vân Trình bày ở nhà sách với bìa đen trắng thật thanh nhã làm chúng ta liên tưởng biên giả phải là người thông hiểu luật ngữ – hành Kim là màu trắng của nền sách, sinh Thủy là màu đen của tựa – Vấn đề màu sắc thích hợp cho từng bản mệnh” sẽ có dịp đề cập đến sau nầy).

Sự cố gắng của soạn giả để sưu tập một ngàn hai trăm câu phú của các danh phái Tử vi khiến chúng ta ngả nón kính phục vì tại các sách Tử vi khác như Tử vi đẩu số tân biên, Tử vi hàm số, Tử vi áo bí… chúng ta nhìn thấy đôi ba trăm câu là cùng: Quyển TVĐSPG hẳn là kho tài liệu phú giải cho chúng ta áp dụng và nghiệm xét các kinh nghiệm quý báu của người xưa truyền lại cho con cháu sau nầy.

Các câu phú vừa là tinh hoa sau bao nhiêu kinh nghiệm dấn thân mà cũng có thể là cái hố sâu cho chúng ta rơi tòm vào, thân bại, danh liệt. Đúng là con dao hai lưỡi, chúng ta nên cẩn thận khi nghiền ngẫm non ba trăm trang giấy khổ trung.

Biên giả đã khổ công tìm tòi, đúc kết các câu phú thành từng tiểu mục riêng biệt: 14 chính tinh chiếm độ nửa quyển sách, 47 trung tinh, hung tinh từ trang 145 đến trang 263 và thêm phần phụ lục một ít sao khác được 29 câu và phần Tổng luận với 22 câu.

Qua các ưu điểm phân biệt rành rẽ từng sao chính, phụ, các câu phú được in đậm nét cùng với những tinh túy tiềm ẩn trong 1,200 câu, chúng ta không phủ nhận. Nhưng còn một điểm sáng giá nhất giúp cho một số các Tử vi gia thức tỉnh: là sao Kình Dương phải an nghịch đối với tuổi Âm Nam, Dương Nữ (quan niệm của họ vẫn nhất định an Kình Dương trước (thuận) Lộc tồn rồi Đà la sau) qua các câu phú sau:
Xét xem đến chốn Thủy cung
Kỵ tinh yểm nhật úy đồng Kình dương
(câu 48, trang 130).
Khi đó Kình Dương ở cung Hợi, Lộc tồn (tuổi Nhâm) ở cung Tý (không bao giờ ở cung Tuất được) và Đà La phải tọa thủ Sửu cung. Như thế không an nghịch Kình, Đà là gì?
-Dương, Đà phùng Mã trực xung
Những là đánh Bắc, dẹp Đông chẳng rồi
(câu 14, trang 170).
Mã bao giờ cũng ở tứ sinh (Dần, Thân, Tỵ, Hợi) xung chiếu Kình Dương đương nhiên ở một trong 4 cung nầy. Một khi Kình Dương tọa thủ tứ sinh thì tất nhiên an Kình Đà theo chiều nghịch của tuổi Âm Nam hay Dương Nữ rồi.

Tuy nhiên, sách vẫn còn nhiều chỗ cần đính chính lại:
-Không mục lục khiến cho việc tìm kiếm khó khăn
-Các câu phú bằng thơ lục bát hoặc song thất không xếp in phân biệt theo thể thơ.
-Dù các câu phú được sưu tầm đầy đủ các hệ phái Tử vi, rất có giá trị cho cách an sao, vị trí lạc hãm, đắc địa tính lý các sao…nhưng tiếc rằng có sự lập đi lập lại, có sự dấu nghề, nên kẻ hậu học cảm thấy còn thiếu sót quá nhiều, không gây được nguồn hứng khởi dùng các câu phú, làm yếu tố căn bản giải đoán lá số. Soạn giả đã lắm công phu sưu tập ngần ấy câu phú, hẳn đừng làm mai một công trình của mình, mà nên dùng kiến thức kinh nghiệm tử vi, nêu ý kiến cá nhân về các câu phú nào đúng, câu nào sai lệch, câu nào đáng nghi ngờ, câu nào cần xét lại.

Chi tiết hóa các điểm trên, chúng tôi đưa ra các dẫn chứng về các điểm thiếu sót đó và rất mong trong các kỳ tái bản, soạn giả sẽ làm vừa lòng những kẻ ham học hỏi một khoa học huyền bí đã từng bị nhiều người lầm hiểu là khoa dị đoan, mê tín.

1.Những từ ngữ cần giải thích:
-Hướng Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là những hướng nào. Hướng đó ảnh hưởng đến mỗi cá nhân như thế nào? Gia tăng hay chước giảm độ số của sao Nam, Bắc đẩu ra sao?
-Hướng Quý là cung Sửu, còn hướng ở cung Thìn, Tuất, Mùi là gì?

2.Những câu khó hiểu, mâu thuẫn
-“Nữ mệnh kỵ Nguyệt ngộ Đà”: Không giải thích Thái Âm hãm hay đắc. Nếu hãm địa thì chấp nhận, còn đắc, miếu, vượng thì kể như mâu thuẫn với các câu phú khác. Hơn nữa, Nguyệt ngộ Đà không hẳn có nghĩa là loạn dâm (câu 4 trang 137) mà có thể là bộ tiêu hóa lình xình, hoặc con mắt quáng manh,…Soạn giả có dám – khi thấy một lá số có cách trên – khẳng định là “cô hay bà loạn dâm” chăng?
-“Nguyệt diện Thiên lương nữ dâm bần”. Ít ra soạn giả phải giải thích tại sao Mệnh có cách nầy lại dâm đãng nghèo hèn cho đọc giả hứng thú hơn chứ giải nghĩa một chiều có phải đầu độc tinh thần con em không? Rồi không hiểu căn cứ vào đau soạn giả chua thêm: “nếu cung Mệnh an tại Dần Thân lại gặp Sát tinh tất là vợ lẽ, nhưng nếu cung phu gặp Tham Lang hội Xương, Khúc thời lấy được chồng giàu sang và danh giá”.
-“Nhật Nguyệt tối hiềm nghi bối vi thất huy” (câu 14, trang 121) được bàn ra câu “Tật ách cung có Tuần, Triệt mới thành sáng sủa, tốt đẹp như đến câu 69, trang 134, soạn giả đưa ra câu “Tật ách cung có Tuần, Triệt án ngữ nên mắt bị quáng gà hoặc bị đau mắt” thế có cho là trái ngược lắm chăng?
-Câu 7 trang 14 cho rằng Tử vi tại Ngọ hạn gặp Cự, Sát, Đà Linh đành ôm hận mà chết (Chu Du bên Tàu) thì đến câu 16, trang 16 ghi như sau “vận suy, hạn suy, hỷ Tử Vi chi giải hung ác”, nghĩa là Tử vi đáo hạn sẽ giải mọi hung nguy. Phải chăng cái nầy còn tối nghĩa, cần phải rọi thêm vài ngọn đèn cho mọi người được lãnh hội.
3.Những câu cần xét lại
Đào, Riêu số gái ai hay
Chồng ra khỏi cửa giắt tay trai vào
(Câu 11, trang 226)
Đọc qua câu trên, kẻ mới học Tử vi hẳn chép vào lòng để được dịp tuôn ra nếu là người trực tính, thấy sao nói vậy, không sợ mích lòng. Ai là người chịu trách nhiệm nếu có kẻ “bung” ngay vào mặt thân chủ câu phú trên? Tại sao biên giả không dự phòng trường hợp đó để lưu ý độc giả các trường hợp hóa giải, miễn trừ?
-Câu 30, trang 94: “Cung Mệnh an tại Thân có Cơ, Nguyệt tọa thủ đồng cung, hạn gặp Liêm, Hổ, Linh, Riêu tất phải sảy thai hoặc sinh con thiếu tháng; nếu gặp Kiếp, Hình thời khó thoát tù tội, nếu được Khoa, Phượng hội hợp thì tai nạn sẽ qua khỏi”.
Qua câu trên chúng ta chưa hiểu nên áp dụng cho nam nhân hay nữ nhân đây? Cho nên người viết mong rằng, soạn giả là người có trách nhiệm hơn ai hết trong việc đừng làm nản chí người xem.

4.Câu vô lý:
-Câu 45, trang 129 “Nhật Tỵ Nguyệt Dậu, Sửu cung mệnh bộ thiềm cung” được soạn giả giải thích là Mệnh tại Dần có Thiên Lương tọa thủ. Lỗi tại ăn công thì ít ra cũng nên có một bản đính chánh sau sách, chứ sao đành giấy trắng mực đen như thế?
-Còn biết bao câu nếu áp dụng người nầy thì đúng, chứ còn kẻ nọ thì sai lạc đi. Ví dụ như bản mệnh đồng hành với sao thì cho rằng đúng, chứ sao khắc bản mệnh hoặc bản mệnh khắc sao thì trường hợp có xảy ra 100% như 2 với 2 là 4 không?

5.Câu cần thí dụ chứng minh
-Câu 4, trang 13 “Cung Thao Đế Ấn đoạt trưởng tranh quyền” câu “Mấy người bất hiển phân vân bởi vì Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi” hoặc “Nhật Nguyệt đồng lâm, quan cư hầu bá”…là những câu phú cần có thí dụ chứng minh để cho độc giả thấu triệt nguyên do hơn là giải thích một quan nhiệm xưa một cách gò bó, một chiều.

Tóm lại, quyển Tử vi đẩu số phú giải của Thái Vân Trình có một công trình sưu tập công phu không ai chối bỏ nhưng còn thiếu sót ở phần nội dung về các câu phú vốn dĩ khó hiểu, đa nghĩa. Soạn giả cần soát lại những câu thừa, thiếu, vô nghĩa để mạnh dạn gọt bỏ ra ngoài (có thể ghi vào phần phụ lục với lời dặn dò của soạn giả. Các nhà lão luyện khoa Tử vi đã thấu hiểu rạch ròi vẫn còn phải do dự không ít mỗi khi áp dụng Phú vào lời giải đoán nữa là.
Mong các nhà đã, đang và sẽ viết sách Tử vi nghiên cứu sâu rộng thêm để đừng làm nản lòng bọn em, cháu.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Siêu tài liệu: Thầy bói lợn đoán số Cô Bé Tý Hàng bạc
Linh Xuyên
Số Bé phải xa cha 28 năm – Suốt thời gian này, sao Bé không về làng thăm cha? Trường hợp ly kỳ Bé Tái ngộ cha – Tình cờ định mệnh giữa vụ thoát ly và đoàn tụ của Bé – Những “tài ngoại” của Bé dưới ngòi viết chủ báo “Avenir du Tonkin”
(Đoạn tiếp của câu chuyện kể đời sống bà Bé Tý hàng Bạc Hà Nội)

Thầy bói Lợn
Từ ngày bé đi biệt khỏi làng, thầy ĐỀ VĂN GIẢNG nhớ con hoài. Bảy năm sau, nhân đi dự đám tang người anh họ ở làng BẦN YÊN NHÂN, thầy đề nghe danh thầy bói LỢN ngày đó, chừng 30 tuổi đã nổi tiếng coi hay tại chợ ĐƯỜNG CÁI. Vì bệnh trái trời nặng, lòa hai mắt , mặt rỗ, thầy bói khụt khịt mũi như lợn nên có hỗn danh này.
Thầy Đề đặt tiền coi quẻ tìm con thất tung, Thầy Lợn gieo quẻ xong, quyết ngay là lúc này chớ đi tìm kiếm vô ích, mòn giầy dép cũng không thấy, dù tình cờ qua cửa nhà con hay đi ngang mặt con giữa đường cũng không thể gặp nhau.
Thầy Đề hỏi:"tại sao?". Thầy nói Lợn đáp:" số mệnh nó khiến xui như vậy....vì cha con phải cách xa nhau 28 năm"
Thầy Đề lại hỏi:" có hi vọng tìm thấy sớm hơn hoặc tự nó nhớ gốc, nhớ cha quay về?". Thầy Lợn lắc đầu rồi hỏi về ngày sinh tháng đẻ của Bé, lâm râm bấn tử vi, cho hay là ít cũng phải 20 năm. Cha con chia lìa nhau thì cũng sẽ bất ngờ đoàn tụ thật li kì hi hữu.
Thầy Đề lại hỏi:" nó đến nay đã 18, 19 tuổi chẳng biết trôi dạt nơi đâu? Có gặp chốn lương thiện tử tế không?"

Đa nhân đa duyên
Thầy Lợn khụt khịt cười đáp:" nói cho ông anh mừng con nhỏ này làm lớn đến nơi. Số nó thật đáo để. Có nó ra đời thì không cha mẹ, hoặc phải ly cách cha mẹ. Số nó mệnh VCD, lập tại Tí, lại đủ Khôi Việt , Tả hữu, thêm Quyền Lộc, Xương Khúc chiếu lại là nó thừa tài làm nên danh giá"
Thầy Lợn khựng lại một lúc rồi tiếp" hiềm nỗi con nhỏ đủ bộ Tham Diêu, Mộc Cái, Hồng đào, thêm Phượng Long đối chiếu Khốc Hư thì hơi....đa đa nhân duyên đấy. Giá mà số này có Tử Phủ nhập miếu ở hạn thì chẳng khác số bà Chúa CHÈ thuở trước. Dầu chẳng được vậy, đây cũng là số cận quí, giàu sang lẫy lừng 1 thời"
Thầy Đề lại hỏi:"Nếu lẫy lừng 1 thời rồi lụn bại thì hi vọng gì?"
Thầy Bói lắc đầu đáp: "Số bất cứ ai cũng vậy chỉ lẫy lừng 1 thời, dài hay ngắn, như hoa chỉ nở 1 lần rồi tàn sớm hay muộn. Số con nhỏ này đáo hạn ĐỊA KIẾP có thể sẽ hết của như THẠCH SÙNG nếu không làm điều phúc đức. Nhưng ngày đó cũng còn lâu khi con nhỏ tuổi về chiều và ông anh lúc đó cũng đã được nó đền đáp báo hiếu đầy đủ.
Thật ra, thầy Đề, lúc đó, chẳng mấy tin tưởng lời thầy bói. Chính cả thầy Lợn cũng không thể ngờ 20 năm sau thầy 49, một sáng kia, cũng buổi chợ đông như bữa đó, có một xe hơi lộng lẫy từ phía Hà Nội sang đậu xịch bên lộ, bước xuống một ông lão vận đồ lụa bạch, đội nón lông ngan đen chóp bạc, theo sau là một thiếu phụ sang trọng len lách qua đám đông đến quán thầy bói. Ông lão ngồi xuống đầu ván, cất tiếng hề hề cười.

Nhớ giai
Thầy Lợn ngẩng mặt, lẩm bẩm: "Quái! Giọng ai nghe quen quen....nhưng đã lâu không tới coi"
Ông lão khà khà cười:" phải, 20 năm qua mới đến thầy đây!"
Ông Lợn khụt khịt, nghiêng tai về tiếng khách lạ:" Ai nhỉ....ông khách dưới NINH GIANG?"
Ông lão cười rộ :"Chịu thầy nhớ dai! Văn Giảng đây
A ! Cụ Đề đã tìm thấy con gái ? Đến thưởng đệ phải không?
Ông lão tủm tỉm cười xua tay ra dấu cho thiếu nữ đừng lên tiếng rồi nói: "Đến trách thầy, chứ thưởng gì. Con gái đã thấy đâu. Năm đó, thầy đoán trong 20 năm nay đã 21, 22 năm rồi, vẫn tuyệt vô âm tín. Lão nay đã 74 biết sống đến bao giờ mới gặp con?"
Thầy Lợn hoài nghi, chau mà : "Nếu quả vậy, tôi coi lại cho cụ một quẻ xem sao"
Ông lão gật đầu, lấy trong hầu bao đồng ván 2 cắc bạc đặt vào đĩa. Thầy bói khấn, gieo tiền, ngồi im bấm quẻ rồi lắc đầu:" có lẽ cụ muốn thử tôi, chứ quẻ này “Úp cối" là cụ gặp con rồi"
Ông Lợn lại khảo lại số tử vi ông lão rồi lẩm bẩm nói 1 mình: "Quái thật! số này năm nay không tháng 3 thì tháng 7 cha con phải đoàn tụ, sao nay sang tháng chạp mà vẫn chưa ?"
Một chuỗi cười dòn vang lên, ông lão ôm chầm lấy vai thầy bói cười :" Xin chịu thầy, thần bốc TRẦN ĐOÀN tái sinh! Bữa nay cha con lão đến tạ thầy đây"

Hạn Địa Kiếp
Chúa Tiên Hàng Bạc mở ví lấy xấp bạc 10 đồng đưa cho cha...Sau khi trao số bạc vào tay ông Lợn, ông lão hỏi nhỏ:" Năm xưa, thầy đoán con tôi đáo hạn địa kiếp hết của như THẠCH SÙNG, vậy hạn đó năm nào....và có cách nào cho qua khỏi được chăng?"
Thầy bói trầm ngâm giây lát đáp: " Hạn này còn lâu, hơn giáp nữa, vào năm ẤT MÙI ( 1956) nhưng có thể hoá giải được phần nào nếu đương số tu nhân tích đức, tránh sát giới, của cải sẽ bị tán phát 1 nửa, còn lại 1 nửa không đến nỗi trắng tay hết sạch"
Lời thầy Lợn làm cô bé Tý biến sắc, ông lão khuyên con đừng đi xe hơi, lo cán chết người, vật sẽ mang tội. Khi về tới HN, nghe lời thầy bói, cô vội bán lại chiếc Donnet Zedel mới cho chủ hãng Aviat, sắm 1 xe kéo lộng lẫy, đẹp nhất HN do 1 phu xe vận đồ trắng, nón trắng, quần xà cạp trắng " hách " nhất cố đô, kéo đi đó đi đây trong thành phố, theo sau là 1 phu hầu ăn mặc đúng y, đóng vai vệ sĩ chạy bám đít bánh xe khiến khách qua đường đều chú ý.

Cuộc tái ngộ ly kỳ sau 28 năm…
Kể từ 1910, Cô Bé Tý đã giầu có lớn, nhà cửa trang hoàng, trần thiết kế kiểu Đông Phương lộng lẫy như dinh phủ vương hầu đầy dẫy những bảo vật, đồ cổ Trung Hoa quý hiếm. Muốn dương danh khoe của Cô mở động cho dân chúng thong thả vào coi. Từ năm 1924, cửa mở cách một ngày một lần, nhưng từ 1930, nhà cầm quyền Pháp chỉ cho mở chủ nhật và ngày lễ. Người vào coi xếp hàng một nối đuôi trước cổng. Một hôm, có ông lão quê đến nhập bọn, lần bước sau toán người vào coi. Lối đi trong động hẹp ngang, đủ cho chuỗi người nối gót tiến lên vì 2 bên đều kê san sát tủ, xập, kỷ, án, bình phong chạm trổ, sơn thếp hoặc cẩn xà cừ, ghép ngọ ngà châu báu. Trên mặt thì bầy la liệt đồ cổ ngoạn bằng đồng thiếc, ngọ, ngà, hổ phách, san hô, bảo thạch, đồ sứ cổ Tàu từ đời Thanh đến Chu, tổng trị giá ngày đó đến nửa triệu bạc. Người vào coi – Dù sành điệu hay không – cứ chầm chậm bước một vừa đi vừa ngắm xem, không ai được xáp gần, sờ mó các đồ vật trưng bầy. Theo bén gót người phía trước, ông lão quê đang mải ngắm bộ bình đông bích đồ thứ 6 cánh cần ngọc vàng…bỗng la lên chu choa, nhăn nhó, thụp xuống ôm lấy chân làm cán ô cong kẹp nách ngoắc phải miệng một ang sứ cổ Khang Hi từ trên kỷ lộn rớt xuống bể tan tành (Ang sứ này nguyên của một đại tá Pháp dự trận Bát quốc dẹp Quyền Phi năm 1900, đột nhập Cấm Thành Bắc Kinh, đoạt được trong cung nội Mãn Thanh rồi sang tay Passignat mua được cho cô Bé Tý). Thì ra ông lão có mụn lở gót chân buộc thuốc sơ sài. Người đi sau, lúc cất bước, vô ý đá trúng phải, làm ông lão đau điếng, lóng cóng gây ra vụ bể. Ông lão run sợ, khóc lóc lạy van. Ai thấy cũng ái ngại, nhưng phải chờ Chúa Tiên về…Vì sợ trách nhiệm, viên quản gia quát tháo nhốt ông vào nhà cầu. Y trở ra xua hết người coi, đóng cửa lại rồi xuống nhà giật mình thấy cửa cầu tiêu mở, đẩy vô, không thấy ông lão. Hốt hoảng, quản gia làm um xùm, thúc gia nhân túa các ngả tìm kiếm. Ai vừa giải cứu ông lão? Gã phụ bếp giầu lòng thương, ghét quản gia phách lối, nhân lúc mọi người bận nhà trên, đã lén mở cửa nhà cầu, đưa ông thoát lối sau. Vì không thuộc phố phường Hà Nội, ông lão vừa đi vừa hỏi đường, loanh quanh đến Phố Mã Mây bỗng có tiếng thình thịch chạy sau lưng ông chưa kịp ngoái cổ thì bị gã quản gia túm tóc đánh…Người đi đường xô tới can ngăn. Gã quản gia kéo xềnh xệch lão về Hàng Bạc, hô gia nhân lấy dây trói, bỏ nằm cầu tiêu, khóa cửa lại. Ông lão tủi nhục nằm khó dấm dít đến trưa chiều, chẳng ai cho ăn uống: Mãi tối, bà Chúa đi dự đàn tứ phủ trên đền Đức Vua dốc Yên Ninh cùng 2 cô gái nuôi mới về. Cả nhà đổ ra đón, bưng các tháp quả phẩm lộc, đồ biếu vào. Quản gia trình Chúa Tiên vụ bể ang và thủ phạm, ông lão, vì trốn khỏi nhà đã bị bắt lại, nhốt trong buồng vệ sinh, chờ lệnh Bà Chúa. Nghe nói ông lão đau chân loạng quạng làm bể đồ, Chúa Tiên biểu cởi trói, dẫn lên vào phòng thay áo trở ra thấy ông lão mặt mày hốc hác bị quản gia bắt quì dưới đất, Chúa Tiên không nỡ, biểu đỡ dậy, lấy ghế cho ngồi, hỏi ăn uống gì chưa? Ông lão lắc đầu xin hớp nước đỡ khát. Bà Chúa sai người đưa xuống bếp cho ăn uống tử tế xong dẫn lên. Chúa Tiên ôn tồn hỏi sao đến coi lại không cẩn thận để ý làm bể bảo vật của Bà? Ông cụ mếu máo kể từ lúc nối gót người vào coi đến lúc thình lình bị đá vào mụn, đau quá luýnh quýnh cán dù móc phải ang rớt bể rồi bị giữ. Chúa Tiên vặn hỏi đã vậy, sao còn chạy trốn? Lão thưa:
-Không phải vậy. Lão không dám tự ý trốn đi mà…do một chú tử tế thương hại mở cửa nhà cầu dắt lão ra cổng sau, trỏ đường biểu trốn. Chẳng may phố xá không rành loanh quanh hỏi thăm ra tới bến, định đi Hưng Yên thăm con, đến gần Cột Đồng Hồ thì bị thầy quản gia túm đánh, lôi kéo về nhà, cột nhốt trong nhà xí!
Lai lịch ông lão quê
Chúa Tiên nghe sinh lòng bất nhẫn nói:
-Giờ lỡ đánh vỡ đồ quý của tôi thì phải đền!
Nước mắt chạy quanh, ông lão mếu máo chắp tay xá:
-Bẩm Bà Chúa, lão quê mùa nghèo khó, sống trơ trọi, không có tiền đền Bà Chúa
-Thế con cháu đâu mà lại sống trơ trọi?
-Lão có thằng lớn gần 50, mới đây cả vợ chồng đều bị chết bệnh thời khí. Chúng có 2 con: 1 đứa đi lính Đoan 8, 9 năm nay không thấy về; còn 1 đứa 17 ở đợ làng bên. Lão còn 1 gái nữa, lấy chồng hàng Huyện, đăng lính Khố Xanh vừa đổi sang Hưng Yên. Với lương cai Khố xanh, vợ chồng nó nuôi sao nổi 7, 8 đứa con, nói chi giúp đỡ cha già?
-Vậy, lão làm cách nào sống?
-Nhờ biết năm ba chữ thảo được lá đơn, bản văn tự (giao kèo mua bán vay mượn) làm sớ trạng cúng kiếng, ngoài ra hằng ngày và dịp Tết nhất, có người mướn viết châm, liễn đối trướng hiếu hỉ, nên cũng tạm sống qua ngày.
-Ngoài hai trai, gái đó, có còn con nào khác không?
Câu hỏi khiến ông lão bùi ngùi
-Bà Chúa hỏi thêm đau lòng. Lão lận đận vất vả, mới 40 đã gà trống nuôi 3 con
Chúa Tiên bỗng đanh nét mặt
-Ông lão nói có 2 con: 1 trai, 1 gái. Con Trai và dâu mới chết dịch; con gái lấy chồng khố xanh sao lại vừa biểu nuôi 3 con? Đứa thứ ba ở đâu?
-Dạ, đứa thứ 3, chẳng rõ nó ở đâu? Còn sống hay đã chết? Nghĩ đến nó, lão cầm lòng không nổi. Nay thấy mặt nó một lần, lão nhắm mắt cũng thỏa lòng.
Chúa Tiên chớp chớp mắt nén xúc động hỏi:
-Đứa thứ 3 này trai hay gái?
-Bẩm, cháu gái.
Chúa Tiên hơi biến sắc, hỏi:
-Con gái nhỏ ở với ông Cụ, sao lại không biết nó ở đâu? Sống hay đã chết?
Ông lão tần ngần chưa kịp đáp, Chúa Tiên hỏi tiếp:
-Hay là nó bị mẹ mìn, kẻ nào bỏ bùa dỗ mang sang Tàu bán?
Ông lão lắc đầu:
-Không ai dụ dỗ mà tự nó ra đi
-Gì lạ vậy? Tự nó ra đi như người lớn? Quả là chuyện lạ, ít thấy!
Ông lão bèn kể đầu đuôi chuyện sai cái Tý Ba, gái út đem be ra đầu làng mua rượu chẳng may té, be bể, miểng đâm tét đùi rồi sợ đòn cha, không dám về, đi biệt tăm từ đó…nay đã tròn 28 năm.
Nghe đến đây, Chúa Tiên bèn khoác tay ra dấu cho kẻ ăn người làm, gia nhân trong phòng xuống nhà dưới để bà hỏi chuyện riêng ông lão. Khi ai nấy không còn trong phòng, Chúa Tiên mới khẽ hỏi ông lão danh tánh, quê quán nghề nghiệp? Ông nhất nhất trả lời, Bà Chúa không cầm được nước mắt ôm cha nức nở khó. Xiết bao mừng tủi, ông lão nghẹn ngào trách con bấy lâu giàu sang chẳng đoái hoài đến cha già, quê quán. Chúa Tiên nhận tội bất hiếu, trình bày không phải vì quên làng nước gia đình, mà do gặp lắm éo le, nghịch cảnh không cho nàng giữ tròn hiếu đạo: Khi bỏ nhà ra đi, gặp được vợ chồng công sứ dung dưỡng nuông chiều, lắm lúc nhớ cha, anh chị, nhưng đâu dễ mỗi chốc được về thăm. Vả lại hình ảnh cha nghiêm dữ đòn càng khiến nàng thêm e ngại. Đến khi bị bố nuôi khác máu tanh lòng làm điều ô nhục, nàng còn thấy phải xa cha hơn nữa vì lẽ không thể trở lại thôn làng trong cái vỏ nửa tây nửa ta chẳng giống ai trong làng. Nàng đành nhắm mắt đưa chân. Hà Nội như ánh đèn thu hút cánh thiêu thân, nàng bị cuộc sống lôi cuốn lên chốn phồn hoa cố đô. Thân gái bơ vơ giữa cảnh xô bồ đô hội, nàng phải từng phút vận dụng xảo năng để tranh sống, thăng hoa, nên không còn đầu óc nghĩ đến chuyện nào khác ngoài thực tại thử thời.
Chúa Tiên thú thật với cha là từ ngày tới cố đô 36 phố phường nàng không hề được ngủ trước nửa đêm, bận rộn tối ngày suốt 20 năm ròng rã. Lắm lúc muốn sai thuộc hạ hoặc đích thân về làng thăm cha, nhưng ý định chỉ thoáng qua rồi lại bỏ đó vì quá đa đoan công chuyện. Thấm thoát, ngày qua tháng lại đã gần 30 năm, nay cha con trùng phùng xum hợp. Nghe con nói xong ông lão gục gặc, tấm tắc khen với Chúa Tiên:
-Chịu Thầy bói Chợ Đường Cái đoán giỏi! Ông Lợn quyết đoán phải 20 năm xa cách cha con mới đoàn tụ. Tính đến hôm nay vừa tròn 27 năm II tháng. Bữa nào, cha con mình phải đến thưởng ông Thầy!
Liền đó, Chúa Tiên cho gọi toàn thể gia nhân, tôi tớ lên đứng đằng trước mặt, ra lệnh những ai đã có thái độ vô lễ, tàn nhẫn với cha già phải quì xuống tạ tội lễ sống 2 lạy còn người khác thì 2 vái sau khi tuyên bố cho biết đó là cha đẻ xa cách 28 năm mới gặp lại. Bà thuật cho nghe trường hợp Bà nhỏ 12, 13 đã phải lìa xa gia cảnh. Định mệnh đã an bài sự kiện tương phản giữa việc thoát ly và đoàn tụ của Chúa Tiên: Xưa thì con đánh vỡ bỏ cha nay thì “cha làm bể ang cha mới gặp con”

