Tường Phái Huyền Không

N

Người Lái Đò

Guest
Huyền không

Huyền= Mầu đen sâu kín, huyền diệu ,mầu nhiệm.
Không = Trống không, thấy không có gì cả.

Huyền không là Không gian vũ trụ , không nhìn thấy gì nhưng vô cùng huyền diệu. Đây là môn học nghiên cứu về những ảnh hưởng của các vì sao, những tinh tú trong vũ trụ tác động đến sự sống trên địa cầu, gọi chung đó là Thiên khí.
Vũ trụ luôn vận động, tuy vậy bằng những quan sát thực tiễn và trải hàng ngàn năm con người đã đúc rút ra được những quy luật vận hành cũng như ảnh hưởng của bầu không gian vũ trụ bao la đối với sự sống trên trái đất .
Gần nhất, dễ thấy nhất đó là Nhật - Mặt trời, Nguyệt- Mặt trăng , xa hơn chút nữa là các hành tinh trong hệ mặt trời như các sao Kim ,Mộc, Hỏa, Thủy ,Thổ...Và còn xa hơn nữa là các ngôi sao trong thiên hà ...

Chương trọng Sơn nói:” Vô định, vô cứ, không phương hướng, không góc cạnh, không khởi đầu, không kết thúc, không hình thể, không dấu vết, tồn tại khắp nơi, không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Không”

Bàn về vòng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết:
Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi,
Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi,
Tử sinh đắc thất tùy thám sách,
Quá hiện vị lai liễu liễu tri

Tạm dịch:
Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích,
Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay,
Tìm hiểu được sự sống chết và được mất,
Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai.
Cho nên Huyền không địa lý là môn khoa học dựa vào sự di chuyển của 9 ngôi sao ( cửu tinh ) theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Lạc thư mà đoán định sự thịnh, suy, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).

Lạc thư và Lường thiên xích

Hãy coi thử ma phương sau:
clip_image001.jpg
attachment.php



Tổng số của các cạnh hay đường chéo đều bằng 15. Đây chính là cân bằng của vũ trụ

Lạc Thư: Lạc Thư có 9 số. Số lẻ là số trời hay dương số. Tồng số các số lẻ 1+3+5+7+9 = 25. Số chẵn là số đất. Tổng số các số chẵn là 2+4+6+8 = 20. Lạc thư vận hành khởi từ Thủy qua đến Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa, Hỏa lên Kim, vì Hỏa khắc kim, đến Mộc vì Kim khắc Mộc, vào Thổ, vì Mộc khc
Th
, ri li v Thy, vì Th khc Thy.
clip_image001.jpg

attachment.php



Hậu Thiên Bát Quái : Dựa vào lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đổi lại phương vị của 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái theo với ý nghĩa và phương vị của 9 số trên Lạc Thư mà đặt ra Hậu Thiên Bát Quái (các chữ số là số của Lạc Thư và cũng là số quẻ Hậu Thiên)


Từ Lạc thư và Hậu thiên bát quái là gốc, Vũ trụ vận động thể hiện qua cửu tinh theo quy luật sau :

L
ường thiên xích Thuận
attachment.php



(1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC.
(2) Từ TÂY BẮC lên TÂY.
(3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC.
(4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM.
(5) Từ NAM xuống BẮC.
(6) Từ BẮC lên TÂY NAM.
(7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG.
(8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM.
(9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung.





(1) Từ trung cung lên ĐÔNG NAM
(2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG
(3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM
(4) Từ TÂY NAM xuống BẮC
(5) Từ BẮC lên NAM.
(6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC.
(7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY.
(8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC.
(9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung.


Cửu tinh và ý nghĩa
- Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế loan đầu có thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thông minh trí tuệ. Nếu suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư...
* về ngũ hành: thuộc thuỷ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết
* về người : con trai thứ
* về tính chất : thuộc dương
- Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát mạnh, nhân khẩu hưng vượng lại phát quí về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng. Trong nhà thường phát sinh bệnh hoạn liên miên.
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu đen
* Về cơ thể : bụng và dạ dày
* về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình
* về tính chất : thuộc âm
- Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp.

* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh lá cây
* Về cơ thể : mật, vai và tay
* về người: con trai trưởng
* về tính chất : thuộc dương
- Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền quí. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang phiêu bạt.
* về ngũ hành: thuộc mộc
* Về màu sắc: màu xanh dương
* Về cơ thể : đùi và 2 chân
* về người: con gái trưởng
* về tính chất : thuộc âm
- Số 5 : Ngũ hoàng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu suy tử thì bất kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh không nên động. Nếu gặp sao thái tuế tới thì tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ thì ốm đau, nặng thì mất người
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu vàng
* Về cơ thể : không
* về người: không
- Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cô độc hoặc chết trong binh đao, người nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ.
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu trắng bạc
* Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già
* về người: cha hoặc chồng trong gia đình
* về tính chất : thuộc dương
- Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay bị giam cầm, gia đạo không yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc
* về ngũ hành: thuộc kim
* Về màu sắc: màu đỏ
* Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi
* về người: con gái út
* về tính chất : thuộc âm
- Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú quí dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch
* về ngũ hành: thuộc thổ
* Về màu sắc: màu trắng
* Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách.
* về người: con trai út
* về tính chất : thuộc dương
- Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu dòng giữa được hưởng phú quí. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị bệnh về máu huyết, thần kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó.
* về ngũ hành: thuộc hoả
* Về màu sắc: màu đỏ tía
* Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường
* về người: con gái giữa
* về tính chất : thuộc âm