Cuộc đời Chúa Tiên trên báo Pháp
Giữa bầu không khí hoan hỉ bỗng có tiếng chuông reo ngoài cửa. Viên quản gia chạy ra, trở vào cho biết quan tây Chủ báo Phố Hàng Trống đến. Một thoáng do dự Chúa Tiên ra hiệu cho vô…Thấy ông lão quê mùa lạ hoắc ngồi bên Chúa Tiên, Chủ báo Henri de Massias hôn tay nàng vừa ngó ông lão. Hiểu ý, Chúa Tiên giới thiệu cha với người tình lớn rồi vui miệng kể giai thoại vừa xảy ra. MASSIAS, lúc đó đang sưu tập các dữ kiện để viết về cuộc đời li kì CHÚA TIÊN đăng “phơi-tông” trên báo AVENIR DU TONKIN dưới nhan đề :" La vie merveilleuse de Betty la Tonkinoise". Độc giả HN, cả ta lẫn tây, đều hiểu BETTY là tên ĂNGLÊ đặt cho cô BÉ TÝ HÀNG BẠC. Trên nhật báo “Annam Nouveau” của Nguyễn Văn Vĩnh, nhân sĩ chủ trương thuyết trực tri ngày đó, có bài châm biếm Chủ báo Avenir là mỏ rao hàng (crieur public) cho Chúa Tiên để được Chúa cho tha hồ “ra vào động Chúa”. Cũng trên báo này, binh bút Trần Văn Tùng còn ví De Massias là họ Mã của Tú Bà đang muốn đánh cả cụm “rinh” Aline (tức Cô Liên, con nuôi lai đẹp, tay hòm chìa khóa Chúa Tiên). Trong các nhân tình cô bé Tý, không ai biiết rõ, viết nhiều về cuộc đời cô bằng De Massias. Có lẽ do đó, nàng cưng nhất chàng DON JUAN đĩ điếm này. Massias cũng như hầu hết các nhân tình mết CHÚA TIÊN không phải chỉ vì nàng đa tình, da thịt thơm tho hấp dẫn mà còn vì nàng thông minh và linh mẫn như hồ li, khiến chồng và tình nhân nhiều phen lúng túng, bối rối trước những câu hỏi hóc búa của nàng mặc dù họ học cao, còn nàng gần như thất học. Về điểm thông minh và linh mẫn này, DE MASSSIAS – tức Quan Năm Douguet, nhân tình Betty trong truyện “Đời ly kỳ của Betty - Cô gái Bắc” có kể về nàng như sau:
BETTY là cô gái nhà quê, được ba má nuôi là vợ chồng công sứ HƯNG YÊN cho học tiếng PHÁP truyền khẩu, thực hành ngay trong gia đình nên 5,6 năm sau đã nói thông PHÁP NGỮ. Cái giá trị ăn khách của BETTY ở chổ đó. Các quan thầy coi nàng như con chim lạ miền Bắc vì hồi đó hiếm có gái AN NAM nào thạo tiếng Bắc như nàng. Phải nói là họ bị BETTY chinh phục hơn là họ chinh phục BETTY. Không những này trẻ đẹp, sạch, thơm hơn người nữ Âu, nàng còn khéo o bế, chiều chuộng nên không người tình nào thất vọng vì nàng.
Tuy nhiên, BETTY cũng rất khó tánh, cái khó tánh tạo ra cái oai của nàng như oai của Josephine với Nã Phá Luân khiến đàn ông quý nể. Lắm người có cảm tưởng Betty là mụ phù thủy hay nhà linh thị. Một lần, sau tiệc sinh nhật vợ bạn thân, tôi trở về nhà Betty. Hôn tôi xong, nàng nheo mắt, trỏ vào mặt tôi nói rằng tôi vừa đi ăn tiệc về và ăn hơi nhiều. Tôi ngạc nhiên hỏi sao biết? Nàng đáp tôi ăn đồ nguội và bánh thịt (sand wiches) nhiều hơn bánh ngọt. Tôi sửng sốt tròn mắt trước câu nói trúng phóc của Betty. Hỏi làm cách nào biết rõ vậy? Nàng tủm tỉm trả lời là có mắt thần thấy rõ mọi vật ở xa. Lại một lần đến, chơi nhà d’Apremont – tức de Monpezat – nằm chuyện gẫu, tôi có hút 5 điếu á phiện. Vì là thuốc thượng hảo hạng Besesnares rất thơm, tôi đã cẩn thận xúc miệng rất kỹ, tợp ly nhỏ Cointreau và ngậm điếu xì gà trước khi chia tay, đến nhà Betty. Tới nơi, tôi hôn nàng. Người đẹp bỗng nheo mặt, ngó tôi không chớp. Làm bộ không lưu ý, tôi bồng nàng, đặt xuống divan… Betty đẩy tôi ra: Không! Anh sắp làm tôi mệt. Để mai, bữa nay tôi không khỏe! Tôi chưng hửng trước phản ứng bất ngờ này. Nàng nói tiếp: Đi hút về mà hành xác người ta! Tôi vội chối và giơ tay thề. Betty nhếch cười: Anh quên tôi có mắt thần sao? Tôi đâu tin lời thề anh bằng tin râu tóc anh? Câu trả lời khó hiểu làm tôi thắc mắc, hỏi lại nàng làm thinh. Tôi đến d’Apremont, kể hắn nghe chuyện này. Anh bạn chủ ngựa cười: “Con nhỏ già dặn kinh nghiệm, đánh hơi tài lắm” Rồi hắn giải thích là Betty thính mũi, ngửi thấy khói thơm dặt mùi á phiện còn phảng phất quyến vào râu tóc mà biết, chứ không phải có mắt thần, linh thị gì. Xúc miệng uống rượu hút xì gà chưa đủ, phải rửa mặt gội đầu xà bông mới đánh bay được mùi thuốc. Hồi làm Quân Trấn Trưởng sống độc thân ở Hà Nội, tôi (Lời: Quan Năm Douguet tức Massias) có hẹn Betty mỗi tuần đến Quân Trấn một lần nếu quá 17 giờ thứ bẩy không thấy tôi tới nàng.
Rồi một thứ Bẩy, đang ngủ trưa, có một bạn gái thân, chồng làm Phó Công sứ một tỉnh duyên hải, lần đầu lên thăm tôi tại Quân Trấn. Trong tình cũ nghĩa xưa, nàng vui với tôi suốt buổi trưa đến gần 16 giờ mới chia tay. Hơn giờ sau, Betty đến, vào cổng bên hông lúc tôi vừa xuống văn phòng sau khi đã cẩn thận sai lính làm lại buồn, xóa hết dấu vết cuộc hợp hoan vừa qua. Một mình trong buồng, Betty để mắt quan sát, hít hà các gối đệm rồi bấm chuông… Tôi vừa lên đến cửa, nàng ôm chầm lấy hôn rồi phanh áo tôi, đưa mũi đánh hơi, trên da mặt vai, ngực tôi một lúc, vùng văng xô tôi ra, giật cây dù để trên bàn, bước mau ra cửa. Tôi cản giữ lại, nàng gỡ tay tôi, nói:
-Anh quên là tôi không muốn làm người thứ 2 trong cùng một ngày của anh? Khỏi hỏi ai, tôi cũng thừa biết anh vừa có một đàn bà trong vòng tay.
Dứt lời, nàng dời phòng, hẹn hôm sau tới. Thái độ khó tánh, cửa quyền này (fierté des manieres) tuy không đẹp, nhưng các nhân tình vẫn khoái BETTY, có lẽ vì họ thấy ít có me tây AN NAM nào giống nàng và do đó rất quí nể, không dám coi thường nàng như các me khác. Riêng tôi còn khoái Betty ở chỗ nàng hay nêu lên những vấn nạn từng khiến nhiều người – trong số có tôi – từng bí khó trả lời. Tôi có tật đêm mưa, bằng mọi cách, phải tìm đến với nàng. Vài ba lần như vậy, nàng thấy bị làm phiền nhiễu vì tăm tối mưa gió, đầu ráo áo ướt, cửa mở đóng làm rộn lối xóm nên một đêm, nàng biểu tôi sẽ không tiếp lần sau, nếu không giải thích tại sao lại khoái đến với nàng đêm mưa? Lúng túng, tôi đành trả lời khoái đêm mưa tìm đến, chứ không hiểu tại sao? Betty vặn hỏi sao lại khoái như vậy? Bất cứ hành động nào cũng có lý do như muốn ăn uống là vì đói, khát. Việc mò mẫm đêm mưa sấm chớp ầm ầm không thể không có những lý do sâu sắc ngoài động cơ sinh lý thúc đẩy? Rồi nàng cười nói tiếp không hiểu tại sao đàn ông khoái đến với đàn bà những đêm mưa? Nàng thấy đàn ông Đông hay Tây cùng khoái như vậy, và đã hỏi nhiều người già lẫn trẻ, hầu hết là các quan Tây đều không giải tỏa nổi thắc mắc của nàng. Do đó, Betty đã quyết định từ nay không tiếp ban đêm mưa chừng nào chưa được giải thích rõ về điểm này.
Một người tình cũ của Betty trước tôi là Đại tá M, có thuật lại câu chuyện về bộ tóc dài dậm cảu Betty. M mỗi lần nằm bên nàng đều yêu cầu nàng bọc hay quấn tóc, đừng bỏ xóa vì anh ta có tật ngủ say tay quờ quạng, hễ vướng vít phải tóc dài là thức tỉnh lập tức. Betty không chịu, viện lẽ, nếu quấn lại không ngủ được như bị ai nắm đầu. Vậy chỉ có cách hai người ngủ riêng là tốt. Nhưng M không muốn vậy. Sau nhiều lần yêu cầu nàng chịu nhượng bộ với điều kiện M giải thích cho nàng hiểu công dụng của tóc trên đầu cùng những lông khác như ở nách? Tại sao nách có lông dài? Tại sao nhỏ không có, lớn mới mọc? Để làm gì?
Tất nhiên, cũng như tôi M chịu thua không trả lời được câu nào.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Siêu tài liệu: Hạn địa kiếp của cô Bé Tý Hàng Bạc
Linh Xuyên

Thầy kế Khâm Thiên đoán cô Bé Tý đáo hạn Địa Kiếp (năm Ât mùi 1955) phải khánh tận như Thạch Sùng – Để cứu vãn, thầy bói khuyên cô làm gì? Sao cô không tin? Cô bị hết của, ly kỳ trong nửa ngày như thế nào? Ai tay không đến đoạt hết kho tàng báu vật vô giá của Cô?...

Cô Bé Tý coi quẻ thầy Kế
Sau khi đến chợ đường Cái thưởng tạ thầy bói Lợn, được ông này báo động về hạn năm Mùi rất nặng, cha con cô Bé trở về HN kém vui. 8 năm sau, ông lão qua đời, được con gái ma chay linh đình, đưa linh cửu về quê mai táng. Năm 1942, nhân đi trẩy hội Mẫu PHỦ GIẦY qua Nam Định, CHÚA TIÊN nhớ lời đoán của ông Lợn, có ghé coi thầy Kế , lúc đó ngồi ở phố HÀNG SONG. Không muốn ra mặt, nàng nhờ bà Bóng đi theo cầm quẻ và biên ngày tháng ra mảnh giấy, để khi hỏi bà này nói thay. Thầy bói gieo quẻ xong, hỏi ngày giờ sinh, rồi bấm tay nói ngay: " Số này giống y cô BÉ TÝ HÀNG BẠC".
Chúa Tiên cười, lên tiếng chào. Ông Kế dõng dạc nói : "Hơn năm trước, ngày tôi mới từ KHÂM THIÊN về Ngã Sáu ( ỏn rợp), bà có đến coi vụ ông Năm Đồng đăng bị Nhật bắt, tôi đã quyết đoán bà về tới HN thì ông ta cũng được tha, việc đó có đúng không?"
CHÚA TIÊN gật đầu: "Chịu thầy! Tôi về đến nơi buổi trưa thì chiều, ông ta đến.Còn quẻ bói hôm nay ra sao?"
Ông Kế đáp: "Quẻ hôm nay không ứng, chẳng động hào nào, tôi mới hỏi ngày giờ sinh bấm đoán theo tử vi. Như lần trước, tôi đã nói bà từ nay đến năm Ngọ tới (1954) , tức còn tròn 1 giáp, số vẫn hạnh cát, không có chuyện gì nhưng đến năm Mùi (1955) , hạn phùng địa kiếp, phải lo phòng kẻo vong gia như THẠCH SÙNG thuở trước.
Lời thầy Kế làm chúa tiên hơi biến sắc nói: "Thầy bói Lợn cũng đoán vậy, khuyên tôi làm phúc vì đức năng thắng số, kiêng sát sanh và ăn chay niệm Phật thì cũng đỡ hoặc có thể qua khỏi. Như vậy có thể đúng không? Thầy có phép gì giúp tôi qua hạn này không?"
Ông Kế đáp: "Bà nên làm như ông Lợn đã dạy nhưng tôi còn khuyên bà đầu năm Ngọ (1954) nên dọn nhà đi nơi khác ít nhất 1 năm đến đầu năm Thân (1956) hãy quay trở về nhà cũ. Tốt hơn là nên bán ngôi dương cơ đó hoặc cho người ta thuê, nếu không hạn này khó qua"
Chúa tiên hỏi dọn đi đâu, thầy bói khuyên nên dọn xa Hà Nội, càng xa về phương Nam càng tốt, càng kín nhẹm việc chuyển cư không để ai biết tung tích, đia chỉ càng tốt. Nếu ở lại ngôi nhà hiện hữu, chắc chắn không qua khỏi đại hạn xấu này.
Nghe nói tuy lòng lo ngại, nhưng Chúa tiên Hàng Bạc vẫn tin có Mẫu che chở, số mình không đến nỗi. Sau khi nàng đi khỏi, thầy Kế nói ngay với khách xem ở đó là cô BÉ TÝ sẽ không làm theo lời ông dạy vì số cô sẽ tán gia năm Mùi, may lắm còn cái xác nhà và chút ít của chìm.
Ra khỏi chổ coi bói, Chúa tiên có vẻ băn khoăn, hoang mang nhưng về tới nhà nàng lại chủ quan như 10 năm trước cùng cha đi coi thầy bói Lợn về. Tin có vua Mẫu, chư vị Quan Lớn, quan Hoàng hộ trì...nàng càng mê đồng bóng.. Từ Đồng Cuông, Tuần Quán, Hội Lộ, Đền Tranh đến Phủ Giầy, Sòng Sơn, Phố Cát, không đền to phủ lớn, hội hè nào nàng không tới hành hương chiêm bái. Nàng cũng tin người Nhật, người Pháp sẽ không chiếm đoạc tài sản của nàng, do đó nàng chẳng phải thay đổi chổ ở. Việc di chuyển đồ đạc, nhất là hàng ngàn báu vật, cổ khí lớn nhỏ dễ bể là điều khó khăn, nan giải. Hơn nữa, cả 1 điện thờ nguy nga khiêng dọn đi đâu? Nàng vẫn tin là pho tượng Mẫu bằng vàng rất linh thờ trong động sẽ hóa giải các vận hạn đến với nàng. Thế là Chúa tiên coi như "pha", không quan tâm đến lời khuyến cáo lúc đó của hai thầy bói nổi danh BẮC HÀ. Mãi cho đến 12 năm sau…

Mưu chiếm của quý của cô Bé Tý
Hai cán bộ, nón bọc nylon, đeo sà cột theo viên Trưởng Phố Hàng Bạc, đến bấm chuông nhà cô Bé Tý, người quản gia cháu cô ra mở cửa mời vào, Viên Trưởng Phố giới thiệu 2 gã cũng xuất trình chứng minh thư là Đại diện Tòa Thị Chính đến thăm viếng chào mừng đồng bào sau ngày Chính phủ về tiếp quản thủ đô.Vừa uống trà hút thuốc, 2 cán bộ vừa đưa mắt quan sát kỹ các đồ vật trang hoàng trong phòng khách.Một gã “giáo đầu” hỏi về chủ nhân và tình hình sinh hoạt . Rồi gã thứ hai mở màn tán dương thành tích kháng Pháp và sự nghiệp cứu quốc của Chính phủ .Y kể công 8 năm hy sinh gian khổ đã đưa đến kết quả là nay Chính phủ về suôi tiếp thu nửa phần đất nước điêu tàn vì chiến tranh, trống trơn vì thực dân bóc lột , vơ vét. Chẳng những họ nhặt nhạnh những gì có thể đem được, mà còn hủy diệt những gì họ không thể đem theo như bất động sản, các di tích lịch sử nhằm gây khó khăn cho Chính phủ hao tiền hao của tốn công tái thiết. Gã lớn tuổi phụ họa : cụ thể như Chùa Một Cột , thực dân biết không thể đem theo đã phá hoại ngôi chùa bằng mìn, còn phao tin Chính phủ ta chỉ huy (Thực ra vụ này do VM gây ra để Chính Phủ Quốc Gia hồi đó, không thể tháo gỡ , chuyển vào Nam ngôi chùa độc nhất vô nhị Đông Dương này, rồi lấp liếm tố ngược Quốc Gia và Pháp cấu kết chủ động).Gã cán bộ lại tiếp : Chưa hết , nhiều bảo vật của 2 bảo tàng viện Đấu Xảo (Mussé Maurice Long) và sau nhà hát lớn (Mussé L, Finot) cũng bị họ lấy đến 80-90% đem vào Saigon và Đà Nẵng. Còn bao nhiêu vật liệu máy móc , công cụ cơ xưởng , xí nghiệp cũng bị họ tẩu tán vào Nam hết . Bây giờ Chính phủ ta và nhân dân phải lo hàn gắn và xây dựng lại từ con số không . Mọi công dân phải tích cực tham gia vào công cuộc tái tạo phục hồi chung , không ai được trốn tránh nghĩa vụ trọng đại này.
Viên quản gia hỏi việc đóng góp của người dân như thế nào ?
Gã kia trả lời : Đại khái nông dân có thể đóng góp tiền bạc , thóc lúa, công sức canh tác , khai phá gia tăng diện tích .Thợ thuyền thi đua lao động sản xuất . Các thương gia ủng hộ tiền của , không trốn thuế chính phủ , mở mang doanh thác . Như gia chủ đây nhà giàu có nhiều bất động sản có thể cho nhà nước mượn không để làm cơ xưởng , công sở , kho tàng v.v.hoặc quyên tặng của cải , ủng hộ các đồ quý giá như năm xưa sau Cách mạng tháng 8 /1945 nhân dân đã hưởng ứng “Tuần lễ vàng” .
Viên quản gia lại thắc mắc hỏi : Các cổ vật quyên tặng như vậy Chính phủ sẽ bầy bán tại cửa hàng mậu dịch lấy tiền xung quỷ hay đem trang trí các cơ quan Trung ương hoặc trang hoàng tư dinh, tư thất nhân viên cao cấp nhà nước ?
Gã cán bộ trẻ cho hay : Chính phủ không đem bán cũng không đem bầy biện trần thiết đâu cả , các cổ vật sẽ đem trưng bày trong các bảo tàng viện, điền vào những chỗ đã bị Pháp lấy đi . Chính phủ sẽ biết ơn và ban khen những vị sở hữu chủ hảo tâm này , vì họ đem vinh dự đến cho chính phủ và nhân dân khi các phái đoàn quốc tế tới tham quan .
Kế đó 2 cán bộ yêu cầu được dẫn đi coi các nơi trong động Chúa Tiên .Viên quản gia hướng dẫn 3 người từ tầng trệt lên đến các lầu , xuống cả sân nuôi cầm thú lạ , 2 cán bộ tròn mắt ngắm coi, không ngớt gục gặt đầu khen ngợi khiến cho vị quản gia cảm thấy lo ngại . Sau đó chừng 1 tuần bọn này trở lại động Hàng Bạc . Viên quản gia xuất hiện nhưng không mở cửa như lần trước , mà ở trong nói vọng ra : Bà chủ trẫy hội chưa về . Bộ 3 gật đầu không nói 1 lời rồi chào đi thẳng.
Sau đó 1 tháng chúng lại đến lần thứ 3 .Thấy nét mặt chúng nặng chịch , viên quản gia đon đả mở cửa mời vào nhưng cho biết bà chủ vẫn chưa về . Bọn này tần ngần ngó nhau ra vẻ hoài nghi, quản gia nài nỉ mời họ vào khám xét để kiểm chứng sự thực .Nhưng bộ ba chỉ cười nửa miệng , lắc đầu không nói 1 lời phiền trách .Cuối cùng gã cán bộ già hỏi sao vắng nhà lâu như vậy ? Quản gia cho hay : Bà thường đi hát đền này phủ nọ liên miên có khi cả nửa năm mới về . Ở nhà độ vài tuần 1 tháng lại có bạn đồng quan khác đến rủ đi nữa .Lại hỏi : Bà chủ cứ sống đồng bóng lang bang suốt năm thế sao? Quản gia đáp : Chủ tôi đã già , nhờ ơn Vua Mẫu độ đủ bát ăn , ở nhà có con cháu tin cậy trông nom nên yên tâm đi lễ bái quanh năm . Hai gã cán bộ ngó nhau gục gặt rồi chào cáo lui . Hí hững kế hoãn binh này đắc cách , quản gia sau đó lên lầu Điện thuật lại cuộc tiếp xúc vừa xong cho Chúa Tiên nghe và tin chắc là : tụi chúng đã tới 3 lần không đạt kết quả sẽ chẳng tới nữa. Mà cho dù có tới, lại dỡ mửng cũ cù cưa , nói quanh riết cũng huề.
Nhưng rồi sau 2 tháng , bẵng đi không thấy chúng trở lại , cả nhà cũng quên bẵng không nghĩ đến chuyện này.Bỗng 1 hôm , tụi cán bộ trở lại với 5, 6 bộ đội nai nịt đồ trận , đi chiếc xe 10 bánh bít bùng đỗ xịch trước cửa .Trên xa nhảy xuống 2 gã cán bộ hôm trước , theo sau là 1 cán bộ mới , không phải là viên Trưởng phố như 3 lần trước, tiến đến cỗng bấm chuông .Trong nhà xôn xao , nhốn nháo , viên quản gia lật đật chạy ra mở cửa . Gã cán bộ già chào , yêu cầu muốn gặp mặt bà chủ có việc gấp , và họ nói rằng bà chủ đang có nhà nhà không đi vắng .Viên quản gia hơi thất sắc nhưng kịp trấn tỉnh, trả lời rằng bà chủ thực sự chưa về và cam đoan nếu anh em lục khám thấy xin chịu tội bắn chết ngay .
Gã cán bộ gật đầu cười lạt , trấn an là Bà Chúa chưa về cũng không sao . Rồi trỏ tay vào viên cán bộ mới, vai choàng sà cột lớn, giới thiệu là Phó Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Chủ tịch Phủ , đại diện bộ Nội Vụ muốn được gặp bà Chủ hoặc viên quản gia giây lát .Dứt lời , gã mở sà cột lấy tờ văn thư trao cho quản gia , nói đó là văn thư Bộ Nội Vụ gữi Bà Bé Tý Hàng Bạc.
Nội dung văn thư đại ý Bộ Nội vụ trân trọng yêu cầu bà chủ cho Chính phủ mượn 1 số báu vật gồm các loại đồ sứ cổ , đồ đồng , đồ ngọc v.v.trong thời gian 3 ngày để trưng bày tại Bảo tàng Viện Thành phố , nhân cuộc viếng thăm hữu nghị 2 phái đoàn khảo cổ Liên Xô và Trung quốc tới vào ngày mốt . Các bảo vật vô giá của Bà sẽ đem vinh dự về cho tổ quốc và cho nhân dân Việt nam.Nhân viên Bộ sẽ làm giấy biên nhận những đồ vật do bà vui lòng cho mượn .
Coi xong văn thư quản gia nói là bà chủ không có nhà nên không có quyền quyết định vụ này.

Nhưng VM có cách thật lẹ để chiếm đoạt
Gã cán bộ lớn tuổi lập tức nghiêm mặt nói ngay : đây là lệnh cấp bách của bộ Nội vụ cho chúng tôi phải bằng mọi giá mượn kỳ được các bảo vật vì chiều mai 2 phái bộ bạn đã tới , và sang ngày mốt sẽ chính thức tham quan các bảo tàng viện và di tích lịch sử thủ đô .Như vậy không có vấn đề trì hoãn và ông quản lý phải quyết định thay cho bà chủ .Vả lại Bộ Nội vụ, Chính phủ đứng lên mượn có văn thư giấy tờ làm bằng và cán bộ nhân viên chúng tôi đại diện biên nhận ấn ký bảo đảm thì còn e ngại gì ? Gã cán bộ thứ hai tiếp lời lên án thực dân đã đoạt ngang nhiều cổ vật quý giá , nên Chính phủ không thể để bảo tàng trống trơn , lèo tèo vài ba cái không đáng giá khiến ngoại quốc chê cười , nước ta có trên 4000 năm lịch sử mà nghèo nàn về lĩnh vực khảo cổ .
Trước áp lực của cán bộ , viên quản gia nhất định không nhượng bộ .Thấy tình thế khó giàn xếp êm , 3 cán bộ ra ngoài sân bàn với nhau . Lát sau trở vào gã cán bộ già dõng dạc nói vì tình hình gấp rút , chúng tôi phải giải quyết 1 trong 2 cách để ông quản gia chọn : một là ông phải thay bà chủ cho Chính phủ mượn số cổ vật yêu cầu trong thư Bộ Nội Vụ mà chúng tôi là đại diện nhân danh bộ sẽ làm giấy biên nhận và ghi rõ và đánh số các đồ vật để vi bằng . Hai là theo lời ông vừa thề và cam đoan mới đây là chúng tôi sẽ bắt đầu khám xét nhà , nếu thấy bà chủ trong nhà thì chúng tôi sẽ “xử trí” ông lập tức , và kế đó là chúng tôi cứ tự tiện khêng ra xe những đồ vật đã ghi trong tờ biên bản để lại .
Viên quản gia bấn người không biết tính sao ? Nếu chịu giải pháp 1 thì quản gia làm sao có quyền cho mượn ? Nếu cho mượn ẩu không có lệnh chủ , lỡ mất mát hay gẫy bể thì ai chịu trách nhiệm ? Mà vô trong xin lệnh Chúa thì lòi tẩy chuyện mình đã nói xạo mấy lần qua ...Còn giải pháp 2 thì tê bại , nguy hiểm hơn...
Chúa Tiên ở trên lầu điện , chúng khám phá thấy sẽ rất phiền , dám giết quản gia, đồng thời tha hồ sang đoạt các bảo vật . Sau vài phút suy tính, cuối cùng quản gia đành phải cho mượn các bảo vật theo yêu cầu của Bộ Nội Vụ , song đòi có sự chứng kiến , kiểm thị của trưởng khu phố Hàng Bạc ký vào biên bản hợp thức . Bọn cán bộ chịu liền nhưng khi đến kiếm thì ông Trưởng Khu Phố không ở nhà .Người vợ cho hay chồng vừa về quê thăm mẹ già đau nặng chừng vài ngày mới lên .Thấy quản gia có vẻ muốn làm ngặt , gã cán bộ đanh nét mặt lý luận:
-Trưởng Khu phố làm sao bằng đại diện Chính Phủ Trung Ương ? Giữa cán bộ Nội Vụ là chúng tôi với viên Trưởng Phố bên nào quan trọng ? Ông cẩn thận lẩn cẩm quá ! Chúng tôi là cán bộ nhà nước mà không được ông tin cậy bằng 1 viên chức khu phố hay sao?
Gã đeo sà cột xua tay:
-Thôi . Không cần hỏi ông ta . Mấy anh bộ đội và bọn ta vào lục soát kiếm bà chủ thế nào bà cũng sẽ chịu cho Chính phủ mượn .
Dứt lời gã vẫy tay kêu mấy lính VM đứng ngoài cửa , khiến cho quản lý biến sắc xua tay không cho lính vào và trách :
-Các anh bộ đội cướp phá nhà dân hả ? Nhà chật , đồ đạt như rừng mà súng ống nghênh ngang , dù chẳng phá thì cũng như phá .
Gã cán bộ già trách lại :
-Tại ông ngoan cố, bất chấp lệnh của Chính phủ , coi ba cái đồ cổ nát còn hơn danh diện, uy tín Chính phủ trước mắt các phái đoàn ngoại quốc.
Gã thứ hai nói tiếp :
-Ông này phải đưa đi cải tạo, gột rửa đầu óc tư hữu, cá nhân chủ nghĩa mới có thể thành công dân tốt của chế độ ta. Vì tôn trọng quyền dân, chính phủ cử cán bộ đến điều đình mượn đàng hoàng , có giấy tờđảm bảo hẳn hoi. Chẳng bù giặc Pháp trước kia muốn cướp của ai thì cướp, chẳng hỏi han điều đình chi hết , ai mà hó hé chúng bỏ tù rục xương .
Sẵn đang bực tức, quản gia mượn dịp sửa lưng :
-Anh nói sai .Hồi Pháp thuộc anh còn nhỏ biết đâu chuyện đó . Chỉ nghe bọn ghét Tây thổi phồng , xuyên tạc , chứ Pháp nó đàng hoàng , không như các anh nhiễu dân mượn gì , đòi gì là đòi cho kỳ được bất kể dân có ưng hay không ? Cái gì các anh cũng nêu Chính phủ , nhà nước , nhân dân làm bung xung để bịt miệng , đóng hàm dân ..Nhân dân là ai ? Là các anh , là chúng tôi , là đồng bào , là tất cả 35 triệu dân Việt , nhưng nhân dân cũng chẳng là ai hết .Thôi .Nói lắm cũng chẳng ích gì, các anh muốn mượn những gì , hãy làm biên nhận để ký cho xong .
Không đợi quản gia lập lại câu nói , gã cán bộ trẻ thảo tờ biên bản , trong khi gã lớn tuổi và gã thứ 3 (cán bộ Tàu cộng về về Văn hóa Nghệ thuật) đi chọn lựa các đồ muốn mượn “nhè” toàn những thứ quý đẹp đủ cỡ , đánh số thứ tự , ghi biên bản rồi , chuyển ra xe , mãi đến chiều chở 4 xe mới hết . Trong Động Chúa Tiên 10 phần còn lại 2 , đồ đạc chỏng trơ loáng thoáng. Khi chiếc xe chót sắp chuyển bánh, viên quản lý rầu rĩ nói với 3 cán bộ:
-Theo điều ghi trên biên bản , chính phủ có cam đoan chịu trách nhiệm về việc sức mẻ, rạn bể , thất thoát số cổ vật đã trao cho các anh .Và trong 3 ngày sẽ hoàn trả chúng tôi nguyên vẹn , đủ số. Xin lưu ý các anh điểm đó.
Gã cán bộ già gật đầu cười , bắt tay quản gia vỗ về :
-Yên chí lớn đi ông anh .Đại diện Chính phủ chúng tôi đã cam đoan trên giấy mực tôn trọng các điều kết ước với gia chủ và quản gia . Sau 3 ngày các bảo vật này sẽ được hoàn trả đầy đủ và không sức mẻ .
Vụ giựt đồ ly kỳ làm sạt nghiệp Chúa Tiên
Ba hôm sau không thấy tụi cán bộ trở lại ...rồi 10, 15 ngày vẫn biệt tăm. Nóng lòng, Bà Chúa hối thúc quản gia tìm đến hỏi Bộ Nội vụ. Tới nơi, đi hết phòng này đến buồng kia xuất trình tờ biên nhận để đòi; nhưng không ai biết xuất xứ ở đâu vì nó không phải do Bộ Nội Vụ làm, ấn dấu và chữ ký, tên tuổi đều giả cả. Quản gia loanh quanh suốt buổi, có ý nhận mặt tìm 3 cán bộ bữa nọ song chẳng thấy. Về tâu với Chúa, Bà tất tưởi đến yết kiến Phó Thị trưởng, bạn đốc tờ già Trần Văn Lai. Viên này đích thân tới Bộ Nội vụ hỏi giùm, cũng không biết hơn. Kế đó, đốc tờ “phá tượng Tây sau ngày Nhật đảo chánh” lại tới Trường Viễn Đông Bác Cổ hỏi vì Bảo tàng viện Finot và Maurice Long thuộc sở quyền trường này, nhưng ở đây cũng chẳng giúp được gì vì không hề cử ai đi mượn đồ của tư nhân Đốc Lai đến tận động Chúa Tiên (bà lúc đó đã 66) cho biết cuộc vận động không đưa đến kết quả tại hai nơi trên và mách nước cho cô bạn già đi cớ Công An Trung Ương và Quận Nhất. Hai hôm sau Phòng Tư Pháp Quận Hàng Trống cho gọi Trưởng Khu Phố Hàng Bạc tới thẩm vấn. Viên này khai 2 tháng trước, một hôm, có 2 cán bộ đến văn phòng xuất trình giấy tờ, chứng minh thư với sự vụ lệnh Bộ Nội Vụ cử họ đến tham quan đến các đồ cổ ngoạn nhà Cô Bé Tý Hàng Bạc. Rồi, cả hai yêu cầu ông dẫn tới giới thiệu gia chủ. Tất cả chỉ có thể và chỉ có 1 lần, sau đó không hề gặp họ lần thứ 2. Công An Quận Nhất cũng đến Trường Bác Cổ yêu cầu cung cấp dữ kiện, nếu có để truy lùng gian phi. Để tỏ thiện chí, Ban Giám đốc xuất trình sổ danh – bộ nhân viên cho Trưởng phòng Tư pháp quận 1 coi. Liền đó Trưởng lại tập hợp nhân viên để viên quản gia điểm mục nhận diện. Nhưng vô ích, quản gian đâu có ở đó mà tìm? Bà Chúa uất hận ra về, bỏ tiền mướn người dò la và kín đáo nhờ các tay hàng sách buôn bán đồ cổ, kể cả em rể Passignat, chủ tiệm La Perle ai phát giác manh mối giúp Bà lấy lại số trên 300 cổ khí bị lừa, sẽ được thưởng 2000đ (bằng nửa số độc đắc nay). Nhưng, bẵng đi 2 năm, trong khi cả nhà Chúa Tiên cơ hồ quên vụ này thì một chủ tiệm đồ cổ, tên Cửu Ninh, em bên ngoại Chúa, đến báo cho biết một số cổ vật hiện được cất dấu dưới hầm Bảo tàng viện Finot, lão chủ tiệm quả quyết là sau khi có bạn đứng đắn cho tin, lão đích thân đã tới điều đình qua sự giới thiệu của người bạn với viên gác đan, biếu 5đ (bằng 10.000đ nay) yêu cầu được đi ngắm coi chốc lát, thỏa tính hiếu kỳ, hiếu cổ, dưới hầm viện, nơi chứa các đồ cổ quí hiếm Đông Phương ít đem trưng bầy công chúng xem, trừ phi có phái đoàn ngoại quốc tới. Viên gác đan thầy tiền tối mắt, nhất là không ngờ có vụ gạt đồ ly kỳ nhà Cô Bé Tý, nên hướng dẫn lão xuống coi, thấy rõ ràng rất nhiều đồ cổ Chúa Tiên. Tin này được lập tức báo cho Quận Nhất. Vài hôm sau, được giấy mời đến Quận, quản gia và Bà chúa được Trưởng phòng Tư pháp hỏi qua về vụ phát giác rồi cung hai người đến thẳng Bảo tàng viện sau Nhà hát lớn. Tới nơi, trái với lời khai quả quyết của lão quản gia, chẳng thấy cổ vật nào của Chúa Tiên trong số những đồ bầy thưa thớt trong 4-5 quầy tủ dưới hầm Viện. Vừa tức giận vừa bẽ mặt với Trưởng phòng Tư pháp Quận Nhất, Bà Chúa về tới nhà, cho gọi Cửu Ninh đến xỉ vả mắng nhiếc một hồi làm lão uất ức phát bệnh, vài ngày sau qua đời. Và cũng từ đó, Chúa Tiên không được biết mảy may tin tức, âm hao về số lớn đồ cổ bị cướp trước mặt một cách thật ly kỳ. Bạn đọc hẳn thắc mắc không hiểu những bí ẩn trong vụ này như thế nào? Phải chăng bọn gian phi, lưu manh đã trá hình cán bộ VM lừa gạt kho tàng báu vật Cô Bé Tý hay đó chính là âm mưu quỷ quyệt do chính quyền VM dựng lên vụ này để sang đoạt trắng trợn lô cổ khí của tư nhân?
Nghi vấn này mãi đến 14 năm sau mới được phơi trần trước ánh sáng , sự thật trong trường hợp tình cờ sau đây : Trong vụ Mậu Thân tháng 2/1968 , khi cộng quân ngày 19 bị QLVNCH đánh bật khỏi thành nội Huế tại khu Thương Tứ , có 2 VC từ dưới hầm chui lên đầu hàng 1 đơn vị HK.Trong 2 gã này có 1 nguyên là cán bộ Văn hóa Vụ , trước đã du học tại Bắc kinh về môn khảo cổ nhân văn . Sau y hồi hương hồi Hội Nghị Giơneo và được tuyển vào đoàn 200 cán bộ gữi về HN . Giữa tháng 8/1954 để điều nghiên chuẩn bị tiếp thu thủ phủ miền Bắc . Sau ngày VM tiếp quản HN 9/10/1954 y được cử chức Quản Thủ Bảo Tàng Viện cùng 1 số cố vấn Trung cộng là Khưu Mặc Viên , tức gã cán bộ lạ mặt thứ 3 đã đến động Hàng Bạc lựa chọn các báu vật , sau khi quản gia cực chẳng đã cho mượn.