 
N

Người Lái Đò

Guest
Thời gian

Thời gian là một yếu tố không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của cá nhân và xã hội. Thời gian là phương tiện để dựng lại và và ghi chép quá khứ, dùng trong tổ chức sản xuất, quản lý xã hội trong sinh hoạt văn hóa và giao tiếp...
Vũ trụ luôn vận động, và để dựng lại mô hình vũ trụ trong quá khứ , người ta phải dựa vào thời gian. Đơn vị thời gian từ nhỏ nhất là Nano giây, microng giây... đến ngày tháng năm rồi Vận , Nguyên, Hội v,v
Dịch học không chỉ phát hiện ra sự đồng nhất thể giữa cuộc đời 1 con người với từng vị trí Không-thời gian mà còn khám phá ra sự đồng nhất giữa 1 ngày, một năm, một vòng vũ trụ với 1 vòng đời của mọi sinh vật.
Thời gian diễn ra trong một ngày cũng giống như một năm, một Kỷ nguyên ( 129 600 năm) v.v...Cái lý tận cùng của sự đồng nhất này là nguyên lý âm dương. nghía là cái sự thăng giáng tuần hoàn lêncungf cực rồi lại xuống , xuống cùng cực rồi lại lên... cứ thế lặp đi lặp lãi mãi.

Thời gian của 1 ngày là chu kỳ vòng quay của địa cầu xung quanh trục của nó.
Thời gian của 1 tháng là chu kỳ vòng quay của mặt trăng quanh địa cầu
Thời gian của 1 năm là chu kỳ vòng quay của địa cầu xung quanh mặt trời.
Thời gian của 1 Vận = 20 năm.
Thời gian của một Nguyên bao gồm 3 phần Thựong - Trung- Hạ nguyên = 9 vận = 180 năm.
Thời gian của một Hôi = 60 nguyên = 10 800 năm
Thời gian của Một Kỷ nguyên = 12 Hội = 129 600 năm.
......

Rồi lại có hệ số nhân 3 ( tam tài ) rồi lại nhân hệ số 60 ( Hoa giáp ) rồi lại nhân hệ số 12 ( địa chi ) ta dựoc thời gian
chu kỳ 1 vòng của Hệ mặt trời quay quanh Tâm của Thiên hà chúng ta.( thường gọi là Ngân Hà ) Khoảng 280 triệu năm.

Vân vân và vân vân ... và Thiên hà của chúng ta lại xuay quanh tâm của Hệ Thiên hà ( galaxy ) Rồi Galaxy lại quay quanh tâm của vũ trụ., Rồi Vũ trụ này lại quay quanh ...1 cái gì nữa thì chưa biêt ? !
Không gian

Cách đây hơn 100 năm Nhà toán học người Đức Bergado Riman khi nghiên cứu vũ trụ đã đưa ra Định nghĩa về Không gian như sau :
" Không gian, đó là tập hợp liên tục những đối tượng đồng nhất bất kỳ " . Ông là người đã mở ra môn Hình học vũ trụ
Theo Ông, con người là một đối tượng của Không gian. từ khi sinh ra , tồn tại và phát triển... mọi hành động và suy nghĩ của Họ đều đồng nhất với Không gian. Nếu thiếu sự đồng nhất, con người sẽ bị loại khỏi Không gian.
Ngay từ xa xưa các Nhà Dich học cũng nhận thức được điều này và đã tổng kết : " Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu ". Sự tương đồng về Thanh về Khí của vạn vật tạo ra sự tồn tại vĩnh hằng bên nhau và vì nhau . Khi hòa đồng với nhau, chỉ cần một một đại lượng không đồng nhất thì thực thể hỗn tạp đó sẽ nảy sinh vấn đề và có thể sẽ không còn tồn tại .
Khi nhận thức được sự huyền diệu của Nguyên lý đồng nhất thể trong vũ trụ này, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên khi thấy những điều kỳ lạ của các nhà Yoga, Những phép thuật của các Pháp sư... cũng như Những điều mà Khoa học hiện đại coi là Bí ẩn chưa giải thích được .

Không gian vô cùng rộng lớn, nhưng để nghiên cứu nó người ta quy về Tọa độ cầu ,lấy điểm gốc là Đối tượng đang tồn tại và đang cần nghiên cứu . Tọa độ Cầu được xác định bởi 3 đại lượng :Góc Phương vị, góc nghiêng và khoảng cách từ gốc tọa độ đến đối tượng .

Người xưa cũng dùng Tọa độ cầu, nhưng chia mặt phẳng chứa góc phương vị thành 8 phương và trong mỗi phương lại chia làm 3 phần nhỏ gọi là Sơn hướng, mỗi Sơn hướng 15 độ, vậy tổng số có 24 Sơn hướng .Ngoài 8 phương trong mặt phẳng quỹ đạo ra còn có thêm 2 phương nữa là Trên và dưới. Tổng cộng là 10 phương. như trong câu tổng kết : " 8 phương trời,10 phương đất "

Từ đây Huyền không dùng 8 phương trời ( gồm 24 sơn hướng ) và 1 gốc ( ở trung cung ) để xác định vị trí của Cửu tinh .

Đồ hình Thiên bàn gốc- Cửu tinh và 8 phương ( 24 sơn hướng )

Phi tinh

Từ Thiên bàn gốc, cửu tinh xoay vần theo thời gian và theo Quy luật Thuận nghịch của Lường thiên xích.


*
Vận bàn : Đến vận của sao nào thì lấy sao đó nhập trung cung, xác định các sao khác theo vòng lường thiên xích thuận
*Hướng bàn:Sau khi có vận bàn ta lấy số ở Hướng cho nhập trung cung, rồi cho bay thuận hay nghịch theo tính chất âm dương của cung nguyên thủy cùa sao ấy (xác định theo Tam nguyên long).
*Sơn bàn:
Sau khi có vận bàn ta lấy số ở Tọa cho nhập trung cung, rồi cho bay thuận hay nghịch theo tính chất âm dương của cung nguyên thủy ca sao ấy(xác định theo Tam nguyên long).
Tam nguyên long:

Tam nguyên long gồm có : Thiên nguyên long, nhân nguyên long và địa nguyên long
* THIÊN NGUYÊN LONG: có 8 sơn :
- 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
- 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

* ĐỊA NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
- 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
- 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

* NHÂN NGUYÊN LONG: có 8 sơn:
- 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
- 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Nếu (- ) thì sao bay nghịch, nếu (+) thì sao bay thuận.


Nhìn vào đồ hình thiên bàn gốc và những dấu âm dương ta có thể thấy Quy luật khi phi tinh sơn bàn và hướng bàn :
- lấy số của vận bàn tại toạ hoặc hướng nhập trung cung.
- Nếu là thiên hoặc nhân nguyên long: Số chẵn bay thuận, số lẻ bay nghịch.
- Nếu là địa nguyên long: Số chẵn bay nghịch, số lẻ bay thuận



Trường hợp tọa hay hướng gặp sao số 5 nhập Trung cung: Tùy theo tọa hay hay là sơn thuộc Ðịa, Thiên hay Nhân, chiều của Lường-Thiên-Xích trong trường hợp số 5 nhập Trung-cung tùy thuộc các vận 20 năm trong Tam-Nguyên Cửu-Vận theo như dưới đây:
1. Vận 1: Ðịa: thuận, Thiên: nghịch, Nhân: nghịch.
2. Vận 2: Ðịa: nghịch, Thiên: thuận, Nhân: thuận
3. Vận 3: Ðịa: thuận, Thiên: nghịch, Nhân: nghịch
4. Vận 4: Ðịa: nghịch, Thiên: thuận, Nhân: thuận
5. Vận 6: Ðịa: nghịch, Thiên: thuận, Nhân: thuận
6. Vận 7: Ðịa: thuận, Thiên: nghịch, Nhân: nghịch
7. Vận 8: Ðịa: nghịch, Thiên: thuận, Nhân: thuận
8. Vận 9: Ðịa: thuận, Thiên: nghịch, Nhân: nghịch
 
N

Người Lái Đò

Guest
Một số ví dụ cụ thể :

* Ví dụ 1 : Ví dụ này được trích lại và bổ khuyết từ sách Bát trạch - Huyền Không của Kép Nhựt


- Lập Vận bàn:
Căn nhà bắt đầu có người tới ở năm 1987 (vận 7), hướng 106 độ... Tức là Tọa Tân hướng Ất kiêm Tuất Thìn 1 độ thì Vận bàn được xắp xếp theo Lường-Thiên-Xích thuận của khoa Huyền-không cổ-truyền với Vận của Trung-cung là số 7 như trong thí dụ này là:
1. Vận của Trung-cung là số 7 là sao Thất-xích.
2. Vận của cung Càn là số 8 là sao Bát-bạch.
3. Vận của cung Ðoài là số 9 là sao Cửu-tử.
4. Vận của cung Cấn là số 1 là sao Nhất-bạch.
5. Vận của cung Ly là số 2 là sao Nhị-hắc.
6. Vận của cung Khảm là số 3 là sao Tam-bích.
7. Vận của cung Khôn là số 4 là sao Tứ-lục.
8. Vận của cung Chấn là số 5 là sao Ngũ-hoàng.
9. Vận của cung Tốn là số 6 là sao Lục-bạch.
- Lập Sơn bàn:
Tọa là Tân ở cung Ðoài (Tây) mà Vận ở cung này là 9 ta ghi số 9 vô Tọa (số nhỏ bên trái) của Trung-cung. Tân thuộc về Nhân-nguyên. Số 9 là số của cung Nam-Ly nên dựa theo sơn thuộc Nhân nguyên của cung này là Ðinh-Âm nên dùng Lường-Thiên-Xích nghịch để xếp tọa bàn:
1. Tọa của Trung-cung là số 9 là sao Cửu-tử.
2. Tọa của cung Tốn là số 1 là sao Nhất-bạch.
3. Tọa của cung Chấn là số 2 là sao Nhị-hắc.
4. Tọa của cung Khôn là số 3 là sao Tam-bích.
5. Tọa của cung Khảm là số 4 là sao Tứ-lục.
6. Tọa của cung Ly là số 5 là sao Ngũ-hoàng.
7. Tọa của cung Cấn là số 6 là sao Lục-bạch.
8. Tọa của cung Ðoài là số 7 là sao Thất-xích.
9. Tọa của cung Càn là số 8 là sao Bát-bạch.
- Lập Hướng bàn:
Hướng là Ất ở cung Chấn (Đông) mà Vận ở cung này là 5 ta ghi số 5 vô Hướng (số nhỏ bên phải) của Trung cung. Ất thuộc về Nhân-Nguyên. Số 5 nằm tại Trung cung thuộc vận 7 nên dùng Lường Thiên Xích nghịch để xếp hướng bàn.
1. Tọa của Trung cung là số 5 là sao Ngũ Hoàng
2. Tọa của cung Tốn là số 6 là sao Lục-bạch.
3. Tọa của cung Chấn là số 7 là sao Thất-xích.
4. Tọa của cung Khôn là số 8 là sao Bát-bạch.
5. Tọa của cung Khảm là số 9 là sao Cửu-tử.
6. Tọa của cung Ly là số 1 là sao Nhất-bạch.
7. Tọa của cung Cấn là số 2 là sao Nhị-hắc.
8. Tọa của cung Ðoài là số 3 là sao Tam-bích.
9. Tọa của cung Càn là số 4 là sao Tứ-lục.