Đụng trán ly kỳ ở miền Nam tự do với thủ phạm giật đồ
Cuối năm 1965, hồi chánh viên này dời chức Quản thủ, trở lại bộ đội, chờ ngày xâm nhập miền Nam. Sau 5 tháng hành trình gian khổ đơn vị y tới Cao nguyên bổ xung binh đoàn chủ lực Kon tum . Tháng 2/68 , đêm 30 Tết Mậu Thân dự trận tấn công Huế đến 21/2 đơn vị y tan nát bị đánh bật khỏi thành Nội cùng 2 tổ viên kẹt dưới hầm tử thủ , y chờ dịp ra hàng . Sau khi giải về Ty Chiêu hồi Đà Nẵng , y được Phó Trưởng ty nhận ra người cùng tỉnh Hải dương nên đối đãi nhiều thiện cảm . Hôm kết thúc khóa huấn chính cải tạo , hồi chánh viên lấy tình thân , đến nhà riêng Phó Ty, ngỏ ý nhờ bán 1 tượng Phật bằng vàng nặng chừng 30 lượng . Viên Phó Ty cầm coi pho tượng cao chừng 1 tấc với cặp mắt sửng sốt rồi hỏi xuất xứ . Hồi chính viên trả lời lúng túng nói là của gia bảo đem theo làm bùa hộ mạng . Nay vì tứ cố vô thân , dời trung tâm cần tiền sinh sống nên buộc lòng phải bán . Phó Ty cho hay nếu không nói rõ xuất xứ thì không thể bán giúp mà còn làm khó đương sự vì viên này biết đích thực pho tượng không phải của y . Hồi chính viên 1 mực quả quyết là của mình . Phó Ty lật ngược pho tượng , trỏ tay vào 2 chữ B.T. chạm dưới đáy hỏi:
-Anh lấy tượng vàng này của ai? Nếu không nói rõ thì tôi sẽ bắt anh đưa ra nhà chức trách
Tưởng Viên Phó Ty này giở trò tháo cáy sang đoạt , hồi chánh viên khăng khăng bảo là của gia bảo .
Cười lạt , Phó Ty vặn hỏi :
-Trong bản khai lý lịch anh khai thành phần bần cố nông làng Phao sơn , Nam Sách , Kinh Môn . Đã bần cố nông 3 đời như anh nói , làm sao cha ông có tượng vàng để lại cho anh ?
Vẫn cứng cỏi cấp trí, hồi chánh viên đáp :
-Họ tôi tuy 3 đời nghèo nhưng ông cha tôi đời nọ dặn đời kia không được bán vì tượng này rất linh đã phò hộ cho mấy đời nhà tôi thoát tai nạn , bệnh tật . Đến đời tôi không phải là không tin , song về với Chính phủ quốc gia , không họ hàng thân thích tại miền Nam , tôi phải sống tìm việc làm , chẳng lẽ giữ vàng mà phải đi ăn xin , ai cho ?Đó là tất cả sự thật , tôi không cưỡng đoạt của ai hết .
Phó Ty lắc đầu :
-Tôi không tin như vậy nếu anh không giải thích nổi nghĩa của 2 chữ BT dưới đáy tượng . Là gia bào nhà anh thì anh phải biết . Nếu không biết thì anh là quân gian .
Thấy đương sự có vẻ lúng túng . Phó Ty tiếp :
-Nhưng tôi chắc anh không giải thích nổi , vì anh không phải là chủ sở hữu đích thực .Và tôi chắc anh cũng không đủ lanh để phịa ra nghĩa của 2 chữ BT , vì chỉ có tôi hiễu rõ nghĩa của nó .
Câu nói làm đương sự thêm lúng túng nhưng cố trấn tỉnh đáp :
-Thú thật với ông gia bảo này là của lâu đời , đến cha tôi lại quên không giải thích nghĩa 2 chữ , về phần tôi cũng vô tình không hỏi , đến khi để ý đến thì cha tôi đã qua đời , chẳng biết hỏi ai ?
Phó Ty trỏ vào ngực cười :
-Hãy hỏi đây nói cho mà nghe .BT là chữ viết tắt tên của bà cô tôi ....dân Hà Nội ai mà không biết? Bà cô tôi có nhiều đồ quý hiếm đất Bắc Hà , hơn cả nhà Cửu Nghi , Bá Soạn . Các đồ báu vật dù là vàng ngọc , đồ sứ , đồ đồng cổ v.v. đều khắc 2 chữ BT trong 1 khung bát giác dưới tay . Anh còn muốn tôi nói rõ nữa không ? Anh có biết tôi là ai không ? Cha tôi chính là viên quản gia (gọi bà BT là cô ruột) đã bị bộ ba cán bộ VM các anh lường gạt , lấy gần hết cổ vật trong nhà . Lúc đó là đầu 1955 , đơn vị tôi đã dời HN tháng 9 /54 vào Quảng Trị do đó chẳng hay biết gì cả . Mãi đến tháng 4 /55, em trai tôi di cư vào Nam gặp tôi ở Huế mới cho hay đầu đuôi câu chuyện . Thật không ngờ trái đất lại tròn : thiên bất dung gian , cho tôi đụng trán 1 trong 3 thủ phạm giật đồ bà cô tôi .
Hồi chánh viên vẫn đứng im, xa vắng như đang suy tính cách chống chế .
Phó Ty lại tiếp :
-Cho anh hay là tôi ở Phố Hàng Bạc với bà cô và cha tôi từ năm 10 tuổi , đi học. Măm 16 tuổi tôi học trường Chu Văn An , mỗi năm 6 tháng 1 lần, cha con tôi lại phải lau chùi , kiểm soát các báu vật trong nhà nên biết rõ dấu ghi BT này .
Bây giờ anh đã tin tôi chưa? Nếu chưa, tôi sẽ đưa hình cha tôi cho anh nhận diện có phải là viên quản gia đã bị các anh gạt gẫm không ?
Hồi chánh viên vẫn điềm tĩnh đáp :
-Đúng hay sai , tôi gian hay ngay đều chẳng thành vấn đề . Vấn đề là giờ đây tôi đã về quy chánh Chính Phủ Quốc gia chủ trương xóa bỏ hận thù , tội lỗi tôi nếu có trước ngày hồi chánh , dù đã giết hàng ngàn người , cướp lừa bạc triệu , cũng kể như tôi không có tội , như đương nhiên được bạch hóa . Hơn nữa về phía ông , chẳng có gì xác minh tượng vàng là của bà cô . Về phần tôi cũng không có giấy tờ biện minh đó là của gia bảo thì dù đến chỗ phải trái , tôi , 1 tân hồi chánh viên , vẫn thắng lý .Tóm tắt , đối với Chính phủ VNCH , tôi nay được coi như không có tội gì trước ngày quy chánh và chỉ có tội , nếu từ nay về sau tôi làm điều gì phạm pháp .
Trước lập thuận lý của đương sự , Phó Ty nói :
-Tôi không có ý đòi lại tượng vàng của bà cô tôi , mà tôi chỉ muốn anh kể lại sự thật về vụ này , tôi đoan hứa sẽ không làm khó dễ , và sẽ giúp anh bán tượng phật này .
Hồi chánh viên bèn thuật lại mọi việc như đã kể ở trên .Vụ đoạt đồ ly kỳ nhà Cô Bé Tý mà chủ xướng chính là đương sự :
Thấy Bảo Tàng viện thành phố mất mát quá nhiều cổ vật , đương sự và viên cố vấn TC bàn cách bù đắp thiếu hụt này . Biết Cô Bé Tý có nhiều cổ vật quý hiếm mà không thể điều đình để mua bằng tiền , cả 2 bèn thảo kế hoạch hành động trình lên Vụ Trưởng Vụ văn hóa . Sau khi thỉnh thị Bộ Giáo Dục Văn hóa Vụ không chính thức cho phép nhưng hứa kín với đương sự giúp phương tiện và nhắm mắt cho họ hành động .Nếu thành công sẽ trọng thưởng , bằng không sẽ gánh lấy hậu quả 1 mình. Sau nửa tháng chuẩn bị chu đáo , đương sự và 1 cán bộ dưới quyền đem tờ văn thư giả Bộ Nội Vụ nhờ Trưởng Khu Phố dẫn đến giới thiệu với Cô Bé Tý cho thêm uy tín . Và kết quả là 4 xe 10 bánh chở đầy cổ vật quý giá được đem cất dấu dưới hầm sâu của Bảo Tàng Viện L Finot. Đến khi có đơn cớ của Chúa Tiên được Nha Công An thông tư. Văn hóa Vụ đến gặp Giám Đốc Công An trình bày sự thực vụ này và yêu cầu bưng bít cho êm. Hai năm sau , Chúa Tiên lại tống đơn tố giác đích xác dưới hầm Bảo Tàng Viện nhà hát Tây có oa trữ các cổ vật. Quận Nhất bèn ngầm báo cho Bảo Tàng viện rõ tự sự . Đương sự lúc đó là Quản thủ viện , biết nguyên đơn sẽ đòi khám xét , lập tức cho di chuyển vào ban đêm các cổ vật lên gữi tạm trong Biệt Điện Chủ tịch Chính Phủ (dinh Toàn Quyền cũ). Hôm sau , quả nhiên Quận Nhất đưa nguyên đơn đến xét hầm nhưng không thấy gì .
Phó Ty hỏi hồi chánh viên làm sao mà đoạt được vàng . Đương sự cho biết y đã lẹ tay nẫng được trong 1 phút sơ ý của quản gia trước lúc ghi vào biên bản nhận các bảo vật cho mượn .
Sau khi nghe trình bày cặn kẻ vụ này , Phó Ty giữ lời , nội chiều hôm đó đã kiếm được người mua tượng vàng cho đương sự .
Hào sảng không kém , hồi chánh viên nói với Phó ty :
-Để tỏ lòng hối hận việc làm của tôi mặc dù cho chính quyền CS Miền Bắc lúc đó , đồng thời , để tạ lòng ưu ái ông đối xử với tôi suốt 4 tháng tại Trung tâm , tôi xin trích lại 1/3 số tiền bán tượng giá 270.000 đồng là 90.000 đồng biếu ông làm duyên cho có đi có lại .
Một cuộc dàn xếp thật đẹp và bất ngờ !!!!!
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
CUỘC ĐỜI CỤ TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Qua bài tựa quyển “ Bạch Vân gia phả “ của tiến sĩ Vũ Phương Đề, đông các học sĩ đời vua Lê Ý Tôn

- HOÀNG PHONG –

Từ xưa đến nay, người ta đã nói rất nhiều về cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng theo tôi về cuộc đời của cụ, bài này đúng hơn cả, vì đây là bài của vị đại khoa thời Lê đã đề vào gia phả cho con cháu của cụ. Vậy xin trích dịch để độc giả nhã giám và rộng đườnh tham khảo…

Trình quốc công trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm tự Hanh phủ đạo hiệu Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại tiên tổ ngày xưa tu nhân tích đức đã nhiều ( nay không thể khảo cứu được ) chỉ biết từ đời cụ Tổ thì được tập phong Thiếu bảo Tư quận công, mỹ tự là Văn Tĩnh. Cụ bà được phong Chinh phu nhân Phạm Thị Trinh Huệ. Nguyên trước đây các cụ lập gia cư ở nơi có sông núi bao bọc, hợp với kiểu đất của Cao Biền.

Phụ thân được phong Thái bảo Nghiêm Quận Công, mỹ tự là Văn Định, đạo hiệu là Cừ Xuyên tiên sinh, nguyên người học rộng tài cao, lại có đức tốt, được xung chức Thái học sinh.

Thân mẫu họ Nhữ được phong Từ Thục phu nhân, nguyên người ở An Tử hạ thuộc huyện Tiên Minh là con gái quan Hộ bộ Thượng thư Nhữ Văn Lân.

Bà vốn là người thông minh, học rộng văn hay; lại tinh cả môn tướng số, ngay thời Hồng Đức mà bà đã tính được rằng: vận mệnh nhà Lê chỉ sau 40 năm nữa thì sẽ suy đồi. Vì có một chí hướng phò vua giúp nước của bậc trượng phu muốn chọn một người vừa ý mới chịu kết duyên, nên bà chờ đợi đến ngót 20 năm trời , khi gặp ông Văn Định có tướng sinh quý tử, mới lấy.

Nhưng sau lại gặp một trang thiếu niên trong lúc sang bến đò Hàn thuộc con sông Tuyết, thì bà ngạc nhiên than rằng: “ Lúc trẻ chẳng gặp, ngày nay tới đây làm gì ? “.

Những người theo hầu không hiểu ra sao, cầm roi đánh đuổi thiếu niên ấy đi, rồi sau bà hỏi lại tính danh mới biết người ấy tên là Mạc Đăng Dung, khiến cho bà phải sinh lòng hối hận đến mấy năm trời.

Bỉnh Khiêm sinh vào năm Hồng Đức thứ 21 ( tức năm Tân Hợi 1491 ) lúc sơ sinh vóc người có vẻ hùng vĩ, khi chưa đầy năm đã biết nói, một hôm vào buổi sáng sớm Văn Đinh đang bế cậu ở trên tay bỗng thấy cậu nói ngay rằng: “ mặt trời mọc ở phương đông “ ông lấy làm lạ rồi năm lên bốn thì phu nhân dạy cậu học kinh truyện, hễ dạy đến đâu thì cậu thuộc lòng đến đấy, và thơ quốc âm cậu đã nhớ đến mấy chục bài.

Lại một hôm bà đi vắng. Ông ở nhà bày trò kéo dây đùa với lũ trẻ, nhân đọc bỡn một câu rằng:

“ Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung “ , rồi ông muốn đọc tiếp câu nữa nhưng chưa nghĩ kịp thì cậu đứng bên đọc luôn ngay rằng: Vén tay tiên nhẫn nhẫn rong. Ông thấy cậu mẫn tiệp như vậy có ý mừng thầm, đợi khi bà về thuật lại cho nghe. Bà lấy làm bất mãn ,nói với ông rằng : Nguyệt là tượng bề tôi, cớ sao ông lại dạy con như thế. Ông cả thẹn xin lỗi nhưng bà vẫn không nguôi, giận bỏ về ở bên nhà cha mẹ đẻ, cách ít lâu thì mất.

Lại có truyền ngôn rằng: Lúc tiên sinh để chỏm cùng với lũ trẻ tắm ở bến đò Hàn, khi ấy có một chú thuyền buôn người Tàu nhìn thấy tướng mạo ông, chú bảo với mọi người rằng: Cậu bé này có tướng rất quý chỉ hiềm một nỗi là da hơi thô về sau chỉ làm đến trạng nguyên tể tướng mà thôi, vì thế ai cũng đoán chắc rằng: Bỉnh Khiêm sẽ là bậc tề phủ của quốc gia sau này.

Như tiên sinh còn lúc thiếu niên, học vấn sở đắc ngay tự gia đình đến khi lớn tuổi, nghe nói có quan Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nổi tiếng văn chương quán thế, ông bèn tìm đến để xin nhập học Lương Công là người làng Hội Trào, thuộc huyện Hoàng Hóa, lúc ngài phụng mệnh sang sứ nhà Minh, có học được phép Thái ất thần kinh của người cùng họ, tức là dòng dõi Lương Nhữ Hốt ( ông Hốt trước hàng nhà Minh được phong tước là Lăng Lăng Vương ) Lương công rất thông minh về lẽ huyền vi, đem truyền lại cho tiên sinh đến khi ngài bị ốm nặng lại đem cho con là Lương Hữu Khánh ký thác với tiên sinh, tiên sinh săn sóc dạy dỗ chẳng khác chi con mình, sau này ông Khánh cũng được thành đạt.

Năm Quang Thiệu ( 1516 – 1526 ) gặp lúc loạn lạc tiên sinh về ẩn cư để dạy học lấy làm vui, chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời đầu niên hiệu Thống Nguyên ( tức Lê Hoàng Đệ Thung ) thì Trịnh Tuy và Mạc Đặng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên tử, để sai khiến chư hầu hai bên gây cảnh nội chiến khiến cho trong nước chịu cảnh lầm than lúc ấy tiên sinh có cảm hứng một bài thơ rằng:

Thái hòa vũ trụ bất Ngu Chu
Hổ chiến giao tranh tiểu lưỡng thù
Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu
Uyên ngư tùng tước vị thùy khu
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu
Thế sự đáo đầu lưu thuyết trước
Túy ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.

( Bản dịch của ông Phan Kế Bính )

Non sông nào phải buổi bình thời
Thù đánh nhau chỉ khéo nực cười
Cá vực chim rừng ai khiến đuổi
Núi thây sông máu thảm đầy nơi
Ngựa phi ắt có hồi quay cổ
Thú dữ nên phòng lúc cắn người
Ngán ngẩm cuộc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát nhẩn nhơ chơi.

Sở dĩ có bài thơ trên, vì tiên sinh biết rõ nhà Lê sẽ trung hưng, dẫu rằng ngày nay phải tạm tìm kế an thân, nhưng rồi sau đấy tất nhiên sẽ lại khôi phục đất nước, mà câu thú dữ nên phòng lúc cắn người chỉ là nói kín đó thôi.

Quả nhiên về sau nhà Lê trung hưng, bốn phương trời trở lại yên tĩnh. Bấy giờ bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi ông mới chịu ra ứng thí khoa hương thi ấy tiên sinh được đỗ đầu, rồi năm sau tức là năm thứ sáu đời nhà Mạc ( 1535 ) lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhất, khi vào đình đổi thì lại đỗ Tấn sĩ đệ nhất danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong đời Thái Tông nhà Mạc, ông có làm bài thơ “ Xuân thiên ngự tửu, đều dự hạng ưu, rồi i thăng chức Hữu Thị Lang Hình bộ, sau thời gian lại thăng chức Tả Thị Lang kiêm chức Đông Các Đại học sĩ.

Trong 8 năm ở triều, tien sinh dâng sớ hạch tội 18 kẻ nịnh thần, xin đem chém để làm gương, bởi vì bổn tâm tiên sinh chỉ muốn trăm họ đều được an vui, những người tàn tật mù lòa cũng cho họ các nghề ca hát bói toán, nhưng rồi gặp phải con rể là Phạm Dao Y thế lộng hành vì sợ liên lụy đến mình, nên tiên sinh cáo quan xin về trí sĩ.

Thế là giữa năm Quảng Hòa thứ 2 ( 1542 ) tiên sinh mới 52 tuổi đã xin trí sĩ, treo mũ về làng, dựng am Bạch vân ở phía tả chỗ làng ở, và vẫn lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ khi ấy tiên sinh có bắc hai chiếc cầu Nghịnh Phong và Tràng Xuân để khi hóng mát, dựng một ngôi quán là Trung Tân ở bến Tuyết Giang có bia để ghi sự thực.

Ngoài ra tiên sinh còn tu bổ chùa chiền; có lúc cùng các lão tăng đàm luận, có khi thả một con thuyền dạo chơi Kim hải Úc hải để xem đánh cá. Còn chỗ danh sơn thắng cảnh, như núi An Tử, Ngọa Vân, Kính chủ, Đồ Sơn, nơi nào tiên sinh cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh quên cả sớm chiều mỗi khi thấy chỗ rừng cây xanh tốt chim đổi giọng ca , tiên sinh lại hớn hở tự đắc, quả là một vị Lục địa Thần tiên.

Nhưng trong thời gian dưỡng lão ở chốn gia hương, tuy rằng không dự quốc chính, thế mà họ Mạc vẫn phải kính trọng như một ông thầy, những việc trọng đại thường sai sứ giả về hỏi, có khi lại đón về kinh thành để hỏi, tiên sinh đều ung dung chỉ dẫn, nhờ được bổ ích rất nhiều. Xong rồi lại trở lại am cũ, họ mạc ân cần giữ lại cũng chẳng được, về sau phải liệt vào hạng nhất công thần, phong tước là Trình Tuyền Hầu, dần dần thăng đến Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công, bà nhị đại cũng được phong ấm, 3 người thê thiếp với 7 người con thứ tự cũng được phong hàm.

Năm cảnh lịch thứ 111 thời nhà Mạc ( tức Mạc Phúc Nguyên 1550, Thư Quốc Công người xã Khoa Hoạch huyện Thanh Oai tên là Nguyễn Thiểu con là Quyện và Mỗi về hàng Quốc triều, tiên sinh có làm bài thơ gởi cho Thiếu trong có câu.

Cô ngã tôn cô duy nghĩa tại,
Tri quân xử biến khởi tâm can.

Nghĩa là ta giúp con côi vì trọng nghĩa, ông khi xử biến há cam lòng.

Lại có câu:

Khí vận nhất chu ly phục hợp
Trường giang khởi hữu hạn đông nam

Nghĩa là: Vận chuyển một vòng tan lại hợp, Trường giang đâu có hạn đông nam “.

Thiếu xem thơ trong lòng cảm thất bứt rứt, còn Quyện cũng có tướng tài, luôn lập được chiến công. Phúc Nguyện lấy làm lo ngại; hỏi kế, tiên sinh thưa rằng: Cha Quyện với thần là chỗ bạn thân từ trước và đã ở trong nhà thần, hiện nay được ra trấn thủ Thiên trường ở vào tình thế bán tín bán nghi, nay muốn dùng kế bắt lại thực chẳng khác chi thò tay vào túi để lấy một vật gì mà thôi.

Rồi tiên sinh xin với Mạc Phúc Nguyên trao cho 100 tráng sĩ, sai đi phục sẵn ở bên bắc ngạn, đoạn gửi thư cho Quyện, hẹn sang bên thuyền nâng chén rượu nhạt kể lại tình xưa rồi nhân lúc đã quá say phục binh nổi dậy bắt cóc đưa về Nam Ngạn, tiên sinh mới đem ân nghĩa quốc gia ra khuyên nhủ. Quyên cảm động khóc nức nở, tiên sinh bèn dẫn về quy thuận họ Mạc, rồi sau trở thành viên danh tướng, nhờ đó nhà Mạc duy trì thêm mấy chục năm nữa.

Trong thời gian ấy, đức Thế Tổ đã dấy binh thanh thế vang khắp xa gần, đánh nhau mấy trận ở cửa Thần Phù, Khiêm Vương, Mạc Kính Điển đại bại Thế tổ thừa cơ tiến binh theo đường Tây Sơn ra đánh kinh bắc , khiến cho trong ngoài nơm nớp lo sợ, ông hiến cách hư thực cho họ Mạc theo đó thi hành, bấy giờ trong cõi mới tạm ổn định.

Năm Diên Thanh thứ 8 ( 1585 ) đời vua Mạc Mậu Hợp tiên sinh lâm bịnh, Mậu Hợp sai sứ đến vấn an và hỏi về quốc sự. Tiên sinh chỉ trả lời: “ Tha nhật quốc hữu sự cố Cao bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế. Nghĩa là: Sau này quốc gia hữu sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ thêm được mấy đời “

Quả nhiên cách 7 năm sau họ Mạc mất rồi các chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương, rút lên giữ Cao Bằng được 7 chục năm nghĩa là sau ba bốn đời mới hoàn toàn bị diệt; coi đó thấy lời của tiên sinh dự đoán chẳng sai chút nào
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Tôi học tử vi:
Kinh nghiệm Tử vi của cụ Thiên Lương
SAO THIÊN MÃ TẠI MỆNH, THÂN MỘT YẾU TỐ RẤT QUAN TRỌNG ĐỂ XÁC ĐỊNH VỀ CÔNG DANH TRONG ĐỜI

Trần Việt Sơn

Có thể người học Tử vi tìm rất nhiều mà không đạt. Đó là trường hợp mà chúng tôi gặp phải. Có những lá số mà Mệnh rất tầm thường, ấy thế mà đương số lại thành đạt lớn, không biết vì đâu, trong khi điểm mọi cách khá về Mệnh, Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt? Nhưng lấy gì chứng thực? Có hai lá số tương trợ nhau, cùng có Thiên Mã – nhưng lại chỉ có 1 đương số thành đạt. Một là số khác có Thiên Mã tại mệnh, ở Hợi: thế là Mã cùng đường, theo tất cả các sách cổ. Thế nhưng đương số này cũng thành đạt nữa. Cho nên tất phải có một cái gì đặc biệt về sao Thiên Mã, một sao rất quan trọng trong việc giải đoán Mệnh Thân, nhưng những nguyên tắc chưa được nêu ra đầy đủ.

Chúng tôi xin trình bầy sau đây kinh nghiệm của cụ Thiên lương về sao Thiên Mã tại Mệnh, Thân. Kinh nghiệm này, chúng tôi đã kiểm chứng trong một số lá số có trong tay, thấy rằng đúng.

Cách an sao Thiên Mã
Chúng ta an sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân
Tuổi Tị, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi
Tuổi Thân Tý Thìn, Thiên Mã tại Dần
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ
Nhưng vậy tùy từng bộ ba tam hợp tuổi mà an Thiên Mã. Để cho dễ nhớ, chúng ta có từng bộ ba tam hợp tuổi, mỗi bộ ba có một Chi đứng đầu, thì Thiên Mã ở cung đối diện của Chi ấy. Thí dụ: các tuổi Dần Ngọ Tuất (có Dần đứng đầu), vậy Thiên Mã ở cung đối diện với Dần, tức là cung Thân.

Những cách thông thường về Thiên Mã
Các sách cổ giải đoán về Mã thường ghi những điểm như sau:
-Mã thuộc Hỏa, vạy là Mã tốt ở Tị, Dần và hãm ở Hợi (Thủy) Mã mà ở Hợi là hỏng, là Mã cùng đồ (ngựa hết đường chạy, ngựa ở biển thì liệt bại). Gặp Mã ở Hợi thì thất bại. Như thế chẳng lẽ cứ 3 tuổi Tị, Dậu, Sửu là đương nhiên mất sao Thiên Mã và chịu họa hại vì 3 tuổi này. Mã đóng tại Hợi. Không lẽ giản dị như vậy?
2-Mã tại Mệnh, ứng vào sự mau lẹ hay di chuyển, hay thay đổi.
Mã còn ứng vào công danh, tài lộc và phúc thọ. Thông minh và làm nên cũng là nhờ Thiên mã.
3-Tại Dần Thân, đồng cung với Tử Phủ, là Phù du Mã (ngựa vua chúa): tài giỏi, uy quyền, giầu sang, phúc thọ.
4-Thêm Nhật, Nguyệt sáng sủa là Thư hùng mã: tài ba, giầu sang, vinh hiển.
5- Gặp Lộc tồn đồng cung: công danh tốt, tài lộc tốt
6-Gặp Lộc tồn xung chiếu (Lộc Mã giao trì): công danh và tài lộc tốt đẹp.
7-Mã đồng cung Hỏa, hay Linh (chiến mã): Công danh tốt đẹp về binh nghiệp.
8-Mã khốc khách hội họp (ngựa có nhạc hay, có người cưỡi giỏi) người có tài năng, có công danh về binh nghiệp.
9-Mã Hình đồng cung: gặp tai họa
10- Mã Đà đồng cung: chiết túc mã, ngựa què. Công danh gãy đổ (kinh nghiệm của cụ Ba La: người tuổi Âm, Kình ở trước lộc tồn, Đà ở sau Lộc tồn, nhưng theo chiều nghịch).
11- Mã Tuyệt đồng cung là cùng đồ Mã. Mã tại Hợi cũng là cùng đồ Mã: hỏng, suy bại, gặp tai họa.

Đi tìm ảnh hưởng của Mã
Cũng như đối với mọi sao quan trọng, cụ Thiên lương đã luận về Thiên Mã bằng cách lấy hành của cung Mệnh, hành của sao Thiên Mã và hành Mệnh của đương số mà so sánh với nhau rồi quyết định sự hay dở. Đó là giai đoạn đầu để tìm kinh nghiệm. Giải đoạn sau là kiểm chứng, áp dụng các kết quả của những suy luận vào những lá số có Thiên mã tại Mệnh, Thân để tìm xem có đúng không.

Nhưng trước hết, xin ghi rằng Thiên Mã đây là tại Mệnh và Thân. Thiên mã ở Quan lộc hay Tài bạch cũng có ảnh hưởng vào mệnh (vì hai cung này chiếu mệnh), nhưng ảnh hưởng kém hơn Thiên Mã tại Mệnh. Nếu Thiên Mã ở cung Thiên Di, thì lại không kể vào mệnh là vì Mã tại Thiên Di là xung chiếu chứ không phải hợp chiếu.

Thiên Mã tại cung Dần
Thiên Mã hỏa, ở cung Dần Mộc là được Mộc sinh Hỏa, Thiên Mã mạnh và tốt. Nhưng cái mạnh và tốt này không phải cho bất cứ mạng nào.

Như người mạng Kim, thì càng bị Hỏa khắc, không lợi. Người mạng Thủy cũng không được lợi lộc gì, vì cái Thủy đó không thắng nổi cái Hỏa đương vượng của Mã. Mã hỏa ở đây có thể lợi cho người mạng Hỏa và càng hợp với người mạng Mộc. Người ta thường cho rằng mạng Mộc mà gặp Hỏa, thì bị hỏa đốt cháy, nhưng mạng là Mộc, cung Mạng lại ở Dần tức là tại Mộc thì không e ngại gì, tài năng nhờ chỗ Mã được nuôi dưỡng (do Mộc) mà càng vượng lên.