Ví dụ 2 :Nhà tọa Mùi hướng SỬU, nhập trạch trong vận 8.

http://www.phongthuyhoangdien.com/images/Post/phanngamphucngam/mui-suu-v8.jpg

Ví dụ 3 : nhà tọa Cấn hướng KHÔN, nhập trạch trong Vận 8.

http://www.phongthuyhoangdien.com/images/Post/phanngamphucngam/can-khon-v8.jpg

Trong 2 ví dụ trên có thể thấy trường hợp đặc biệt khi sao Ngũ hoàng ( số 5 ) nhập trung cung sẽ xẩy ra hiện tương Phản ngâm hay Phục ngâm :

Trường hợp có Phản Ngâm hay Phục Ngâm xảy ra là khi an Vận bàn cho 1 căn nhà, Vận tinh số 5 sẽ tới Hướng hay tọa của căn nhà đó. Nếu đem số 5 đó nhập trung cung xoay nghịch (để thiết lập Sơn bàn hoặc Hướng bàn), thì những số tới 8 cung sẽ đối nghịch với số nguyên thủy của địa bàn (hay cộng với số nguyên thủy của địa bàn thành 10). Trường hợp này được gọi là “PHẢN NGÂM” (Phản: tức là phản đối hoặc xung khắc). Nếu vận tinh số 5 đó nhập trung cung xoay thuận, thì những số tới 8 cung sẽ giống như những số nguyên thủy của địa bàn. Trường hợp này được gọi là “PHỤC NGÂM” (Phục: tức là tăng áp lực lên vì cùng 1 số

).
Riêng với “Phản, Phục ngâm” thì ngoài những trường hợp do Vận tinh số 5 của Tọa hoặc Hướng nhập trung cung xoay chuyển thuận hay nghịch mà tạo ra thì có 1 số trường hợp khác như sau:

-Vân tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều cùng 1 số. Đây là trường hợp Hướng tinh Phục ngâm. Thí dụ: nhà tọa TUẤT hướng THÌN kiêm CÀN-TỐN 4 độ, nhập trạch trong vận 2. Nếu an Vận bàn thì lấy số 2 nhập trung cung xoay thuận thì 3 đến TÂY BẮC, 4 đến TÂY, 5 đến ĐÔNG BẮC, 6 đến NAM, 7 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, và 1 đến ĐÔNG NAM. Tuy Vận tinh số 1 đến hướng, nhưng vì nhà này kiêm nhiều, nên phải dùng số 2 làm Thế quái, nhập trung cung xoay thuận (vì nhà Hướng THÌN thì trùng với sơn NHÂM của số 1, thuộc dương trong Tam nguyên Long) thì 3 đến TÂY BẮC, 4 đến TÂY, 5 đến ĐÔNG BẮC, 6 đến NAM, 7 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, 1 đến ĐÔNG NAM. Tức là tại mỗi vị trí thì những số của Vận tinh và Hướng tinh đều giống nhau (hay cùng 1 số).

-Vận tinh và Sơn tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều giống nhau (hay cùng 1 số). Đây là trường hợp Sơn tinh Phục ngâm.

-Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều giống nhau (hay cùng 1 số). Đây là trường hợp cả Sơn-Hướng tinh đều bị Phục ngâm.


 
N

Người Lái Đò

Guest
"Tam Ban Xảo Quái

Trong những cách cục có thể giúp cho trạch vận của căn nhà được lâu dài, bền bỉ thì ngoài cách “Hợp Thập” còn có những cách cục “Tam ban quái”.

Nói “Tam ban quái” là vì trong toàn trạch bàn, các vận-sơn-hướng tinh tại mỗi cung hoặc là nối liền nhau thành 1 chuỗi như 1-2-3, 2-3-4, 3-4-5, 4-5-6, 5-6-7, 6-7-8, 7-8-9, 8-9-1, 9-1-2, hoặc là tạo thành những chuỗi số cách đều nhau 3 số như 1-4-7, 2-5-8, 3-6-9. Cách có những chuỗi số nối liền nhau được gọi là “Tam ban quái”, còn cách có những chuỗi số cách đều nhau 3 số được gọi là “Phụ mẫu Tam ban quái”.

Trong “Phụ mẫu Tam ban quái” còn được chia ra làm 2 loại là “Thất tinh đả kiếp” và “Tam ban Xảo quái”. Riêng trong mục này chỉ xin bàn qua “Tam ban Xảo quái” mà thôi.



Nếu lập trạch vận thì ta thấy tất cả các cung đều có 1 trong 3 cặp số 1-4-7, 2-5-8 hay 3-6-9, cho nên căn nhà này toàn bàn là cuộc Tam ban quái, và được coi là đắc “Tam ban Xảo quái”.

Vì cách cục như trên là rất hiếm, nên trong tổng số 1944 cách cục của Phi tinh thì chỉ có 16 cách là hội đủ điều kiện của “Tam ban Xảo quái” như sau:

- Nhà tọa CẤN hướng KHÔN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa KHÔN hướng CẤN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa DẦN hướng THÂN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa THÂN hướng DẦN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa SỬU hướng MÙI: trong các vận 4 và 6.
- Nhà tọa MÙI hướng SỬU: trong các vận 4 và 6.

Đối với Huyền không Phi tinh, những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” được coi là kỳ diệu, vì chẳng những là mỗi con số được cách nhau 3 số, “giống như 1 chuỗi ngọc đính liền nhau, (thuận hay nghịch đều cách 3), hoàn toàn tự nhiên, không chút gượng ép” như Trạch vận Tân án đã nói, mà còn vì trong 3 cặp số đó, mỗi cặp đều có 1 số tiêu biểu cho Thượng Nguyên – Trung Nguyên – Hạ Nguyên. Như 1-4-7 thì 1 là số của Thượng nguyên, 4 là số của Trung nguyên, 7 là số của Hạ nguyên. Với cặp 2-5-8 thì 2 là số của Thượng nguyên, 5 là số của trung nguyên, 8 là số của Hạ nguyên. Với cặp 3-6-9 thì 3 là số của Thượng nguyên, 6 là số của Trung nguyên, 9 là số của Hạ nguyên. Các số 1-4-7 lại đều là những số khởi đầu của Tam nguyên, 2-5-8 đều là những số giữa, 3-6-9 đều là những số cuối, nên vừa có thể làm cho tương thông (hay thông khí) hết cả 3 Nguyên, lại vừa không bị rối loạn hoặc pha tạp. Những cặp số có thể làm thông khí cả Tam Nguyên há không phải là lâu dài hay sao? Lại không bị rối loạn hoặc pha tạp, há không phải là quý khí hay sao? Cho nên những nhà đắc được cuộc “Tam ban Xảo quái” chẳng những vận khí sẽ rất lâu dài trong suốt Tam Nguyên Cửu Vận, mà vì còn đắc quý khí, nên nếu biết cách xử dụng thì dòng họ đời đời sẽ phú quý, danh gia vọng tộc. Nếu không biết cách xử dụng thì cũng chỉ bình thường, thậm chí có thể mang lấy nhiều tai họa tùy theo từng trường hợp.

Những trường hợp Tam Ban Quái phát sinh tai họa

Tuy một số nhà đắc cách “Tam ban Xảo quái” chẵng những đã không gặp được điều gì tốt lành, lại bị nhiều tai họa liên tiếp xảy ra, hại người tốn của... là do những nguyên nhân sau đây:

1) Nhà thường chỉ có cửa trước, chứ không có cửa sau. Lý do là vì những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” hầu như bao giờ cũng gặp trường hợp “Thượng Sơn, Hạ Thủy”, vượng tinh của Hướng sẽ tới phía sau nhà, còn vượng tinh của Sơn sẽ tới phía trước. Nếu phía sau nhà không có cửa hoặc hồ tắm... thì vượng tinh của Hướng đã bị “Thượng Sơn”, nên tài lộc sẽ gặp nhiều khó khăn, bế tắc. Nếu như phía trước nhà đã có cửa mà còn trống, thoáng, thì vượng tinh của Sơn đã bị “Hạ thủy”, chủ phá bại về nhân đinh. Đó là chưa kể trong 16 cách cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” thì đa số lại còn bị Phản-Phục Ngâm, nên làm sao tránh được tai họa? Cho nên tối thiểu là nhà phải có cổng, cửa, hay thủy tại khu vực có vượng khí của Hướng tinh, dùng cách “Nhất chính đương quyền” để hóa giải những cuộc “Thượng Sơn, Hạ Thủy” và Phản-Phục ngâm thì mới có thể tránh được tai họa (nên nhớ là cách “Thượng Sơn, Hạ Thủy” của Phi tinh chỉ là về hình thức, tức là vì Hướng tinh chiếu tới phía sau nhà, nên trên danh nghĩa thì nó đã bị “lên núi” tức “Thượng Sơn”. Nhưng nếu phía sau nhà có thủy hoặc cửa ra vào thì nó đã “gặp nước”, nên biến thành cách “Đáo Hướng”, chứ không còn là cách “Thượng Sơn” nữa. Tương tự với Sơn tinh tới hướng trên danh nghĩa là “Hạ Thủy”, nhưng nếu phía trước có núi hay nhà cao thì Sơn tinh đã “gặp núi”, nên lại biến thành cuộc “Đáo Sơn”. Còn về Phản-Phục ngâm thì chúng chỉ gây tai họa trong trường hợp là khí suy, tử mà thôi. Nên nếu phương có vượng khí mà có cửa hoặc sông hồ... thì cái họa do Phản-Phục ngâm cũng không còn nữa).