Vậy Mã tại Dần:
-Rất tốt cho người mạng Mộc
-Lợi cho người mạng Hỏa
-Không lợi gì cho người mạng Kim, Thổ và Thủy.

Thiên Mã tại cung Tị
Thiên Mã đứng đây cũng tốt vì là Hỏa ở cung Hỏa. Mã ở đây là con ngựa chiến. Mã là Hỏa, cung là Hỏa, thì người Mộc gặp Mã và cung Mạng tại đây, tuyệt nhiên là không tốt (hai cái Hỏa đốt cháy thân xác). Người mạng Kim, không được tốt, vì hai cái hỏa đều khắc Kim. Người mạng Thủy, cũng không được hưởng gì, vì Thủy yếu, không thể ngự được cái Hỏa của Mã (nếu kể như trường hợp Mã gây họa hại), còn bình thường, Mã không gây họa hại vì người Thủy cũng không được hưởng.
Chỉ có người Hỏa được hưởng cái tốt của Mã tại Tị.

Thiên Mã tại cung Thân
Thiên Mã là Hỏa, ở tại cung Thân là Kim, ấy là Thiên Mã đã kém. Thiên Mã không bị khắc là Thiên Mã mạnh, và tốt nhưng Thiên Mã lại khắc Kim.

Nếu là người mạng Mộc, thì mạng này vừa bị Hỏa đốt, vừa bị cung khắc, không được lợi lạc gì. Người mạng Thủy đỡ được chút đỉnh, nhờ cung Kim sinh Thủy, và cái mạng Thủy của mình còn khá mạnh để chế ngự lại Mã. Người mạng Kim là ăn nhất về con Mã tại cung Kim, nhưng vì Mã Hỏa khắc Kim mạng, cho nên mình tuy được hưởng Mã mà có tài năng, nghị lực, nhưng mình lại bị khắc, thì sức khỏe của mình cũng phải bị hao tổn.
Vậy Mã tại Thân:
-Tốt cho người Kim
-Khá cho người Thủy
-Không lợi gì cho người Mộc và Hỏa

Thiên Mã tại cung Hợi
Thiên Mã là Hỏa, ở cung Hợi Thủy, thì Hỏa phải bế khắc (ấy là Mã cùng đồ, Mã đến biển là hết đường chạy).

Người Hỏa mà gặp Mã ở cung hợi thì chẳng được lợi lạc chi. Người Kim gặp Mã ở cung Hợi cũng vậy, có khi còn mệt hơn, là vì mạng mình bị sinh xuất, còn bị hỏa của Mã khắc. Nhưng người Thủy lại khác: xét ra người Thủy lại có mạng ở Thủy, thì cái Thủy này rất mạnh, có thể chế ngự được những cái họa hại của Mã mà thắng được Mã, tức là có tài ba để thắng. Người Mộc nhờ có cung Thủy sinh Mộc, mà được lợi phần nào.
Vậy Mã tại Hợi:
-Tốt cho người Thủy
-Khá cho người Mộc
-Không lợi gì cho người Hỏa và Kim

Còn người mạng Thổ
Vậy tóm lại, Mã ở cung có hành nào, thì người nào mạng có hành đó là được hưởng.
Mã tại cung Mộc (Dần) người mạng Mộc hưởng
Mã tại cung Hỏa (Tị) người mạng Hỏa hưởng
Mã tại cung Kim (thân) người mạng Kim hưởng
Mã tại cung Thủy (Hợi) người mạng Thủy hưởng
Thế còn người mạng Thổ? Xin thưa rằng người mạng Thổ cũng hưởng được Thiên Mã ở cung Thủy (tại Hợi)

Một thí dụ
Lá số Khổng Minh, Mã ở Hợi Thủy (cung Quan). Khổng Minh mạng Mộc, cho nên không được hưởng trọn con Mã này. Nhưng Thủy dưỡng cho Mộc, nên Khổng Minh cũng chỉ được hưởng Mã một phần.

Mã ngộ Triệt và Mã ngộ Tuần
Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng cả
Mã ngộ Tuần còn đỡ hơn.
Sau đây là kinh nghiệm đặc biệt về Mã ngộ Tuần. Sao Tuần ở những vị trí Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tị, Ngọ Mùi, Thân Dậu, Tuất Hợi, và có thể được coi là sao đánh dấu một giai đoạn để chuyển sang giai đoạn khác.

Do đấy, nếu sao Thiên mã ngộ Tuần, chúng ta đoán thêm như sau:
1-Thiên Mã tại Hợi (Thủy) gặp Tuần ngay tại đó người mạng Mộc cũng được hưởng (thông mình, lanh lợi, học hành, công danh, tài lộc) nhưng hưởng chậm, phải gặp nhiều khó khăn lúc đầu và phải có tranh đấu cố gắng nhiều.
2-Thiên Mã tại Dần (Mộc) gặp Tuần tại đó: người mạng Hỏa cũng được hưởng nhưng chậm và có những khó khăn lúc đầu, phải cố gắng nhiều mới đạt được.
3-Thiên Mã tại Tị (Hỏa) gặp Tuần tại đó: người mạng Kim cũng được hưởng, nhưng chậm, gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được
4-Thiên Mã tại Thân (Kim) gặp Tuần tại đó: Người mạng Thủy và Thổ cũng được hưởng, nhưng chậm gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được.
Thí dụ tuổi Kỷ tị, mạng Mộc, Thiên Mã tị Hợi, gặp Tuần tại Tuất Hợi, cung Mạng cũng tại Hợi: người này cũng được hưởng Thiên Mã, nhưng hưởng chậm, lúc đầu gặp khó, phải cố gắng nhiều sau mới đạt thành.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Số mệnh là số mệnh hay “Đức năng thắng số”?

Số mệnh con người do đâu? Nghiệp và Nhân quả. Cải số mệnh được không? Muốn cải số mệnh phải làm sao? Vài trường hợp cải được và không cải được.

Huyền Linh

Người xưa bảo: “Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền điện” (Ăn uống, cử động đều đã định trước), “Mưu sự tại nhơn, thành sự tại Thiên” (Mưu tính nơi người mà thành bại do Trời).
Người xưa lại bảo “Đức năng thắng số” (Phúc đức có thể thắng số mệnh) “Nhân lực thắng Thiên” (Khả năng con người có thể cải số Trời)…
Hai lập luận trên đây tương đối mâu thuẫn, mà từ lâu chúng ta còn phân vân, không rõ luận thuyết nào đúng hơn, vì mỗi luận thuyết đều có những sự tích chứng minh.
Như bảo số mệnh do Trời thì có những người số chết đói, chết đuối dù có né tránh, rốt cuộc vẫn chết đói, chết đuối.
Còn bảo Đức năng thắng số thì cũng có những trường hợp đáng lẽ phải chết đói, chết yểu, mà nhờ biết tu tỉnh, làm nhiều âm đức, được thoát chết, sống lâu, lại khá giả chẳng hạn.
Vậy luận thuyết nào đúng hơn? Chúng tôi xin có đôi lời góp ý cùng quý bạn.

Số mệnh con người, do đâu?
Con người được hình thành bởi hai phần chính: thể xác do cha mẹ sinh ra và linh hồn tiếp nhận nơi Tạo hóa, và linh hồn là Tiểu Linh-Quang trong khối Đại Linh Quang của Tạo hóa. Vậy con người là một Tiểu Thiên địa, hay một Tiểu Vũ trụ.

Nhưng phải chăng Tạo hóa bất công, khiến con người có kẻ giàu sang, sung sướng, người lại nghèo hèn, khốn khổ, dù cùng sinh ra trên một dãy đất, trong một gia đình, hoặc cùng một năm, tháng, ngày, giờ với nhau?
-Chắc hẳn không phải thế.
Các tôn giáo và hầu hết loài người đều tin rằng có Thượng Đế, Chúa tể Càn Khôn, cầm quyền thưởng phạt muôn loài.

Nhưng tôi trộm nghĩ, tuy Thượng Đế là đấng Chí tôn, quyền năng vô tận, nhưng cạnh Ngài còn có một cái “Luật” mà Lão Tử tạm dùng chữ “ĐẠO” để gọi, đó là luật Trời, hay Thiên lý, mà Thượng Đế tùng theo, để điều hành vũ trụ (cũng như một Quốc gia, tuy vị Nguyên thủ là trên cao nhưng vẫn phải tuân hành Hiến pháp).
Do đó, sở dĩ có kẻ sướng người khổ là do số mệnh an bài, nhưng số mệnh chẳng phải do “ông Trời” hay các vị Thánh Thần sắp đặt, cho người này giàu, bắt người kia nghèo mà là do “NGHIỆP” (Karma) của chính con người, tức luật Nhân quả.

Nghiệp và luật Nhân Quả
Không ai có thể biết được con người có từ bao giờ, trải qua bao nhiêu kiếp, nhưng theo thuyết luân hồi thì hẳn đã quá nhiều!
Mỗi kiếp, con người đã làm bao nhiêu điều lành lẫn điều dữ, phước có, tội có năm này tháng nọ chất chồng, có khi chưa chịu thưởng phạt đúng mức đã mãn số, lại luân hồi kiếp mới để “trả đũa” cũ và lại tạo thêm “Nhân” mới.

Bởi thế mà trong lá số Tử Vi của một người, có những sao tốt, sao xấu lẫn lộn, cung này cung nọ liên quan chằng chịt nhau, biểu hiện cái “Nghiệp” của người ấy, trông cây gì được quả nấy, như bóng với hình, mà trong đó Vận hạn là con đường bắt buộc cá nhân phải trải qua để trả Nghiệp cũ (thưởng lẫn phạt), đồng thời tạo Nghiệp mới.

Nghiệp có lành có dữ thì Vận số có tốt có xấu. Vận tốt thì được thụ hưởng giàu sang sung sướng, vận xấu thì chịu nghèo hèn, hoạn nạn nhưng cán cân nghiệp lành, nghiệp dữ không đều, thì vận số cũng không đều nhau, do đó Họa và Phúc lẫn lộn hoặc nhiều hoặc ít, chẳng hạn tuy giàu sang mà đau ốm, vợ chồng căn đắng, con cái hư hỏng, hay ngược lại tuy nghèo hèn mà ít nạn tai, vợ chồng hòa thuận, con cháu hiếu thảo….

Cải số mệnh được không?
Như đa trình bày ở trên, thì số mệnh đã an bài do nghiệp của nhiều tiền kiếp, hễ vay ắt phải trả, cho nên số mệnh con người như đã được lồng vào một cái khung và vận hạn ví như một con đường duy nhất, bắt buộc con người phải đi qua, một lộ trình vạch sẵn.

Bởi vậy trên nguyên tắc, số mệnh là số mệnh, khó mà cải đổi được cái căn bản, tức cái khung của số mệnh, hay là những “nghiệp lớn”.
Nghĩa là nghiệp cũ phải trả, dù thụ hưởng hay bị hình phạt. Do đó chúng ta thấy có những người hung ác mà vẫn giàu sang, phè phỡn, còn người hiền lương, tu niệm, làm phúc lại cứ gặp hoạn nạn, là vì nghiệp cũ chưa “thanh toán” xong, mà “Nhân” mới chưa kịp có “hiệu lực”.

Tuy nhiên, con người có thể cải được một phần số mệnh vận hạn của mình, nhưng rất ít, hơn nữa, chẳng phải ai cũng có khả năng hoán cải, dù có cải cũng chỉ cải được vận số nhỏ, tức các nghiệp nhỏ thôi. Cũng ví như “cái khung” vẫn y nguyên, mà “cái cảnh” có thể thêm hoặc bớt. Đó là tạo “nhân” (tốt xấu) mới để bù đắp “quả” (xấu tốt) cũ.

Tôi xin đơn cử vài ví dụ, nếu dễ cải được số thì thuở xưa Văn Vương đã chẳng bị giam cầm 7 năm nơi Dũ Lý, Khương Tử Nha chẳng đợi đến 70 tuổi mới đặng công hầu. Tôn Tẫn khỏi bị chặt chưn và bảo vệ nước Yên khỏi bị Tần thôn tính. Khổng Minh thống nhất được giang sơn thời Hớn mạt. Hạng Võ và Hàn Tín đều anh hùng. Hạn xấu đến, đều chết thảm; lại như Lương Võ Đế cất 72 ngôi chùa mong cải số, rốt cuộc vẫn chết đói ở Đái Thành.
Ngay thế kỷ hiện tại, những nhân vật muốn xoay thời tạo thế, đem tài trí đấu tranh, mà không thuận với cơ trời rồi ra vẫn thất bại.

Chính tôi, sau gần 20 năm xem tướng số đã được chứng kiến nhiều trường hợp, có những người, sau khi đoán là vận hạn xấu, tôi khuyên nên an phận, chớ mưu sự to, liều lĩnh mà thất bại hoặc gặp nạn. Mặc dù tin số mạng song họ tự tin, cố đem tài sức, mưu trí (xin lưu ý là tài sức chứ không phải Đức) chống lại số mệnh, mà càng hoạt động to lớn, càng sa lầy hơn.

Lại có những trường hợp, khách xem về các sự việc bình thường hằng ngày, để biết thành bại, đắc thất, sau khi gieo quẻ Dịch, quẻ ứng xấu, tôi bảo thẳng với khách là không hy vọng gì… khách buồn bã ra về, dùng mọi phương tiện, mưu mẹo, kể cả tiền bạc, cố xoay sở, nhưng rồi vẫn không kết quả, (vì hoàn cảnh không thuận lợi, được cái này hỏng cái kia, như định mệnh khiến xui như vậy) rốt lại số vẫn là số!

Cải số bằng cách nào?
Theo thiển ý riêng tôi thì có thể tạm chia thành 2 phương thức: “tiêu cực” và “tích cực”
-Về “tiêu cực” thì tương đối đơn giản hơn, có nghĩa ăn ở và hành động thuận theo số mệnh và Thiên Lý. Không gieo gió thì khỏi gặt bão. Khi gặp vận tốt thì nương đó tiến lên để thành đạt. Lúc gặp vận xấu thì chớ liều lĩnh, làm bạo, thấy hao tài thì chớ cho vay mượn, thấy đau ốm thì gìn giữ sức khỏe, thấy nạn tai thì tránh xe cộ, sông nước, thấy thị phi quan sự thì nên nhẫn nhịn, tránh phạm pháp…Tuy đến Năm, Tháng, Ngày, Giờ đó, vẫn bị hạn, song có thể nhẹ bớt ít nhiều.

Như có một tuổi Tân Mùi, thường nhờ tôi đoán số, đầu tháng 4 năm rồi, tôi có xem cho ông và đoán rằng khoảng giữa tháng ông có tai nạn nhẹ, độ hơn tuần lễ sau, ông đến nhà tôi với mấy vết băng ở mặt và tay chân. Hỏi ra mới biết ông vừa ngộ nạn vì xem Lam lật, bị xây xát cả người.

Ông nhờ tôi xem tiếp coi còn xui rủi nữa không? Tôi gieo quẻ Dịch, lần này quẻ ứng bổn mạng cũng xấu, e còn tai nạn nữa. Ông nhờ tôi đoán kỹ xem ứng vào ngày x tháng x…sau đó ít lâu ông lại đến, khen tôi đoán rất đúng và thuật rằng: “Chính cái ngày ấy, ông cố ở nhà suốt ngày, không ra khỏi cửa, 8 giờ tối ông giăng mùng đọc báo, kể như yên ổn. Nhưng đến 10 giờ đêm, trước khi ngủ, ông xuống nhà sau đi tiểu, bất ngờ trợt chân ngã té nằm sóng sượt bất tỉnh dưới đất, may người nhà hay kip đỡ lên xoa bóp, mấy phút sau mới tỉnh.

Ông kết luận “tưởng ở nhà yên thân, té ra cũng bị! Nhưng may là ở trong nhà chỉ bị xoàng, chứ nếu ngoài đường sá, chắc nặng hơn, chưa biết tới đâu”. Còn nhiều trường hợp tương tự, kể ra e chán ngấy.

-Về phương diện “tích cực” phức tạp hơn, nhưng tựu trung là cố gắng làm nhiều việc “Âm đức” để hóa giải các nghiệp nặng. Nhưng phải thật thành tâm, đầy thiện ý, hành động một cách tự nhiên theo lương tâm không tính không vụ lợi, không cầu danh, thì việc làm tuy nhỏ mà có khi Âm đức lại to.

Chớ không phải ỷ có nhiều tiền, vung tiền của phi nghĩa ra, gọi là bố thí, làm phước, để được khen ngợi, ca tụng, hoặc giả làm lấy có, lấy lệ, cúng chùa, lễ Phật, giải sao hạn…tuy là những việc làm có tánh cách từ thiện, cũng hay, cũng là những “Nhân” lành, song chưa thể gọi là “Âm đức” được. Vì Tạo hóa chí công vô tư, hẳn không vì nhiều tiền mà cho nhiều phúc, còn ít tiền lại cho ít phúc hay sao?

Tôi xin đơn cử vài việc làm có tánh cách Âm đức. Như thấy vợ chồng người ta xích mích, định lìa bỏ nhau, mình cố công khuyên bảo, trợ giúp cho họ hòa hiệp, sống chung lại; Thấy người chết đuối, mình chẳng ngại nguy hiểm, cứu vớt người ta sống lại; Thấy người nguy ngặt, động lòng trắc ẩn, mình tận tâm giúp đỡ, có bao nhiêu giúp bấy nhiêu, mà không nghĩ đến sự đền bồi, hay được người ca tụng…như thế mới gọi là “Âm đức”, có tác động mạnh đến “Nghiệp”, cảm động lòng trời, mới có ảnh hưởng ngay vào số mệnh và vận hạn (Như tích ông Lê Bùi Độ đời Đường trả đai ngọc cho người, chuộc mạng cha, chẳng hạn).

Một vài phương thức khác
-Nhờ Đức tin và lòng thành, tức những người tiền căn, hiện kiếp có sự liên quan, giao cảm với cõi Trung giới hay cõi Âm, nay vận hạn tuy xấu, gặp hoạn nạn, nhưng ăn ở hiền lương, ngay thật, lại có đức tín và lòng thành khắc được Thánh Thần và các vong linh quá vãng phù trợ, thấy dữ hóa lành.
-Mồ mả tổ tiên, phúc đức hay tội lỗi của ông bà cha mẹ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến vận số con người. Ví dụ: vận hạn đang xấu, có ông cha quá vãng mà an táng nơi đất kết phát thì có ảnh hưởng tốt. Hoặc biết con cái số phải long đong mà cha mẹ biết làm phúc chứa đức thì con cái được nhờ, sớm thì hiện tại, chậm thì tương lai.
-Ngoài ra, vấn đề chỗ ở, nhà cửa, bếp núc cũng có ảnh hưởng một phần vào vận số con người. Chẳng hạn như số mệnh đã tốt mà chỗ ở được vùng đất tốt, nhà cửa bếp núc day đúng phương hướng với mạng, thì sự tốt tăng thêm. Nếu vận hạn xấu mà dời chỗ ở cho hạp phong thổ, nhà, bếp day hướng tốt hạp với cung Mạng của mình thì cũng đỡ được khá nhiều.

Để tạm kết luận bài này, tôi xin thưa cùng quý bạn rằng: Chúng ta nằm trong “quỹ đạo” của Nghiệp, chi phối bởi số mệnh, cho nên số - mệnh vẫn là số mệnh. Chúng ta tìm hiểu số mệnh để ăn ở, hành động hợp với số mệnh hay Thiên lý, để lánh dữ tìm lành.
Chúng ta đừng tự phụ bảo rằng cải được số mệnh bằng tài sắc và mưu trí, đã vô ích mà còn nặng nghiệp hơn đấy!

Nếu chúng ta có một định số kém sáng sủa, chúng ta cũng chớ quá bi quan, phó mặc Hóa công, tới đau hay đó, rồi cái gì cũng Số, cái gì cũng Mệnh! Không làm gì cả, cũng vô ích. Mà chúng ta phải cố công bồi tu Âm đức để hóa giải Nghiệp cũ (tùy theo cán cân Đức và Số).
Ví dụ phúc đức tạo ra chưa đủ đền bù Nghiệp cũ quá nặng, chúng ta có thể hãnh diện rằng đã giep được “Nhân” lành, mà khi Nghiệp cũ trả xong chắc chăn “Quả” lành sẽ đến.

Cũng xin lưu ý quý bạn là chính ta mới có thể tự cải số chung ta mà thôi. Ngoài ta ra không ai cải số giùm ta được, kể cả các đấng vô hình.
Vậy quý bạn hãy suy ngẫm kỹ về cúng kiến, lễ bái, cầu đồng cốt hay dùng bùa phép. Có dịp, tôi xin trở lại với những đề tài mới
KHHB số 74C2
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Thái Cực Tử vi Bí pháp
Khảo luận về Thân và Mệnh
Phần thứ tư
Phép luận đoán Thân và Mệnh
(Tiếp theo)

Trong các phần trước, bạn đọc dễ tìm thấy các nguyên lý và qui tắc về cách định cách cung Thân và Mệnh. Trước khi sang phần luận đoán, xin hãy túm lược các điều nói trên để làm tiêu chí cho mọi phép đoán sau này.

Tóm lược:
1. Do sự phát triển tuần tự của bào thai theo nguyệt kỳ và nhật ký mà Giờ Sanh là một yếu tố quan trọng để xác định vận số.
2. Cung Thân là phương vị qui chiếu trong vũ trụ hữu hình, giúp ta định rõ Ảnh hưởng của vũ trụ hình vào số mệnh con người.
3. Cung Mệnh là vị trí qui chiếu trong thế giới siêu hình giúp ta định rõ phương cách ảnh hưởng của vũ trụ siêu hình và số mệnh.
Nhờ các lý thuyết được trình bày ở trên đây, chúng ta sẽ phân định ảnh hưởng của các chính tinh vào các phi tinh đối với Thân và Mệnh trong khi luận đoán số Tử Vi.Để bạn đọc có thể theo dõi đầy đủ mọi khía cạnh cuả phép đoán Thân và Mệnh, chúng tôi tuần tự trình bày thành ba mục, vừa là ba phép đoán theo ba quan niệm khác nhau, vừa là ba giai đoạn tiệm tiến từ chi tiết đến tổng quát.

A. Luận đoán riếng biệt các phần Thân và Mệnh
Dựa theo phần số 2 tóm lược lý thuyết, cung Thân là phương vị mà tại đó sẽ qui chiếu các ảnh hưởng cảm ứng của Vũ trụ vô hình. Thế cho nên ta dùng cung Thân để luận định về vóc dáng, sức khỏe, bệnh khí và tánh tình con người.
Theo kinh nghiệm và cũng theo yếu quyết tính vận căn bản của của môn phái Vô cực. Thêm chịu ảnh hưởng cảm ứng của hệ thống Thái Tuế là hậu thiên khí vận tuần hoàn và của hệ thống chính tinh: Tử vi, Liêm Trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ (các trường hợp ngoại lệ sẽ được nói đến trong các bài khảo luận về tinh vận)

Tử vi ảnh hưởng trực tiếp vào Thân thì người ta sẽ có sắc da xám đen hay tía.Nếu lại nhị hợp với Thiên cơ thì mặt xanh, uống rượu không say và tính tình thâm trầm sâu sắc.

Liêm Trinh thủ Thân thì tính khắc khỏ và chịu đựng, lại dễ thành ngoan cố và cương nghị nhưng dễ bị câu thúc thân thể hoặc tù đày.
Thiên Đồng đóng ở cung Thân thì được khỏe mạnh, sắc mặt trẻ trung, nếu lại nhị hợp với Vũ Khúc thì sanh ra đã có nốt ruồi kín, thích mạo hiểm, chân tay khéo léo.
Vũ Khúc thủ thân thì có nhiều nốt ruồi, dễ mắc bệnh nan y (ung thư) tính tình vui vẻ, ham đỏ đen, thích nghệ thuật.
Thái Dương đóng ở cung Thân thì rất mạnh khỏe nhưng dễ có bệnh do vượng khí gây ra như mờ mắt, nhức đầu suốt đời khó chũa. Tính tình nóng nảy, uống rượu dễ say.
Thiên Cơ tọa thủ cung Thân dễ bị bệnh phong, rất linh mẫn, sớm hiểu đời, ưa tính toán lợi hại.
Ngoài các chính tinh này, còn có bộ Thái Tuế là vòng hậu thiên khí vận ảnh hưởng vào Thân rất mạnh mẽ.