2) Phía sau nhà đã không có cửa, lại còn có núi cao hay nhà cao. Phía trước nhà đã có cửa, lại còn thêm trống, thoáng thì tai họa càng nặng.

3) Nếu đã phạm các điều ở trên, mà hướng nhà lại kiêm nhiều, vị trí cửa, bếp, bàn thờ... còn phạm Không vong thì tai họa càng nghiêm trọng.
4) Phía sau nhà đã không có cửa hay thủy, còn cửa trước tuy không nằm ngay đầu hướng, nhưng lại nằm trong 1 khu vực làm tiết thoát nguyên khí của hướng tinh nơi đầu hướng (tức Hướng tinh ở hướng phải sinh cho Hướng tinh nơi cửa) thì cũng gặp nhiều tai họa.

5)Những nhà tuy phía sau có cửa, nhưng lại bị nhà hàng xóm cao hoặc áp sát, phía trước tuy không có cửa, nhưng có sân trống hay thủy... thì cũng vẫn là cách cục phá bại và gặp nhiều tai họa.

Gần đây, có 1 số nhà Phong thủy lại cho rằng những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” cần phải vuông vức, để tất cả các cung của Bát quái đều nằm gọn trong căn nhà và chiếm 1 phần bằng nhau, chứ không thể có cung nào bị lọt ra ngoài nhà hay chiếm 1 phần quá ít so với những cung khác!!! Họ cho rằng chỉ có những nhà như thế mới phát phúc, lộc, còn những nhà không vuông vức thì sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên, nếu gặn hỏi lý do thì họ thường chỉ trả lời được rằng nếu các cung không đồng đều, hay có 1, 2 cung lọt ra ngoài cửu cung thì Tam ban quái sẽ không đầy đủ, nên khí sẽ “không thông” mà gây ra tai họa. Nhưng thật ra nếu xét kỹ “tiêu chuẩn” này thì có thể nhận thấy là ngay chính họ cũng không biết lý do tại sao những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” mà cũng vẫn bị họa, nên mới đưa ra “tiêu chuẩn” nhà cần vuông vức. Và vì không tìm được lý do giải thích, cho nên họ mới xoay sang “kết hợp” đủ mọi lý thuyết khác để tìm câu giải đáp như sau:

- Về hình cục loan đầu: thì những gì vuông vức đều được coi là tốt đẹp, làm cho khí lưu thông điều hòa, còn những gì méo mó, lệch lạc đều bị coi là xấu, là làm cho khí bị bế tắc hoặc trì trệ, thiên lệch... mà làm hỏng cuộc “Tam ban Xảo quái”.

- Về vận khí: hầu hết các cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” đều xuất hiện trong các vận 2, 5, 8 tức là Thỗ vận, nên nếu nhà vuông vức thì tướng nhà sẽ hợp với nguyên vận (hình vuông thuộc Thổ) mà làm cho tốt đẹp.

- Về phương vị: vì chỉ có những nhà nằm trong tọa hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN (tức trục ĐÔNG BẮC –TRUNG CUNG - TÂY NAM) là đắc “Tam ban Xảo quái”, mà Ngũ hành của trục này đều thuộc Thổ, cho nên hình dáng của căn nhà mới “cần” vuông vức để hợp với Ngũ hành của tọa-hướng và trung cung mà giúp cho thông khí hoặc tăng thêm cái tốt, chế hóa được cái xấu...
 
N

Người Lái Đò

Guest
Phi tinh theo Niên, Nguyệt, Nhật, Thời

Trên kia chúng ta đã xét cách phi tinh theo Vận, Phần này tiếp tục xem xét cách phi tinh theo năm tháng ngày giờ...

1/ Theo năm :
Khẩu quyết Tử Bạch khởi niên nói: “Thượng nguyên Giáp Tý Nhất Bạch khởi, Trung nguyên Tứ Lục thôi Giáp Tý, Hạ nguyên Thất Xích Đoài vị tầm, trục niên tinh nghịch trung cung thủy”. Thượng nguyên gồm 3 vận 1, 2, 3; Trung nguyên gốm 3 vận 4, 5, 6; Hạ nguyên gồm 3 vận 7, 8, 9.

Lấy ví dụ muốn biết năm 1988 Mậu Thìn thì sao nào trong cửu tinh quản cục và nhập trung cung.

Trước hết ta xem năm 1988 nằm ở nguyên nào. Tra bảng thì thấy năm 1988 nằm ở vận 7 Hạ nguyên (từ 1984 đến 2003)

Sau đó đối chiếu với khẩu quyết, biết “Hạ nguyên Thất Xích Đoài vị tầm”, tức là Hạ nguyên 7 Xích tìm ở cung Đoài, lấy đó làm mốc. Sau đó tính nghịch vì khẩu quyết "trục niên tinh nghịch trung cung thủy".

Bây giờ muốn tính năm Mậu Thìn 1988 thì lấy Giáp tý 1984 an vào cung Thất Xích ở Đoài, rồi tính nghịch, thì Ất Sửu (1985) là Lục Bạch, Bính Dần (1986) là Ngũ Hoàng (Trung), Đinh Mão (1987) là Tứ Lục, Mậu Thìn (1988) là Tam Bích.

Vậy năm Mậu Thìn thì sao Tam Bich quản cục, vậy đem Tam Bích nhập trung làm chuẩn, tiếp đó phi đến 8 cung còn lại theo chiều thuận.

Sau đây là bảng niên tinh cho vân 7 và vận 8

attachment.php



Có một kinh nghiệm phi tinh theo năm như sau :
xác định sao nhập Trung cung, tính theo Phi cung của Nam giới là tiện và dễ nhớ nhất. Ví dụ năm 2008 , nam nhân có phi cung là Khảm, điều này Chắc huynh biết tính rồi phải không? Vì thế Nhất bạch sẽ nhập trung cung.
Chỉ có ngoại trừ, trường hợp tổng cộng các số của năm sinh bằng 6 có khác một chút: Sao nhập trung cung không phải là Nhị lắc mà là Sao Ngũ hoàng số 5.
Ví dụ:
- Năm 2008: Tổng các số năm sinh là: 2 = 8 = 10 -9 = 1 > Phi cung khảm, nên Nhất bạch nhập trung cung;
- Năm 2009: Tổng các số năm sinh là: 2+9 = 11 -9 = 2 > Phi cung Ly, nên Cửu tử nhập trung cung;
- Năm 2010: Tổng các số năm sinh là: 2+1 = 3 > Phi cung là Cấn, nên bát bạch 8 nhập trung cung;
- Năm 2011: Tổng các số năm sinh là 2+1+1 = 4 > Phi cung là Đoài, nên thất tinh nhập Trung cung.
- Năm 2012: Tổng các số năm sinh là: 2+1+2 = 5 > Phi cung là Càn, nên lục bạch 6 nhập trung cung.
- Năm 2013, tổng các số của năm sinh là: 2+1+3 = 6 > Tuy phi cung là Khôn, nhưng, đây là trường hợp đặc biệt, lùi về Trung cung, Ngũ hoàng nhập trung cung số 5 (Đây là trường hợp đặc biệt);
2/ Phi tinh theo tháng:

khẩu quyết Tử Bạch Khởi Nguyệt như thế này:
"Tý Ngọ Mão Dậu Bát Bạch cung; Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ Hoàng Trung; Dần Thân Tỵ Hợi cư hà vị, nghịch tầm Nhị Hắc thị kỳ tông”.
Theo khẩu quyết Tử Bạch khởi Nguyệt áp dụng cho tháng âm lịch thì:
- Những năm Tý Ngọ Mão Dậu thì khởi sao Bát Bạch ở tháng Giêng (tháng 1 âm lịch), sau đó phi nghịch cho những tháng kế tiếp
- Những năm Sửu Mùi Thìn Tuất thì khởi sao Ngũ Hoàng ở tháng Giêng
- Những năm Dần Thân Tỵ Hợi thì khởi sao Nhị Hắc ở tháng Giêng

attachment.php



attachment.php


Ví dụ năm 2011 là năm Tân Mão:
- Tháng Giêng: Bát Bạch (8)
- Tháng hai: Thất Xích (7)
- Tháng ba: Lục Bạch (6)
- Tháng tự: Ngũ Hoàng (5)
- Tháng năm: Tứ Lục (4)
- Tháng sáu: Tam Bích (3)
- Tháng bảy: Nhị Hắc (2)
- Tháng tám: Nhất Bạch (1)
- Tháng chín: Cửu Tía (9)
- Tháng mười: Bát Bạch (8)
- Tháng mười một: Thất Xích (7)
- Tháng chạp: Lục Bạch (6)

Qua năm kế tiếp là năm Thìn, ta cứ việc đếm tiếp:
- Tháng Giêng: Ngũ Hoàng (5)
- Tháng hai: Tứ Lục (4)
- Tháng ba: Tam Bích (3)
......

Nếu coi lại khẩu quyết Tử Bạch Khởi Nguyệt thì thấy trùng hợp với câu quyết "Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ Hoàng Trung", tháng Giêng của năm Thìn thì sao Ngũ Hoàng nhập trung cung.

3/ Phi tinh theo Ngày :

khẩu quyết tử Bạch khởi nhật, “
Bảo Hải Kinh” viết: “Nhật gia Bách pháp bất nan cầu, Nhị thập tứ khí Lục cung chu, Đông Chí Vũ Thủy cập Cốc Vũ, dương thuận Nhất Thất Tứ Trung du, Hạ Chí Xử Thử Sương Giáng hậu. Cửu Tam Lục tinh nghịch hành cầu”.

Lại có khẩu quyết: “Đông Chí Nhất Thất Tứ, Hạ Chí Cửu Tam Lục. Dương thuận Đông Chí hậu, âm nghịch thôi Hạ Chí”.

Ghi chú:
Đông Chí Vũ Thủy cập Cốc Vũ dương thuận Nhất Thất Tứ Trung du, nghĩa là từ Đông Chí đến cuối Lập Xuân thì an Nhất (1) tại trung cung phi thuận; từ Vũ Thủy đến cuối Thanh Minh thì an Thất (7) tại trung cung phi thuận; từ Cốc Vũ đến cuối Mang Chủng thì đưa Tứ (4) vào trung cung phi thuận.

Hạ Chí Xử Thử Sương Giáng hậu. Cửu Tam Lục tinh nghịch hành cầu, nghĩa là từ Hạ Chí đến cuối Lập Thu thì an Cửu (9) tại trung cung sau đó phi nghịch; từ Xử Thử đến cuối Hàn Lộ thì an Tam (3) tại trung cung sau đó phi nghịch; từ Sương Giáng đến cuối Đại Tuyết thì an Lục (6) tại trung cung sau đó chuyển nghịch.