Khác với cung Thân, cung Mệnh là phương vị mà tại đó sẽ qui chiếu ảnh hưởng cảm ứng của vũ trụ siêu hình. Cho nên người ta căn cứ vào cung Mệnh để đoán về tâm hồn, tình cảm, tài nghệ, học nghiệp và sự thành tựu công danh.
Cung Mệnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các Bộ Chính Tinh: Tử Vi, Thiên Phủ, bộ Lộc Tồn và hầu hết các phi tinh khác.
Bạn đọc có thể tìm thấy dễ dàng trong bất kỳ tại liệu nào về Tử Vi những phép luận đoán riêng cho cung Mệnh. Soạn giả sẽ trở lại vấn đề này sau khi cho in xong các bài về thuyết lý học cục bộ và thuyết lý tính vận.

B. Luận đoán tương đối Thân và Mệnh
Một khi đã xét qua Thân và Mệnh riêng biệt thì người ta có thể xét sự liên hệ tương đối của Thân và Mệnh. Phần trình bày sau đây sẽ giúp bạn đọc theo dõi phép toán tương đối (Không quan trọng).

1. Người nào sinh nhằm giờ Tí và Ngọ hoặc Mão và Dậu ắt phải có Thân cư Mệnh, hoặc Thân cư Thiên Di. Đa số những người này đều lập sự nghiệp nhờ thời vận và mệnh vận.ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC THỜI VẬN
2. Những người nào sanh nhằm các giờ Thìn, Tuất và Sửu, Mùi ắt phải có Thân cư Phúc Đức và Thân cư Tài Bạch. Đa số được tạo tựu công danh nhờ phúc ấm mồ mả tổ tiên. ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC PHÚC VẬN
3. Những người nào sanh nhằm vào các giờ Dần, Thân và Tị, Hợi ắt phải có Thân cư Quan Lộc và Thân cư Thê Thiếp (hoặc Phu Quân). Đa số những người này được tạo tự sự nghiệp nhờ vào Tài Trí và học thuật hay nghề nghiệp. ĐÂY LÀ CÁCH ĐẮC NGHIỆP VẬN.
ĐẮC PHÚC VẬN thì được biền bỉ lâu dài, được xem là tốt hơn cả. ĐẮC THỜI VẬN thì được nhanh chóng nhưng chỉ thích ứng cho thời vận đột biến mà thôi. ĐẮC NGHIỆP VẬN thì phải bôn ba, thăng trầm, lao tâm khổ trí mới tạo được sự nghiệp.

C. Phép luận đoán chú trọng một phần

Các phần luận đoán trên, riêng biệt Thân và Mệnh, chỉ được xem là căn bản khởi đầu mà thôi. Vì lẽ rằng cách luận giải riêng biệt ấy sẽ không đưa tới một kết luận đơn thuần cho số mệnh của một người. Bởi thế, ta cần phải biết lựa chọn một phần Thân hoặc Mệnh mà thôi để đạt đến kết thúc của việc đoán số Tử Vi.
Muốn được như thế, cần phải lý giải vấn đề theo một quan điểm rõ rệt. Ở đây soạn giả đưa ra cách giải quyết vấn đề theo quan điểm của Giải lý Thái Cực Tuần Hoàn. Điều này đã được trình bày đại cương và tổng quát trong bài trước, số mệnh của một tập thể dự phần quyết định trong số mệnh của cá nhân. Chính vì lẽ này mà khoa đoán số Tử Vi cần phải được tham bác với khoa xem Tướng, xem Tượng (điềm-tượng), Địa lý và Dương cơ, Âm phần, thì sự giải đoán mới hợp lý và hiệu nghiệm tốt đẹp. Các khoa này được coi như là bổ túc cho khoa Tử Vi, Khí Vận, nhờ các phép chiêm đoán điềm triệu này ta mới có thể nhận định sự tốt xấu của vận mệnh chung của một tập thể. Giả thuyết rằng điều này đã được nghiệm biết xong, ta hãy xét đến phần phải chú trọng: Thân hay Mệnh.
Có tất cả bốn trường hợp mà ta phải xem xét đến để lần lượt trình bày sau đây.

Trường hợp 1: Thân và Mệnh sáng
Trong trường hợp này, lý đoán chung là tốt đẹp. Nhưng vẫn còn nhiều điểm phải cửu xét đến, vì lẽ theo đạo lý Vô Toàn (thiên đạo học) mặc dù Thân và Mệnh đều được tốt đẹp và sáng sủa, con người vẫn không thể được hoàn hảo về mọi bề. Vậy chúng ta phải căn cứ vào đâu để đoán quyết sự bất toàn. Để đáp ứng, sau đây là phép nghiệm đoán theo lý thuyết của Thái Cực Môn.
Trường hợp Thân và Mệnh đều sáng tốt, nếu sự nghiệm xét các điềm tượng cho thấy rằng cái tập thể của cá nhân này đang diễn tiến trên một ‘Thái Cực tiến trình’ thì chính sự phát khởi tốt đẹp của Mệnh vị mới bao gồm được các vẻ sáng chói của Thái Cực tiến trình vậy. Còn lại những nét bất toàn phần lớn sẽ ảnh hưởng vào Thân. Đây là trường hợp đã xảy ra cho các vị Nguyên thủ quốc gia, các tay kiệt xuất của nhân quần, tuy công danh được hiển phát tột bực và Thân Mệnh đều sáng tốt, thế mà tóc phải sớm bạc, lại thường mang các tâm bệnh hoặc các chứng nan y (như bệnh tim, ung thư v.v.v)
Có người thì đoản thọ, mà phải chết dự như bị tai nạn thảm khốc hoặc bị ám sát.
Đó chính là bất toàn đạo đã hãm vào Thân vậy. Kết luận cho trường hợp này: ‘Mệnh toàn, Thân bất toàn’.
Trường hợp ngược lại, Thân Mệnh đều sáng tốt nhưng lại gặp phải đại vận hạn của tập thể quán ám như trong hồi Thái cực toàn qui hay Thái Cực Thoái trào. Ở đây Mệnh tốt mà trở thành không tốt vì các nét sáng của cung Mệnh thật là không phương pháp hay đến tột đỉnh, ta thường gọi là ‘Sinh bất phùng thời’. Trong trường hợp này ta có thể luận rằng ‘Mệnh bất như Thân và cá nhân này tuy không được tột bậc hiển vinh, nhưng cũng được một đời phong lưu phúc thọ nhờ Thân vậy’

Trường hợp 2: Mệnh sáng mà Thân xấu
Cũng theo thuyết lý của Thái Cực tuần hoàn, người ta chiêm nghiệm vận mệnh của tập thể trước khi luận đoán số hạn cho cá nhân.
Nếu tập thể đang ở trong Thái Cực tiến trình mà tính tượng của cá nhân cũng đang trong lúc doanh phong (khí tượng đang đầy) thì chắc chắn phải được hưởng mọi điều tốt đẹp của cung Mệnh. Chẳng những thế, theo đạo lý Vô Nhất, không phải chỉ một mình Mệnh vận tốt đẹp mà thôi, chính Thân cũng được hưởng cái doanh khí của Mệnh vậy.
Đối với trường hợp này, thể tất cung Mệnh là quan hệ nhất, hiển nhiên là ‘Thân dữ Mệnh đồng’ hay Thân phải theo Mệnh vậy.
Trái lại Mệnh sáng mà Thân xấu lại gặp hồi Thái cực thoái trào hay quốc gia dân tộc đến hồi mạt vận, dù ảnh hưởng của Mệnh có tạo nên một lúc hanh thông, thì cộng nghiệp cũng như tang hải phù vân, bể dâu mây nổi mà thôi.Chẳng những thế đạo lý Vô nhất còn được quyết đoán rằng: Thân xấu lại còn kéo theo Mệnh xấu. Bởi vậy, ta kết luận cho trường hợp này là ‘Thân át phù vân chi Mệnh’.

Trường hợp 3: Mệnh xấu mà Thân tốt
Nếu gặp được vận hạn của tập thể quốc gia dân tộc đến hồi tốt đẹp hay chuyển vận trên một tiến trình, thì ít ra Thân tốt cũng giúp cho cá nhân qua được những cơn Bĩ Cực để còn toàn tiết mà hưởng được hồi Thái Lai. Đây là nhờ Thân tốt mà mệnh cũng tốt theo, vì vậy ta chú trọng đến Thân hơn Mệnh. Phần lớn cách này, hậu vận chẳng bao giờ xấu.
Cũng trong trường hợp này, nếu tập thể đang đến hồi suy bại, thoái hóa,thì cho Thân có tốt đẹp đến đâu cũng không kéo được Mệnh vận. Như thế Mệnh được xem là qua trọng vậy.

Trường hợp 4: Mệnh xấu Thân cũng xấu
Khi gặp trường hợp này, đa số người luận đoán số Tử Vi thường cho rằng, Mệnh vận cố cùng, chỉ còn tìm lời an ủi cho số phận (của thân chủ).
Thật ra đạo trời không đóng cửa đối với một ai bao giờ, đạo Vô Cùng sẽ mở cửa khác vậy.
Khi gặp vận hạn của thập thể đang hồi sáng sủa tốt đẹp thì Mệnh vận của cá nhân dù có xấu đên đâu vẫn chẳng bao giờ đến chỗ cố cùng. Chúng ta hẳn đồng ý rằng ở tại các nước mà mệnh vận đang tốt đẹp, dân tộc phú cường thì chẳng có ai là đến mức cố cùng, hạng người thấp kém nhất trong xã hôi ấy hẳn là ‘chẳng được phú quí nhưng vẫn được một đời sống bình ổn và dễ thở. Lúc bấy giờ người ta chỉ còn lo ngại cho ‘Thân bất thương toàn’ mà thôi. Nói như vậy trong trường hợp này cung THÂN ĐÁNG ĐƯỢC CHÚ TRỌNG hơn cả.
Cũng thuộc vào trường hợp này, Thân Mệnh cố cùng nếu lại gặp hồi mạt vận của tập thể đang trên đà tán vong thì quả thật là Thân không còn phương giải cứu. Tuy nhiên đất trời dễ có đạo Vô Cùng mà cũng có dành sẵn một con đường, ít nhất là một con đường giải phóng cho mệnh vận.Trong trường hợp này, chúng ta PHẢI CHÚ TRỌNG ĐẾN CUNG MỆNH, những cách cứu giải của phi tinh hội chiếu cho cung này: đặc biệt nhất là phép CỨU GIẢI của THÁI CỰC ở trung đạo tứ môn.

Đến đây là kết thúc phần luận đoán về Thân Mệnh, mà trong khuôn khổ của bài này, soạn giả chú trọng đến thuyết ý và phương pháp nhiều hơn là chi tiết luận giải theo tinh vận.

Tổng kết: Đạo lý và khoa học số mệnh
Cùng bạn đọc thân mến, chắc quí vị cũng đã nhận thấy, qua các phần trình bày trên đây, rằng chúng tôi đã trình tự các phép luận về Thân mệnh mặc dù phải gò bó trong khuôn khổ hình thức, vẫn luôn luôn không rời xa đạo lý, nhất là Thiên đạo. Chúng tôi tự xét thấy có trách vụ phải bàn thêm về điều này.
Khoa đoán số mệnh phải được xây dựng trên căn bản lý thuyết mà chủ yếu là:
• Con người có số mệnh tiền định có nghĩa là phải tuân theo luật định của thiên nhiên.
Như thế tìm hiểu được các định luật của thiên nhiên (tạo hóa, đất trời, vạn vật) người ta có thể biết được số mệnh. Đây hẳn là tiền đồ của khoa học về số mệnh, nếu có thể gọi là khoa học.
Hơn nữa dù thế nào thì khoa học cũng không thể xa rời đạo lý nếu không muốn nói rằng số bắt nguồn từ đạo lý. Khoa học mà không có đạo lý chỉ là khoa học của ma quỷ mà thôi. ‘Science sans conscience, n’est que ruine l’âme’
Ngoài ra, trở lại lý thuyết tiền định, nếu ta quan niệm một cách cứng nhắc, thì số mệnh của con người là bất di bất dịch, không thay đổi được vậy chẳng hóa ra mọi cố gắng của con người hướng đến Chân lý đều là vô ích cả hay sao?
Câu trả lời là : không. Vì lẽ Thiên đạo vốn là vô thường và vô duy, vô nhất thì số mệnh của mọi vật cũng không phải là không thể đổi thay. Tuy nhiên, việc dời đổi số mệnh không phải dễ dàng. Cần phải biết đến học thuật của đaọ, dồng hóa được ĐẠO VỚI TÂM thì mới hiểu được là DI TÂM DỊCH MỆNH. Nói cách khác thiên đạo vẫn luôn luôn dành sẵn một CÁNH CỬA TỰ DO, và CÁI TÂM là có thể thoát ra ngoài lẽ thường. TÂM chính là chìa khóa để mở cánh cửa này.
Một khi con người biết DI TÂM KHỞI NGHIỆP thì tâm nghiệp TÙY DUYÊN MÀ TẠO PHÚC và cảm ứng vào số mệnh. Tâm đạo là cánh cửa tự do trong Thiên đạo vậy.
Để kết luận cho bài này, chúng tôi kính mời bạn đọc cùng thưởng thức hai câu tiêu đề của đạo gia học thuật:
‘Thân mệnh tổng giai hư
Duy Tâm chân tự tại’


HƯƠNG VÂN CƯ SĨ
1972
Khoa học huyền bí- số 13
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Tôi học Tử vi
Kinh nghiệm tử vi của cụ Thiên Lương
KINH NGHIỆM QUAN TRỌNG VỀ TUẦN, TRIỆT ĐỂ GIẢI ĐOÁN ĐẠI HẠN TỐT, XẤU

Người mà Mệnh, Thân có Tuần (hay Triệt) đến đại hạn gặp Triệt (hay Tuần) thì được mở ra, trở nên khấm khá
Nhiều trường hợp đáng kể trong chi tiết

Trần Việt Sơn

Trước đây, chúng tôi có ghi một kinh nghiệm về Tuần Triệt. Không phân biệt nam nữ, cứ người tuổi Dương thì chuyển theo chiều ngược, hễ thấy Tuần hay Triệt chận đầu cung nào thì cung đó bị giảm, bị chận nhiều; còn như Tuần hay Triệt ở cung nào, mà ở sau, tức là ở thế vuốt đuôi, thì chỉ giảm ít thôi. Ảnh hưởng của Tuần thì nhẹ nhưng lai rai lâu dài, còn ảnh hưởng của Triệt thì mạnh và chỉ trong một giai đoạn ngắn.

Chắc rằng ảnh hưởng của Tuần và Triệt không phải chỉ có thế. Chúng tôi đã đem vấn đề đến hỏi cụ Thiên Lương, và ụ đã chỉ về các kinh nghiệm của cụ về một trường hợp rất quan trọng: trường hợp Tuần (hay Triệt) đóng tại Mệnh (hay Thân) và đại hạn đi đến một cung có gặp Triệt (hay Tuần). Tức là Mệnh Thân có Tuần, đi đến một cung đại hạn có Triệt; hay là Mệnh hay Thân có Triệt đi đến một cung đại hạn có Tuần.

Nguyên tắc quan trọng để xác định đại hạn tốt xấu.
-Một đại hạn tốt hay xấu, là tùy theo Hành của cung đại hạn có sinh cho Hành của Mệnh hay không. Đó là kinh nghiệm thông thường , sách nào cũng có nói tới.
-Cụ Thiên Lương đã nêu lên kinh nghiệm khác mà chúng tôi đã trình bầy trong một số giai phẩm trước, đó là khi nào đại hạn đến một cung thuộc vào một trong 3 cung tam hợp tuổi của mình, thì đó là đại hạn tốt; vận mình khá trong đại hạn này.
1)Người tuổi Thân Tý Thìn, đại hạn đến cung Thân Tý Thìn là tốt
2)Người tuổi Tị Dậu Sửu, đại hạn đến cung Tị Dậu Sửu là tốt
3)Người tuổi Dần Ngọ Tuất, đại hạn đến cung Dần Ngọ Tuất là tốt
2)Người tuổi Hợi Mão Mùi, đại hạn đến cung Hợi Mão Mùi là tốt.
Chúng tôi gọi tắt là đại hạn đến cung tam hợp tuổi là tốt.

-Bây giờ lại đến kinh nghiệm khác của cụ Thiên Lương: là Mệnh (hay Thân) mà có Tuần thì đến đại hạn gặp Triệt, cuộc đời sẽ mở ra, đó là đại hạn tốt. Hoặc là Mệnh (hay Thân) mà có Triệt thì đến đại hạn có Tuần là được mở ra. Kinh nghiệm chỉ mới trong nguyên tắc đại cương như vậy, đem áp dụng vào một số người tháy đúng. Qua mấy lá số đó không phải là đại hạn tốt theo những cách giải đoán thông thường, thế nhưng cuộc đời thật của đương sự có thăng tiến trong giai đoạn ấy. Chúng tôi đã tìm hỏi cụ Thiên Lương, được cụ chỉ đúng đại hạn đó là tốt; hỏi lý do tại sao, cụ cho biết đó là Triệt gỡ Tuần, hay Tuần gỡ Triệt.

Lý do
Nhiều nhà Tử vi biết cái nguyên tắc Triệt phá Tuần, và Tuần phá Triệt, nhưng ít áp dụng vào việc giải đoán hạn.
Ta có thể hiểu lý do như sau: Mệnh có Tuần cản trở, nên cuộc đời lận đận; nhưng đến đại hạn có Triệt, thì Triệt đụng độ với Tuần, hai sao đụng độ với nhau, thành thử Tuần nhãng quân việc cản trở Mệnh, cuộc đời trở nên khá.
Có người giải thích: Tuần cản Mệnh, đến khi gặp đại hạn có Triệt, thì Triệt cản lại Tuần, cho nên cuộc đời được ra khỏi thế kẹt.

Vài lá số dẫn chứng
Lá số ông Giáp Tý, sanh mùng 5 tháng 7, giờ Tí, Kim mệnh, Kim cục. Lá số với mấy điểm chính liên quan đến việc dẫn giải Tuần Triệt như sau:
LINK LÁ SỐ
Khá, thành đạt. Theo kinh nghiệm về đại hạn tam hợp tuổi, thì tuổi Tý, đại hạn đến cung Thân Tý hay Thìn là ăn. Số này khá đặc biệt ở đại hạn cung Tý, ở cung Quan lộc có Tử vi, Thái tuế, đó là đại hạn 44-53. Sang đại hạn 54, sẽ giảm kém. Nhưng đương số Mệnh có Triệt, khi đại vận đến cung Phúc, tại Tuất, gặp Tuần lần đầu tiên, tức là đại vận 24-33, là cũng được tốt. Đó là đại hạn tốt đẹp, thi đậu, đi làm, thành đạt.

Kinh nghiệm để ghi thêm
Mệnh có Tuần, đến đại hạn đầu tiên gặp Triệt là ăn, đại hạn sau cũng có Triệt nhưng không ăn nữa. Vậy chỉ kể đại hạn đầu mà thôi. Mệnh có Triệt, cũng đến đại hạn đầu gặp Tuần là ăn.

Lá số cụ Nguyễn Công Trứ
Tuổi Mậu – Tuất, sanh ngày 1 tháng 11, giờ Thìn.LINK LÁ SỐ
Những đại hạn tại cung tam hợp tuổi tại Tuất và Dần, đều là đại hạn tốt.
Thân có Tuần, cho nên hôn ám cả nửa sau cuộc đời, không cho Thân được hài lòng. Nhưng Thân có Tuần, thì đến đại hạn đầu tiên gặp Triệt tất phải ăn. Đó là đại hạn 43, tại Tí. Đại hạn này tốt dù không phải là tam hợp tuổi, nhưng được Triệt chế ngự Tuần. Đó là đại hạn trong đó cụ Trứ được thăng chức nhiều lần, lên 7, 8 bậc.

Kinh nghiệm ghi thêm: Thân gặp Tuần hay Triệt
Thân bị Tuần hay Triệt, là Thân bị ám. Vậy cứ giả sử đến một đại hạn có Triệt để gỡ Tuần, hay Tuần để gỡ Triệt thì cuộc đời được mở ra hay chăng? Thưa không hẳn còn phải tùy thời gian. Vì là Thân bị ám cho nên cuộc đời sẽ chỉ mở ra khi đại hạn ấy là sau 30 tuổi (ứng vào Thân). Chứ nếu đại hạn ấy, dù có Tuần hay Triệt để mở ra, nhưng lại là đại hạn trước 30 tuổi, thì cũng không có ảnh hưởng gì (vì chưa đến giai đoạn của Thân).

Nếu đại hạn vừa được Tuần Triệt gỡ ra, vừa là tam hợp tuổi
Mệnh có Tuần, đến đại hạn Triệt là gỡ ra. Hay Mệnh có Triệt, đến đại hạn Tuần là gỡ ra. Nếu đại hạn này lại đúng là đại hạn trong thế tam hợp tuổi, thì ảnh hưởng tốt lại tăng thêm gấp đôi (vì có hai cái tốt cộng lại).

Một lá số dẫn giải: tuổi Canh ngọ, ngày 16 tháng 7, giờ Sửu.LINK LÁ SỐ Mệnh tại Mùi, có Triệt. Đến đại hạn 33 tại Tuất, có đồng thời hai yếu tố tốt: thứ nhất, đó là cung tam hợp tuổi; thứ hai, đó là cung gặp Tuần để gỡ ảnh hưởng của Triệt. Trong đại hạn này, nhân vật bốc lên thật mạnh, lên cao chót vót, nhất hô bách nạp. Nhưng hết đại hạn đó là hết ăn luôn. Lại phải chờ đến đại hạn 73, tại Dần, là đại hạn tam hợp tuổi, mới lại khá.

Mệnh bị cả Tuần và Triệt
Mệnh bị cả Tuần và Triệt, thì không còn đại hạn nào gặp một trong hai sao đó nữa, và không có gì để gỡ thế kẹt nữa, nhất là cả hai Tuần và Triệt cùng áp đảo Mệnh.

Nhưng đại hạn đến cung tam hợp tuổi, thì có khá không? Thưa rằng cũng khá hơn, nhưng cái khá phải giảm đi 50%, là vì cả Tuần và Triệt đè nén Mệnh. Sau đây là lá số Quý Hợi:
Mệnh có Phủ, Vũ, Lộc tồn, Thiên không. Lộc trái khoáy nên không bền. 3 lần phá sản. Đến đại hạn tam hợp tuổi (cung Hợi, Mão, Mùi) làm ăn phấn chấn hơn, nhưng cũng phải chăng, bị giảm chế, hoặc phát nhiều lại tán hết. Tuần Triệt cùng ở tại Thân, cũng có ảnh hưởng như Tuần Triệt cùng tại Mệnh

Tùy theo tuổi Âm Dương đóng cung nào
Biết rằng có trường hợp đến đại hạn bộc phát, nhưng sẽ khá vào khoảng nào trong đại hạn? Có những trường hợp như sau:
-Người tuổi Âm, mệnh đóng cung Dương, hoặc người tuổi Dương, Mệnh đóng cung Âm: Mệnh có Triệt hay Tuần, gặp cung đầu tiên có Tuần hay Triệt, thì đại hạn đó ăn, nhưng ăn về 5 năm chót của đại hạn (xin so sánh với kinh nghiệm chính tinh là Bắc đẩu tinh hay Nam đẩu tinh).
-Người tuổi Âm, Mệnh đóng cung Âm; hay người tuổi Dương, Mệnh đóng cung Dương: Mệnh (hay Thân) có Tuần (hay Triệt), đến khi gặp đại hạn đầu tiên có Triệt (hay Tuần), thì đó là đại hạn tốt, và tốt ngay khi mở vào đại hạn, tức là tốt trong khoảng 5 năm đầu của đại hạn.

Lá số Ất Sửu vào đại hạn ăn ngay
Lá số tuổi Ất Sửu, ngày 28 tháng 6, giờ Thân, LINK LÁ SỐđại cương như sau:
Vị này gặp những cách khó làm chức lớn, cứ lên đến Chánh sự vụ là lại xuống. Xin lưu ý đại hạn tấn phát thuộc tam hợp tuổi tại Dậu (25-34). Mệnh gặp Tuần, đến đại hạn 45 ở Mùi, gặp Triệt là đại hạn bộc phát (dù không được tam hợp tuổi, mà được Triệt cởi gỡ những cái đè nặng của Tuần là được tốt) và vừa bước vào đại hạn là bộc phát ngay, vị này được cử ngay làm Tổng thư ký Bộ.

Một vài lá số khác
Tuổi Tân Dậu, 27 tháng 9 giờ Tị.Link cần chèn
Vị này dù thành đạt, luôn luôn ở chức phụ tá (là vì Triệt đóng tại mạng) lên nữa không được. Cứ thế mà kéo dài cuộc đời, cho đến đại hạn 42 ở Tài bạch tại Sửu. Tại đây cái tốt tăng lên gấp đôi, là vì cung Sửu vừa là cung tam hợp tuổi, vừa gặp Tuần cởi gỡ khỏi Triệt, thế là bốc mạnh một bước nhảy vọt lên làm Tổng giám đốc…nhưng vừa hết đại hạn này, sang đại hạn 52 xuống ngay.

Kính mời quý vị xét nghiệm lại kinh nghiệm trên qua các lá số của quý vị, có trong tay
KHHB số 74C2
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Kinh nghiệm tử vi:
Những ưu khuyết điểm và những điều phức tạp về Mệnh “Vô chính diệu”
Phong Nguyên
Trong nhiều sách Tử Vi, cũng như trên tờ giai phẩm KHHB này đã có nhiều lần bàn về “ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU”; nhưng vì đề tài này rất bao la nên tôi tưởng không phải là vô ích khi đưa ra những chi tiết và kinh nghiệm dưới đây để qúy bạn tìm hiểu dễ dàng và chính xác hơn về Mệnh Vô Chính Diệu.
Thực vậy, từ trước đến nay, mỗi khi gặp trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu, chúng ta thường thường chỉ biết căn cứ vào những câu phú quen thuộc như:
–Mệnh Vô Chính Diệu phi yểu tắc bàn.
– Mệnh Vô Chính Diệu đắc tam không nhi phú qúy khả kỳ.
– Tam không độc thủ phú qúy nan toàn.
– Xét xem phú qúy mấy người, Mệnh Vô Chính Diệu trong ngoài tam không …
Chứ làm gì có một hệ thống hoặc tài liệu chi tiết nào về trường hợp trên, đành rằng có những nhà tử-vi rất thông suốt về Mệnh Vô Chính Diệu nhưng rất tiếc các vị đó lại không chịu đem ra cống hiến. Vì vậy tôi mạo muội gom góp những chi tiết đã thâu lượm được và tạm chia làm hai phần:
– Những ưu khuyết điểm về Mệnh Vô Chính Diệu.
– Những điều phức tạp về Mệnh Vô Chính Diệu.
1-NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU
A) Những khuyết điểm
Hầu hết các nhà tử-vi đều không khen những lá số có cách Vô Chính Diệu tại Mệnh vì cho rằng những cách này có nhiều khuyết điểm hơn là ưu điểm. Những khuyết điểm chính như sau:

1) Căn bản không vững
Căn bản ở đây không có nghĩa là khả năng hoặc tài năng mà chỉ có nghĩa là môi trường của mình. Mệnh Vô Chính Diệu (tức là không có chính tinh thủ mạng) bao giờ cũng phải tuỳ thuộc vào chính tinh ở cung xung chiếu, và khi đã phải tuỳ thuộc tức là không có căn bản vững, hoặc nói nôm na là không có gốc. Nếu không được cung xung chiếu có sao tốt lại phải hướng sang hai cung hợp chiếu (Tài và Quan) mà ảnh hưởng sẽ yếu hơn nhiều và do đó môi trường của Mệnh lại càng bấp bênh hơn nữa. Vì vậy, dù cho người Mệnh Vô Chính Diệu có tài năng, thông minh (do các yếu tố tử-vi khác cho hưởng) rất dễ bị thăng trầm về sự nghiệp khi gặp Đại tiểu hạn giao động mạnh, không khác gì căn nhà không có cửa bị cơn gió lốc thổi thốc vào làm tan tác cả căn nhà, trừ trường hợp có Tuần Triệt án ngữ thì đỡ hơn nhiều.

2- Khó đóng vai trò chính
Như trên đã nói, Mệnh Vô Chính Diệu không khác gì căn nhà không có cửa dễ bị ảnh hưởng của thời tiết cũng như ngoại cảnh. Do đó người Mệnh Vô Chính Diệu (dù Đắc Tam Không) không thể và không nên giữ vai trò chính trong bất cứ lĩnh vực, cảnh ngộ nào, từ xã hội, gia đình cho đến hôn nhân. Chính cụ Hoàng Hạc cũng đã nêu trên KHHB trước kia là gặp trường hợp này nên cam phận làm “phó” thì yên thân, nếu làm chính dễ bị mất chức. Riêng tôi, tôi còn nói thêm rằng ngay trong gia đình cũng vậy, người Mệnh Vô Chính Diệu cần phải là con thứ hoặc nếu chẳng may là con trưởng thì cần phải là con bà vợ sau của cha mình (tức là bà vợ chính không có con trai). Như thế mới có thể sống lâu hoặc mới có công danh khá được. Thậm chí đến vấn đề hôn nhân, người Mệnh Vô Chính Diệu nên chịu làm “kẻ đến sau” thì cuộc sống dễ thịnh vượng hơn, còn trường hợp vợ mình là chính chuyên thì đương nhiên bị thiệt thòi về sự nghiệp. Đó là một điểm “hận” lớn lao cho người Mệnh Vô Chính Diệu. Kể ra cũng chẳng có gì khó hiểu, vì khi căn nhà trống (vô chính diệu) thì ta cần có một cái vật gì đó che bớt cho khuất gió, tuy hơi trở ngại nhưng đỡ bị tan tác khi có gió mưa lớn. Về người cũng vậy, nếu có người khác “đứng mũi chịu sào” thì khi gặp trách nhiệm lớn lao mình làm phó đâu có chịu lỗi nhiều hoặc gánh vác nhiều, dù cho mình có nhiều khả năng chăng nữa. Còn về hôn nhân tuy không đặt vấn đề trách nhiệm nhưng phải có cái gì đó “án ngữ“ gián tiếp, ví như Tuần, Triệt vậy.

3) Khó phát sớm
Trừ một vài trường hợp đặc biệt, tôi nghiệm thấy các người mệnh vô chính diệu đều không phát khi còn trẻ, không khác gì một cái cây non khi mới nẩy mầm nơi đất xấu, phải trông cậy vào phân bón hoặc mưa nắng thuận hòa mới dần dần vươn cao, có hoa có lá. Vì vậy, nếu qúy bạn có Mệnh Vô Chính Diệu cũng đừng bao giờ qúa thất vọng khi thấy sự nghiệp, công danh của mình phát chậm, miễn là những đại vận từ trung vận trở đi không quá tệ. Nếu qúy bạn nào phát sớm trong trường hợp này tưởng cũng không nên qúa mừng và tự tin vì không khác gì “hoa sớm nở tối tàn” về công danh cũng như về tuổi thọ. Để cho dễ hiểu, tôi xin đơn cử một thí dụ: một đứa bé sơ sinh nếu ra đời non hoặc qúa yếu đuối ngay từ lúc lọt lòng mẹ, nếu cứ cho uống đủ các thứ thuốc bổ để mau mập mạp, khoẻ mạnh không thể đúng cách bằng nuôi nấng một cách điều độ cho khoẻ mạnh lần lần. So với Tử vi cũng vậy, nếu Mệnh Vô Chính Diệu mà gặp ngay Đại Hạn kế tiếp thật tốt rồi những đại hạn sau xấu thì không thể nào hay bằng đại hạn kế kém nhưng những đại hạn sau tốt đẹp, để cho mệnh đủ thời gian hấp thụ các sao thuộc các cung xung chiếu và hợp chiếu, như thế mới đủ khả năng sử dụng các đại hạn tốt một cách vững bền.

4) Nghị lực kém:
Khuyết điểm sau chót của người Vô Chính Diệu tại Mệnh là khó lòng họ có can trường hoặc tinh thần dũng mãnh cương nghị, dù có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng vậy. Điều này cũng rất dể hiểu vì khi mình nhờ vả ai (tức là Mệnh nhờ các cung chiếu) thì mình phải chịu ảnh hưởng của người đó, nếu không muốn nói là lệ thuộc và khi đã ở cảnh ngộ như thế thì làm sao giữ vững được lập trường. Tuy nhiên, nếu Mệnh chịu ảnh hưởng của cung Tài Quan nhiều hơn thì việc lệ thuộc cũng nhẹ hơn nhiều, vì Tài Quan là các cung của cá nhân mình, thì chỉ ngại cung Thiên Di, nếu có các chính tinh dùng cho Mệnh được nhiều thì sự lệ thuộc vào ngoại giới sẽ mạnh mẽ hơn vì cung Thiên di tiêu biểu cho giới giao thiệp, bạn bè trong xã hội (Tôi sẽ bàn về cung Thiên Di trong một bài riêng biệt). Vậy quý bạn cần chú ý đến điểm này khi cân nhắc về nghị lực của người Mệnh Vô Chính Diệu.

B) Những ưu điểm
Chắc qúy bạn nào có Mệnh Vô Chính Diệu sau khi đọc những điểm trên đây đều thất vọng cho số phận của mình, nhưng thực ra con người Mệnh Vô Chình Diệu lại có những điểm độc đáo khác mà những người khác ít khi có.

1) Đa năng mẫn tiệp
Khi Mệnh đã “bỏ ngõ” tuy dể bị ảnh hưởng của các sao xấu bên ngoài nhưng cũng tiếp nhận dễ dàng những tinh hoa của các cách tốt chiếu về, nếu có. Do đó, người Mệnh Vô Chính Diệu (khi lớn tuổi) thành công dễ dàng nhưng tuần tự trong mọi lãnh vực do khả năng tìm hiểu, tò mò, kiên nhẫn của mình, mức độ thành công tùy theo các cách tốt trong tử vi. Vì thế, trong nhiều sách như cuốn Tử-Vi Đầu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang đều nói rằng người Mệnh Vô Chính Diệu khôn ngoan sắc sảo là thế. Nếu qúy bạn là Chủ nhân hay Giám đốc thì nên dùng người Mệnh Vô Chính Diệu vì họ rất chịu khó học hỏi, có lương tâm nhà nghề, có óc cầu tiến, nhưng đừng bao giờ dùng họ trong vai trò chủ chốt như đã nói trên để cho họ khỏi bị mất chức. Đến như Khổng Minh kia (cung Mệnh Vô Chính Diệu) tuy tài ba phi-thường như thế mà cũng đành phải chịu làm cố vấn, quân sư cho kẻ khác, chứ đâu có xưng vương đồ bá gì nổi …

2) Ít bị tai nạn
Tôi xin nói ngay là người Mệnh Vô Chính Diệu bớt được nhiều tai nạn chứ không phải là chẳng bao giờ bị tai nạn. Sở dĩ họ được điểm may như vậy là vì Mệnh Vô Chính Diệu khi gặp Đại tiểu hạn Sát Phá Liêm Tham và hung tinh đắc địa lại phát mạnh, trong khi Mệnh có chính tinh lại không hợp và có khi còn bị nguy hại. Như vậy là Mệnh VCD đã bớt đi một số yếu tố tai hại vì đã quen với hung tinh.
Vì theo nguyên tắc chỉ có hung tinh mới gây ra tai ương nhiều hơn các sao khác, vì các bại tinh chỉ gây thất bại hoặc bịnh hoạn chứ ít khi đem đến tai nạn như hung tinh. Như vậy kể ra cũng công bằng vì người Mệnh Vô Chính Diệu thường hay khổ về tinh thần thì ít ra cũng phải bớt được tai ương nhiều.

3) Dễ thích ứng với hoàn cảnh
Mệnh Vô Chính Diệu chẳng khác gì Mệnh trung lập, gặp đại vận nào cũng thích ứng được không bị cảnh “chéo cẳng ngỗng” như Mệnh có chính tinh, do đó đỡ bị gặp bước đường cùng (Đây tôi không nói về thọ yểu mà chỉ bàn đến công danh, sự nghiệp, vì lẽ tất nhiên gặp hạn xấu qúa thì phải chết). Thí dụ như hạn gặp Tuần, Triệt hoặc Thiên Không đối với Mệnh có chính tinh (nhất là sao Tử-Phủ) thì rất tai hại, bất lợi nhưng đối với Mệnh Vô Chính Diệu lại hay vì không khác gì nhà cửa đang trống trải bị gió thốc vào nay lại được lắp cửa ngõ đàng hoàng (tức là Tuần Triệt, Thiên Không) thì căn nhà yên ổn biết bao. Tôi đã được xem nhiều Lá số vô chính diệu, có người bị thăng trầm luôn luôn nhưng gặp hoàn cảnh nào cũng thích ứng được rồi dần dần ổn định

II- NHỮNG ĐIỂM PHỨC TẠP VỀ MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU
Tôi có thâu thập được khá nhiều điểm phức tạp về cách giải đoán Mệnh Vô Chính Diệu, nhưng chỉ xin nêu ra những điểm chính và quan trọng (tôi không nhắc lại những điểm đã bàn tới trên KHHB) để qúy bạn đỡ bị lúng túng khi quyết đoán:

1) Đắc Tam Không
Thường thường các nhà tử vi đều chê rằng Mệnh Vô chính diệu chỉ tốt khi đắc tam Không (tức là có Tuần, Triệt, Địa không hoặc Thiên không tôi không bàn chứ “Không” ứng cho những sao nào kể trên vì có vị không công nhận Tuần là “Không”, có vị lại bảo rằng Thiên Không mới không phải là “Không” nhưng chưa có ai chứng minh được hợp lý), và cụ Song An Đỗ Văn Lưu (tác giả cuốn Tử vi chỉ nam) có nêu ra thêm là mạng Hỏa và Kim mới hợp với cách này nhất. Điểm này chỉ đúng khi đương số là con một, mà tôi đã bàn trên KHHB rồi. Ngoài ra, quý bạn còn phải phân biệt như sau:
-Nếu mạng có nhiều trung tinh rực rỡ quần tụ mà có một Không án ngữ và hai Không chiếu về thì đừng nên ham cách “Đắc tam không” nữa vì các trung tinh bị mất hiệu lực. Trong trường hợp này chỉ nên có Tam không ở 3 phương chiếu về là hơn, nếu không thì chẳng cần đủ 3 Không mới khỏi tai hại cho Mệnh.
-Khi nào Mệnh không chính tinh mà chỉ có toàn bại tinh hoặc bàng tinh không quan trọng mới cần có một “Không” án ngữ, nhưng lại có điểm thiệt thòi là các cách hay ở bên ngoài khó bổ túc cho Mệnh vì bị “Không” ngăn trở, thành ra chưa hẳn là hoàn toàn có lợi. Về trường hợp này nhiều vị cho rằng nên có Thiên không hoặc Địa không hơn là Tuần, Triệt vì hai sao Thiên Địa Không không ngăn trở sự xâm nhập hoặc ảnh hưởng của các sao bên ngoài.

2) Không đắc Tam Không
-Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu không đắc Tam Không, tức là chỉ có Nhất, Nhị Không (ít khi không đắc Không nào) chưa hẳn là kém Tam Không và cũng không ngại “phi yểu tắc bần”, vì còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.Chỉ có điểm cần nhất là cung Phúc Đức không được xấu vì Mệnh yếu sẵn rồi phải nhờ vào cung “gốc” là cung Phúc Đức để tránh vấn đề kém thọ trước đã rồi mới tính đến công danh, sự nghiệp qua các cung hợp chiếu và đại hạn. Tôi đã được xem nhiều lá số Mệnh Vô Chính Diệu chỉ có đắc Nhất Không mà vẫn phú quý và chẳng hề chết non, nhưng những lá số này không có cái nào có cung Phúc Đức xấu.

3) Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu hư không chi địa
Cách này chắc nhiều bạn đã biết và nhiều nhà tử vi cho rằng rất hay, nhưng chúng ta cũng cần phân biệt một vài trường hợp như sau để khỏi sai lạc nhiều :
– Khi Mạng vô chính diệu có nhiều sao xấu (như: Địa Kiếp, Hỏa Linh, Phục Binh…) thực ra không nên có Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu vì như thế không khác gì “vạch áo cho người xem lưng” bao nhiêu sự xấu xa trong nhà mình đem phô ra hết, tuy vẫn thành công, phú qúy nhưng mọi người đều thấy rõ bộ mặt thực của mình, như vậy tưởng cũng chẳng lấy gì là hay. Trong trường hợp này thà đừng có Nhật Nguyệt hoặc nếu có thì hãm địa (tức là không sáng sủa) còn hay hơn để đỡ bị chê cười, nhục nhã.
– Nếu mạng vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt án ngữ mà có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu thì không còn được hưởng cách này nữa, hoặc nếu có được hưởng cũng chỉ là cái vỏ phú quý, đó là “giả cách” mà thôi.
– Nếu được đúng cách Nhật Nguyệt (tức là Mệnh không có Tuần, Triệt và cũng không có các sao xấu) thì nên có thêm Thiên Không hoặc Thiên Hư để khoảng chân không được thăm thẳm cho có nhiều chiều sâu cho mặt trời, mặt trăng chiếu, như thế công danh, phú qúy mới phi thường và óc thông minh mới siêu việt, nhưng vẫn phải đóng vai trò “phó” mới lâu bền được

4) Đại tiểu hạn
Đối với Mệnh Vô chính diệu, việc giải đoán Đại tiểu hạn khác hẳn đối với Mệnh có chính tinh thủ Mệnh. Vì Mệnh vô chính diệu có khả năng hấp thụ đủ mọi cách, từ cách Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng lương cho đến cách Sát Phá Liêm Tham cùng với hung tinh đắc địa, chẳng bao giờ không ”ăn khớp” với các cách này. Tuy nhiên, chỉ ngại đi đến Đại tiểu hạn cũng Vô chính diệu lại không có Không nào thì khác nào một cái nhà trống, không cửa ngõ lại ở trên một khu vực “đồng không mông quạnh”, làm sao chống lại được mưa gió hoặc bị ảnh hưởng của bên ngoài, như thế tức là làm ăn thất bại dễ dàng, sự nghiệp suy sụp mạnh mẽ.
Qua những điểm tôi trình bày trên đây, chắc hẳn qúy bạn đều nhận thấy rằng dù sao người có Mệnh Vô chính diệu vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất lợi, nhất là đối với ai ham công danh, quyền chức lớn, mặc dù họ có nhiều tài năng đôi khi xuất chúng, nhưng tài để phục vụ cho kẻ khác (nhiều khi kém mình) thì tưởng cũng là điều không hấp dẫn.Chỉ đối với ai có đầu óc triết lý, ưa sống về tinh thần, ưa nghiên cứu về lý số, biết an phận thời may ra mới hợp cách Mệnh Vô chính diệu, dù đắc Tam Không hay Không.
KHHB số 74C2
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Mệnh – Viên có chính tinh mà kể như không có chính tinh

Nhóm tác giả: Ân Quang
Tạp chí KHHB số: 14
Chúng tôi xin thanh minh rằng khi viết bài này chúng tôi không hề có ý bênh vực riêng cụ BaLa, mà chỉ nhằm nêu lên một quan điểm về Tử vi. Chúng tôi là Ân Quang ở Nha Trang, nghiên cứu Tử vi đã lâu nhưng không có dịp đi lại với cụ BaLa, chúng tôi chỉ được biết về cụ, vì ông ngoại chúng tôi xưa kia từng giao dịch với cụ, từ ngày cụ ở Hà Đông.

Khi nói rằng: “Mệnh có chính tinh mà kể như không có chính tinh”, có lẽ cụ BaLa đã căn cứ vào quan niệm nghiên cứu Tử vi trong thế hệ của Cụ, hoặc những thế hệ trước Cụ.

Chúng tôi xin dẫn chứng như sau:

1. Trong sách “Tử vi chỉ nam” trang 161, tác giả Song An Đỗ văn Lưu có viết:
“Cung Phu có Tham ngộ Đào mà mệnh có chính tinh thì làm vợ cả và chồng tử tế.”
Dĩ nhiên là tác giả phải căn cứ vào một kinh nghiệm, hoặc một tài liệu đã có trước đó để viết như vậy.

2. Trong cuốn “Tử vi đẩu số thực hành” của Lượng Quới Nhơn, mới xuất bản gần đây, có bài đoán Tử Vi của cụ Bảng nhãn Lê quí Đôn có câu:
“Phu Quân có Tham Lang vì
Chính tinh làm cả, bàng thì làm hai”.

3. Lại có câu: “Tham Lang ngộ Phu Quân, Mệnh chính tắc đích, bất chính tắc thiếp”.

Xét kỹ thì thấy rằng hễ cung Phu đã có sao Tham Lang, tất nhiên Mệnh phải ở chính tinh là sao Thiên Tướng. Cung Phu đi xuôi đến cung Huynh rồi đến cung Mệnh. Tham Lang ở cung Phu, đi xuôi đến Cự Môn ở cung Huynh, rồi đi xuôi nữa đến Thiên Tướng ở cung Mệnh. Hễ cung Phu đã có sao Tham Lang thì Mệnh phải có chính tinh Thiên Tướng đứng một mình, hoặc đứng chung với chính tinh khác thành Tử Tướng, Liêm Tướng, Vũ Tướng.

Sao lại nói rằng cung Phu có sao Tham Lang mà Mệnh vô chính diệu thì làm vợ lẽ?
Làm gì có trường hợp cung Phu có sao Tham Lang mà Mệnh vô chính diệu.

Vậy thì chỉ còn hai giả thuyết:


* Một là, chữ “Chính” và chữ “Bất chính” trong câu chữ Hán đã bị suy diễn lầm và dịch ra: “Cung Phu có sao Tham Lang, mà mệnh vô chính diệu thì làm vợ lẽ”. Nếu quả như vậy thì chữ “Chính cần hiểu là chính đinh, đối lại với bất chính.
* Hai là, không nhất thiết chỉ dựa vào có một câu chữ Hán kể trên, mà các học giả Tử vi thời xưa còn có một quan niệm về chính tinh bị lạc hãm, là bị rơi rớt, bị che lấp đi, trở thành vô uy lực, và do đó bị coi như là vô chính diệu.

Nhưng cung Phu có sao Tham Lang, đương nhiên mệnh có sao Thiên Tướng. Nếu sao Thiên Tướng này bị Triệt, thì thật là Tướng chẳng ra Tướng vậy. Nếu nói là có, thì cũng chỉ là vớt vát mà thôi. Nếu nói rằng không, thì cũng gần như là không có vậy.

Vì thế mà cụ Lê quí Đôn đã có câu:
“Phu Quân có Tham Lang vì
Chính tinh làm cả, bàng thì làm hai”
Cho dù câu này không hẳn là của cụ Lê quí Đôn, chúng ta cũng có thể tin là của một vị nào đó, thuộc thế hệ trước đây rất lâu.

Khi nghiên cứu một lá số Tử vi, chúng ta phải làm hai công việc: áp dụng một số công thức, và phải có tinh thần diễn dịch. Việc nghiên cứu Tử vi kéo theo cả một vũ trụ quan, một nhân sinh quan. Người nghiên cứu có quan niệm về định mệnh như thế nào thì sẽ tâm niệm rằng Khoa Tử vi giải đáp những thắc mắc của mình theo chiều hướng ấy. Nếu đã quan niệm rằng mỗi sinh hoạt nhỏ hằng ngày như ăn, uống,… đều được an bài từ trước, thì người nghiên cứu Tử vi lại muốn tính đến “Lưu Nhật” xem được ăn món gì trong ngày. Nếu có một nhân sinh quan như vậy thì sẽ nặng tinh thần công thức, máy móc khi nghiên cứu một lá số Tử vi.

Khi đã quan niệm về một định mênh tương đối. Khi đã quan niệm rằng con người có thể nương theo một số quy luật trong vũ trụ để cải thiện phần nào cuộc đời của mình, thì người nghiên cứu Tử vi lại nhẹ tinh thần công thức mà có tinh thần diễn dịch nhiều hơn, chú trọng đến luật tương quan tương đối nhiều hơn,…

Chúng tôi thấy rằng cần phải rút tỉa một nhân sinh quan trung thực của Tử vi Đẩu số, rồi mới làm sáng tỏ được một chiều hướng nghiên cứu. Nếu mỗi người nghiên cứu cứ giữ cái nhân sinh quan riêng của mình, thì khó có thể “Chính Danh” cho các yếu tố trong Tử Vi còn nói gì đến việc làm sáng tỏ một quan niệm nào đó khi nghiên cứu một lá số.

Trở lại với vấn đề “Có chính tinh mà coi như Vô chính diệu”.

Nếu người nghiên cứu nặng tinh thần công thức, không xét đến luật tương đối tương quan thì “Có Chính tinh phải gọi là có Chính tinh”.
Nhưng nếu quá nặng tinh thần công thức, máy móc thì người nghiên cứu Tử vi dễ gặp trường hợp trớ trêu như thấy sao Thái Âm cư Tý, Hồng Đào thủ Mệnh, không gặp hung sát tinh mà đương số vẫn da đen, tóc quăn, hoặc có Tham Lang hay Liêm Trinh miếu vượng thủ Mệnh mà đương số cũng chẳng cao lớn là mấy, vì các đương số chịu ảnh hưởng di truyền, cha mẹ thuộc hàng chủng tộc da đen, lùn,…. Hoặc là áp dụng tinh thần công thức, máy móc, căn cứ vào các vị sao để đoán rằng đương số có sáu người con. Trong khi đó đương số chỉ có ba người con, vì đã áp dụng khoa giải phẫu để cai đẻ.

Đến đây chúng tôi nêu lên một vấn đề là chúng ta có nên hoàn toàn nghiên cứu Tử vi trong tinh thần công thức, máy móc không? Hay là vừa áp dụng tinh thần công thức, vừa áp dụng tinh thần diễn dịch? Nếu áp dụng tinh thần công thức tuyệt đối thì Mệnh có Chính Tinh phải gọi là có chính diệu.

Nếu chỉ nghiên cứu Tử vi trong tinh thần công thức thuần túy thì chúng ta sẽ gặp nhiều trường hợp trớ trêu như đã kể trên.
Tinh thần công thức cũng không thể giải thích được trường hợp cùng ngày giờ sinh như nhau, mà một người thì làm vua, một người kia thì làm nghề nuôi ong; hoặc người này làm quan, người kia làm phù thủy cao tay (đã có giai thoại Tử vi về trường hợp này).
Đó là chuyện xưa. Ngày nay, dù không làm một cuộc thống kê, chúng ta cũng có thể tin chắc rằng có nhiều người sinh ra trong cùng một ngày giờ.
Tinh thần công thức Tử vi không giải thích được hết mọi sự sai biệt.
Nếu như đã dung hòa tinh thần công thức và tinh thần diễn dịch thì cũng có thể quan niệm rằng mệnh có chính tinh mà có trường hợp “ví như” là Vô chính diệu vậy.

Không riêng gì bài đoán Tử vi của cụ Lê quí Đôn, chúng tôi còn gặp trong nhiều sách Tử vi khác nói rằng: “Tham Lang cư Phu Quân, mà Mệnh Vô chính diệu thì làm vợ lẽ”. Cung Phu có sao Tham Lang thì Mệnh bao giờ cũng có chính tinh. Vì áp dụng tinh thần diễn dịch mà “coi như là Vô chính diệu” khi thấy chính tinh thủ Mệnh bị phá, hãm quá nhiều. Thí dụ như Thái Dương cư Hợi là hãm, lại gặp Hóa Kỵ là bị che lấp đi quá nhiều.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
CHẾ TẠO SẴN LÁ SỐ TỬ VI RỒI LẤY THAI RA ĐÚNG GIỜ ĐỊNH TRƯỚC NHƯNG SINH NON THÁNG THÌ SỐ CÓ ĐÚNG KHÔNG ?
Trong họ tôi có lệ cấm không được mang bộ “Đông A Di Sự” cho người ngoài đọc và không được dạy Tử Vi cho những người thiếu tư cách đạo đức. Thành ra nhóm Đông A của chúng tôi, số người ngoại tộc chưa quá 60, trong khi nội tộc trên 100 người. Những người ngoại tộc hầu hết trên 30 tuổi, trong khi nội tộc có người mới…15 tuổi, những người nội tộc hay làm xấu hơn ngoại tộc.

Trong năm Giáp Dần, người làm xấu nhất lại là đứa cháu gái của tôi. Nó tên là Thi Thi (tên gọi ở nhà). Ông anh họ tôi, cha của Thi Thi xuất thân là thẩm phán, nên có mặc cảm mình ác. Ông muốn Thi Thi làm luật sư để chuộc tội cho cha. Năm 1973, Thi thi đậu cử nhân luật, tôi gửi vào văn phòng một luật sư già cho nó tập sự. Ông luật sư già thương nó lắm, coi nó như con vậy. Nên thay vì gọi ông bằng thầy, nó gọi ông bằng bố. Tất cả những vụ nhỏ, ông giao cho nó hết.

Thi Thi tuổi Tân Mão, tháng 1, ngày 9 giờ Hợi, mệnh Cự Cơ tại Mão được Lộc, Khoa, Khúc, Tuế phò trợ.

Cự thì nói giỏi, Cơ thì tinh khôn mưu trí, Cự có Lộc thì tham ăn, hay khóc, hay được ăn, gặp hạn sát tinh thì hay thâm tài, tức…tham nhũng. Nhưng có Khoa, Khúc thì nó đẹp, dù có tham nhũng đến mấy cũng không bị tù. Vì trong khoa Tử Vi, Văn Khúc, Hóa Khoa là hai Đại Giải Thần (cách đây 6 năm khi làm Thẩm phán quân sự, tôi đã cố buộc tội nhiều can phạm tham nhũng, mệnh có Khoa, mà không được). Hội đủ các sao nói giỏi như vậy, nên Thi Thi lợi dụng triệt để cái sở trường của nó, cái gì nó cũng dùng lời nói để vượt qua lọt. Nịnh bố, nịnh mẹ, nịnh chú, nịnh thầy, nịnh cả quan tòa để xin tha cho tội nhân.
Thi Thi học Tử Vi từ năm 18 tuổi, do cha dạy, song chỉ học giải đoán tâm tính, hình dạng và trợ cách, phá cách thôi. Sau khi tập sự luật sư, nó xin tôi cho dự các buổi họp của nhóm Đông A. Tôi đồng ý, đây là đầu mối của việc phiền phức.

Trong một buổi họp, Thi Thi bàn tử vi một bác sĩ sản khoa trong nhóm. Nhân nghe vị bác sĩ này nói có thể cho sản phụ sinh sớm hay trễ hơn một số ngày. Trong ngày có thể dùng máy hút, hút hài nhi ra đúng giờ ấn định nào đó. Sau buổi họp về, Thi Thi nói cho bạn nó, bà M, vợ một tỷ phú nghe. Bà M rất tin Tử Vi, bà cho biết bà sinh vào tháng 5 song không biết ngày nào. Vậy Thi Thi tìm cho ngày, giờ tốt nhất, để bà nhờ Bác sĩ hút đứa trẻ ra.
Thi Thi “chế tạo” ra một lá số làm sao đủ bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc. Đã vậy nó còn tham lam thêm Lộc Tồn, Thiên Mã, Thái Tuế để được cách “Lộc Mã giao trì”. Nó đưa ra tuổi Giáp Dần, tháng 5 chỉ có giờ Thìn ngày 2, 16, 25 thì:

- Mệnh lập tại Dần, Vũ, Tướng, Khoa, Mã, Tuế, Lộc Tồn.
- Quan tại Ngọ, Tử, Hữu, Long Xương, Tướng Quân.
- Di tại Thân, Phá, Quyền, Tả, Khúc, Phượng.
- Tài tại Tuất, Liêm, Phủ, Lộc.

Nghĩa là lá số “siêu đẳng nhân”. Bà M đến một bảo sanh viện tư danh tiếng, xin với bà giám đốc làm cách nào cho đứa trẻ ra đời từ 8g30 – 9g30 ngày 16 tháng 5 âm lịch (Giáp Dần).
Bà được toại ý. Đứa trẻ ra đời với lá số đã định sẵn, Thiên Mệnh không ở trong tay Thượng Đế, mà ở trong tay cô gái 23 tuổi. Vấn đề thật phiền phức.

Việc xảy ra làm chấn động nhóm Đông A. trong nhóm có tới trên 10 vị là Bác sĩ, Dược sĩ. Kể cả thân hữu thì có tới mấy chục, các vị kéo lên trụ sở của nhóm tại Thủ Đức để bàn về vấn đề đó. Nếu sự thực đứa trẻ cưỡng sinh ra mà được hưởng số đã định theo người thì năm Ất Mão sẽ là năm Việt Nam sinh ra toàn trẻ có văn cách, giàu sang (vì tuổi Ất thì Hóa Lộc phò Thiên Cơ, Hóa Quyền phò Thiên Lương. Muốn có số tốt ngoài Lộc Tồn, Tả, Hữu, Xương, Khúc ra phải có Quyền Lộc… nên phải được bộ văn đoàn Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ). Tương lai sẽ có cửa hàng bán lá số chế tạo, giải đoán sẵn. Sẽ có cuốn sách in hàng trăm lá số của đủ loại người, với lời giải đoán, bán cho các sản phụ, các bảo sanh viện tha hồ ra giá…

Chúng tôi họp nhau bàn cãi cả ngày không đem lại kết quả nào. Tôi tìm được 2 đoạn sách nói về việc cưỡng sinh.

Đoạn thứ nhất chép trong sách “Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh”, phần biên tiểu sử Hi Di tiên sinh. Khi Thái Tổ hỏi số của tiên sinh, ông cho biết vì thân mẫu ông sinh ông non 1 tháng, nên số đó không do trời, không đúng với sự vận hành tinh tú.

Đoạn thứ hai chép về số Nguyễn Linh Nhan trong sách Đông A Di Sự. Mẹ Nhan có mang 8 tháng rưỡi, bị đá đè dập đầu gần chết. Cha Nhan phải nhắm mắt chém chết vợ cho khỏi đau đớn, rồi mổ bụng mang hài nhi ra. Đúng số thì Nhan đẹp trai, phúc thọ song toàn (Tử, Hữu, Vũ, Tướng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khoa, Quyền, Lộc). Nhưng sự thật Nhan chết thảm về tay Trần Bắc Đại tướng quân, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Vì vậy đứa trẻ bị tai nạn đẻ non đều không xác định được số.

Mấy vị bác sĩ trong nhóm Đông A, trở về bảo sanh viện lục số tìm những tuổi trẻ đẻ non tháng, rồi truy tìm địa chỉ đến thăm. Sau 2 tháng, chúng tôi tìm được số đến gần 40 đứa trẻ sinh thiếu tháng từ 1959 đến 1962, đem lá số đối chiếu với sự thực: Hình dạng tính tình, vận hạn đều khác nhau xa vời.

Cuối cùng chúng tôi ghi vào phần phụ lục của tài liệu nghiên cứu: ”Nhân sinh hữu mạng, con người sinh ra đều có ngày giờ, tháng năm ứng vào sự vận hành của Thiên Hà. Cưỡng sinh hay bị tai nạn sinh sớm đều không xác định được cung số. Khi giải đoán các lá số sinh non phải dè dặt. Trong 38 lá số sinh non từ 1959 đến 1962 đã khảo nghiệm, có 32 lá số sai 80%...3 lá số sai 50%... 2 lá số sai 30% và 1 lá số đúng 80%.”

Sau vụ này Thi Thi bớt tự đắc, ông anh tôi la rầy thì nó lại nịnh: “Đến cả họ mình và bao nhiêu người trong nhóm Đông A còn không biết cưỡng sinh là được hưởng số hay không, huống hồ là nó. Nhờ nó, vấn đề được đặt ra và nghiên cứu tinh tường”
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Chế tạo lá số để hỏi vợ

Trong 1 dịp khác, tôi kể truyện cho Thi Thi nghe về làng Hàng thiện. Hồi xưa làng này có mấy ông thầy bói chuyên bán lá số. Mấy anh chàng đi hỏi vợ thường đến thầy mua lá số. Thấy bên vợ thích lá số quan văn, thầy bán lá số văn, bên vợ thích lá số quan võ, thầy bán lá số võ. Nhà vợ đòi niên canh bát tự, anh ta nộp niên canh lá số mua. Nhà vợ đi xem thầy nói tốt quá, gả ngay lập tức.

Thi Thi nghe truyện thích lắm. Nó áp dụng liền.

Một thân chủ tới văn phòng luật sư nhờ nó kiện gia đình vị hôn thê về tội bội tính. Thân chủ tuổi Ất Dậu không rõ ngày tháng sinh. Ông ta là một bác sĩ Quân Y, đã làm lễ hỏi một cô tuổi Quý Tỵ (1953), con nhà đại phú. Nhưng nhà vợ nhờ thầy coi tướng, Thầy bảo ông bác sĩ chết yểu và chẳng làm gì hơn nghề thầy thuốc. Nhà vợ kiếm cớ từ hôn. Ông bác sĩ cho biết ông và vị hôn thê yêu nhau đậm đà lắm.
Thi Thi đề nghị:
- Kiện thì đương nhiên nhà gái phải bồi thường cho bác sĩ rồi. Nhưng kiện làm chi để tỏ ra mình yếu quá. Nếu tôi hòa giải cho nhà gái gả vợ bác sĩ cho bác sĩ được không?
Trước tiên thù lao định là 150.00 đồng, vì là việc hộ tương đương với vụ ly hôn. Ông bác sĩ vui vẻ:
- Nếu cô làm được việc đó, tôi sẽ trả gấp 4 lần (tức 600.00 đồng)
- Đấy nhá, Bác sĩ thưởng cho tôi chứ tôi không đòi, không xin đâu nhé
- Vâng tôi cảm phục và biếu cô đấy chứ
Thi Thi bảo ông bác sĩ:
- Bác sĩ không biết ngày tháng sinh song tôi có cách tìm để biết số tử vi của bác sĩ.
Rồi nó bắt ông ta gần 2 cây tre đếm đếm nói nói, cuối cùng nó phán:
- Bác sĩ sinh năm Ất Dậu (1945) tháng 4 ngày 1 giờ Ngọ. Để tôi lấy cho bác sĩ một lá số
Hôm sau Thi Thi mời bà mẹ vợ, vị hôn thê của ông bác sĩ tới văn phòng thông báo cho biết ông bác sĩ sẽ kiện bà đòi bồi thường. Bà giận lắm, móc ví lấy chi phiếu ra hỏi:
- Thưa cô luật sư, nó đòi bao nhiêu?
- Triệu rưỡi
- Tôi trả 3 triệu
Bà định lấy chi phiếu, Thi Thi ngán quá nói quanh:
- Thưa bà đành rằng tiền bạc xong rồi, song còn tình. Cô đây và ông bác sĩ yêu nhau thắm thiết, mà bà bắt 2 người xa nhau thì tội lắm.
Bà vẫn lắc đầu:
- Tôi đã đi coi ông thầy tướng L. Ông ta bảo nó chết yểu, chẳng làm nên sự nghiệp gì, vì vậy tôi không gả.
Thấy bà ta lọt bẫy, Thi Thi nói:
- Tôi không dám bảo ông L nói láo nhưng bà biết ông bác sĩ là “tiềm tướng”. Coi qua không thấy được, phải coi cách ăn, uống, đi, đứng mới rõ. Ông ta có tướng lấy vợ đẹp giàu.
- Sao cô biết?
- Tôi có học sơ. Sao bà không đi coi số tử vi của ông ta xem sao? Số tử vi xem mới đúng, chứ tướng chỉ đúng 1 phần thôi ( Xin lỗi mấy cụ xem tướng, đây là lời thuyết phục của luật sư, chứ không phải như vậy đâu). Bà có đọc giai phẩm Khoa Học Huyền Bí không?
- Thưa có, cả nhà tôi đều đọc
- Trên đó có mấy ông nghiên cứu tử vi thành danh. Bà nhờ mấy ông đó coi cho mới chắc.
- Nhưng thằng nhỏ không có số tử vi
- Thưa bà, ông bác sĩ có số đấy. Vì số của ông ta lấy vợ đẹp, nhà giàu, thanh niên tự ái, ông ta giấu lá số đi. Bà có thể nhờ cô gái hỏi, chắc ông bác sĩ đưa ra ngay. Rồi bà cho tôi đi theo xem thầy số nói sao.
Nghe nói: số lấy vợ đẹp, nhà giàu, bà mẹ vợ thích lắm. Nhất là nghe câu: thanh niên tự ái v.v…bà cho rằng con rể vì yêu con gái bà mà hỏi, chứ không vì tiền, Bà thích lắm.
Hôm sau cô con gái bà đã tìm ông bác sĩ lấy được lá số “chế tạo” sẵn. Bà đem con gái rủ Thi Thi đi xem tử vi. Bà lái xe tìm đến văn phòng cụ Đông Nam Á nhưng tìm không ra Hương Lộ 14. Cuối cùng bà đòi tìm giáo sư Trần Quang Đông, Thi Thi đành đưa bà tới nhà ông Đông. Trên đời này, người nó ngán nhất là tôi sau đó tới ông Đông. Tôi là chú nó còn ông Đông là thầy nó.

Vừa tới nhà trình bày tự sự, ông Đông giãy nãy lên rằng ông xem dở, tại sao không tới người khác. Nhưng rồi ông cũng coi giùm.
Lá số chế tạo thuộc loại dễ coi nhất:
- Mệnh Nguyệt Kỵ Mã tại Hợi, đẹp trai hiền lành cận thị khi chế tạo lá số, Thi Thi đã phải căn cứ vào sự kiện trúng đối thực mà sắp đặt.
- Quan: Lương Nhật Quyền Lộc tồn tại Mão. Là bác sĩ danh tiếng nhờ Quyền. Chữa bệnh mát tay nhờ Lương Lộc là hai phúc tinh.
- Di: Cơ, Hóa lộc tại tỵ ra ngoài được kính trọng.
- Tài: Tả Hữu được Nhật Nguyệt Quyền Lộc Long Phượng chiếu tại Mùi giàu có chồng chất
- Thê: Vô Chính Diệu Lương Nhật song Lộc chiếu, vợ chồng đẹp đôi, lấy vợ con nhà quyền quý, giàu có.
- Hạn năm Dần, đại hạn ở Thân gặp Phá mọi sự điên đảo, rối loạn chủ trương. Tiểu hạn tại Tỵ gặp Tham Hình Hồng Đào Hao và lưu niên Phục Binh lắm điều bị phản phúc. Nhưng nhờ Khoa ở Ngọ giải được.
- Năm Dần lưu Thái tuế, Lộ tồn ở Dần, Vũ Tướng được Thái tuế làm cho mạnh lên trấn áp Phá Hao Hình.

Tóm lại: đây là một bác sĩ đẹp trai, hiền lành phúc thọ, lấy vợ đẹp, con nhà giàu. Năm nay Giáp Dần sẽ lấy vợ , nhưng gặp chút phiền phức rắc rối, cuối cùng lấy được vợ.
Bà mẹ vợ thỏa mãn ra về, tuy vậy bà còn đến hai ba ông thầy tử vi khác coi, ông nào cũng giải đoán tương tự. Bà hối hận đã đối xử tệ với ông rể quý, Bà mời tới xin lỗi và cho cưới ngay. Đám cưới linh đình tốn mấy triệu bạc, diễn ra tại một nhà hang Chợ Lớn.
Thi Thi lãnh tiền thù lao của ông bác sĩ, nó nộp cho “sư phụ” hết 500.000, nó lấy 100.000. Nghe truyện Thi Thi kể, ông luật sư già giận lắm, ông la nó suốt nửa giờ. Nó cải bay cả lý luận của sư phụ:
- Bố chửi con là oan? Kết quả nội vũ con đem lại là gì? Bà mẹ vợ hoan hỉ, ông bác sĩ được vợ, cô gái được chồng. Ai cũng vui hết. Con không đòi tiền nhiều, ông bác sĩ thưởng cho con đấy chứ. Cổ nhân có câu: “Thính tụng ngô du nhân dã, tất xử vô tụng hồ”. Nghĩa là nghe người kiện nhau, ta cũng nghe được như ai. Nhưng làm sao cho người không kiện nhau mới giỏi. Con làm cho họ không kiện nhau, đúng với cổ nhân. Thế mà bố la oan con…
Sư phụ Thi Thi trả nó 600.000 đồng. Nó đang đắc chí thì bị tôi khám phá ra, tôi “chà sà bong” nó hơi kỹ ông Đông thì đọc cho nó “một bài văn tế cá sấu” dài hàng giờ. Cha của nó đòi đánh nó ít bạt tai, may mà nó nhanh chân vào phòng khóa cửa lại.
Khi tôi viết những dòng này, thì vợ ông bác sĩ sắp sinh con đầu lòng, bà được cha mẹ cho ngôi biệt thự, cho xe, cho tiền để mua một dưỡng đường, hầu đứng ra điều khiển. Âu cũng là duyên số.
 

MụcĐồng

Tư vấn viên
Cụ HOÀNG HẠC trả lời bạn đọc

Các chính tinh ở “nhàn cung cũng như ông cò về hưu, nhưng ông nào dâm thì vẫn cứ dâm…

Trả lời các bạn hỏi về “nhàn cung”, các sách đều có nói về “nhàn cung”, ở đây chúng tôi xin định nghĩa cho rõ. Nhàn tức là nhàn rỗi, thanh nhàn, tuy có tên có tuổi và chức việc đó, nhưng mà nhàn rỗi, chả biết làm gì. Tức là “hữu danh mà vô thực”. Có tiếng đấy mà chẳng ăn nhằm gì. Nhàn cung tức là cung mà ỏ đó, chính tinh chẳng có tác họa hay tác phúc được gì.

Thí dụ như Phá quân, là sao phá hoại, có khi hay, có khi dở, tùy theo cung nó đứng. Nhưng nếu nó ở “nhàn cung” thì sao đó chẳng thiện, chẳng ác chi cả. Phá quân ở Tí Ngọ thì dũng mãnh, ở hãm địa thì phá hoại ghê gớm. Nhưng khi ở “nhàn cung” (như cung Tỵ, cung Thân), thì cứ như ông Cò về hưu, chẳng còn quyền gì, chẳng giúp được ai chẳng phá được gì, chẳng được việc gì hết.

Cái nghĩa thật là như vậy, chứ không phải là “ở nhàn cung, tức là ảnh hưởng lờ mờ, không mạnh như có sách nói.
Tử Vi, nhàn cung ở Tý và Thìn
Tham Lang, nhàn cung ở Dần và Thân
Thất sát, ở Tị và Hợi
Thiên Cơ, ở Tị
Vũ khúc ở Thân
Thiên Lương ở Tị và Dần
Thiên Tướng ở Thìn và Tuất
Cũng nên hiểu thêm rằng các sao đó ở nhàn cung, là kể như bị tước đoạt quyền hành, khả năng và chịu sự chi phối của các sao phụ.

Cũng vậy, các sao “quý nhân” mà ở nhàn cung thì không giúp ích được gì. Nhưng dù sao cũng bệ vệ, giữ được một hư vị và cũng có chút ít cái tiếng của mình.
Lại phải hiểu thêm thế này, là các sao trên ở nhàn cung thì không còn quyền tác họa, tác phúc, nhưng bản chất như thế nào thì vẫn còn giữ. Thí dụ như Tham Lang tại Dần, nhàn cung. Tham lang ở đó không còn bản chất dâm đãng của nó. Và người đàn bà có Tham lang tại Mạng, ở Dần, mà không có sao nào chế ngự, thì tuy không chịu sức họa phúc nào của Tham lang, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng bản chất của nó, tức là người vừa đa dâm, vừa bạc tình. Cái lẽ đó dễ hiểu. Ông Cò về hưu thì hóa quyền sinh quyền sát, nhưng ông Cò mà dâm đãng tiểu nhân, ông ta là quân tử, thì vẫn là quân tử.

KHHB số 27




 
Bên trên