Cách này trước hết tra ngày theo Lục thập hoa giáp, xem ngày ấy thuộc khí nào trong Tam nguyên Cửu vận, ngày theo Lục thập hoa giáp không luận tiết mà luận khí. Ví dụ ngày Giáp Tuất sau Vũ Thủy, ắn an Vũ Thủy từ 7, khởi Giáp Tý từ 7, theo chiều thuận trên bàn tay: Ất Sửu tại 8, Bính Dần 9, Đinh Mão 1, Mậu Thìn 2, Kỷ Tỵ 3, Canh Ngọ 4, Tân Mùi 5, Nhâm Thân 6, Quý Dậu 7, Giáp Tuất 8. Biết Vũ Thủy là tính thuận, ngày Giáp Tuất là ngày 8 nhập Trung cung.

Hoặc muốn tính ngày Nhâm Thân sau Xử Thử. Vì Xử Thử chủ quản sự việc sau Hạ Chí, nên khởi tính Xử Thử từ 3, tức là lấy Giáp Tý của khí sau Xử Thử khởi từ 3, theo chiều nghịch, Ất Sửu 2, Bính Dần 1, Đinh Mão 9, Mậu Thìn 8, Kỷ Tỵ 7, Canh Ngọ 6, Tân Mùi 5, Nhâm Thân 4.

Phàm mọi tiết khí trước Đông Chí đều lấy âm nghịch Hạ Chí làm mốc tính toán; mọi tiết khí trước Hạ Chí đều lấy âm dương Đông Chí lám mốc tính toán. Theo đó, một ngày trước Đông Chí là ngày Giáp Tý, vì ngày đó chưa bước sang tiết Đông Chí, nên vẫn do khí Sương Giáng trước đó quản, vậy Giáp Tý là 6. Mà ngày Ất Sửu là ngày Đông Chí, nên Ất Sửu phải lấy Giáp Tý Đông Chí mà tính là 2.

Có người sẽ hỏi: Tính như thế có thoát tiết vì số không liên tục hay chăng? Đáp: Không hề, đây là sự khác biệt về Âm Dương, đừng nói chênh một ngày, dù chênh một phút cũng phải tính như vậy, cho nên dặn đi dặn lại người học phải thận trọng ở điểm này.

 
N

Người Lái Đò

Guest
BẢNG GIỜ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM THEO MÚI GIỜ GMT + 7

Tháng Tý (11): đầu giờ Tý là 23 giờ 10 phút (đầu giờ Ngọ là 11 giờ 10 phút)

Tháng Sửu (12) và tháng Hợi (10 ): đầu giờ Tý là 23 giờ 20 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 20 phút)

Tháng Dần (1) và tháng Tuất (9) : đầu giờ Tý là 23 giờ 30 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 30 phút)

Tháng Mão (2) và tháng Dậu ( 8): đầu giờ Tý là 23 giờ 40 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 40 phút)

Tháng Thìn (3 ) và tháng Thân (7 ): đầu giờ Tý là 23 giờ 50 phút (và giờ Ngọ là 11 giờ 50 phút)

Tháng Tỵ (4 ) và tháng Mùi (6 ): đầu giờ Tý là 0 giờ (giờ Ngọ là 12 giờ đúng)

Tháng Ngọ ( 5 ): đầu giờ Tý là 0 giờ 10 phút (và giờ Ngọ là 12 giờ 10 phút)
 
N

Người Lái Đò

Guest
TAM NGUYÊN CỬU VẬN
Một căn nhà có thể được xây dựng trên 1 mảnh đất có địa thế tốt (hoặc xấu), nhưng không phải vì thế mà nó sẽ tốt (hay xấu) vĩnh viễn, mà tùy theo biến đổi của thời gian sẽ đang từ vượng chuyển sang suy, hay đang từ suy chuyển thành vượng. Đó là lý do giải thích tại sao có nhiều gia đình khi mới vào ở 1 căn nhà thì làm ăn rất khá, nhưng 5, 10 năm sau lại bắt đầu suy thoái dần. Hay có những gia đình sau bao nhiêu năm sống trong 1 căn nhà nghèo khổ, bỗng tới lúc con cái ăn học thành tài, gia đình đột nhiên phát hẳn lên... Cho nên đối với Phong thủy Huyền Không thì không những chỉ là quan sát địa hình, địa vật bên ngoài, cấu trúc, thiết kế bên trong căn nhà, mà còn phải nắm vững từng mấu chốt của thời gian để đoán định từng giai đoạn lên, xuống của 1 trạch vận (nhà ở hay phần mộ). Nhưng thời gian là 1 chuyển biến vô hình, chỉ có đi, không bao giờ trở lại, thế thì lấy gì làm căn mốc để xác định thời gian? Để giải quyết vấn đề này, người xưa đã dùng cách chia thời gian ra thành từng Nguyên, Vận. Nguyên là 1 giai đoạn dài khoảng 60 năm hay 1 Lục thập Hoa Giáp. Mỗi Nguyên lại được chia thành 3 vận, mỗi vận kéo dài khoảng 20 năm. Mặt khác, cổ nhân còn định ra Tam Nguyên là:

- Thượng Nguyên: bao gồm 3 vận 1, 2, 3.

- Trung Nguyên: bao gồm 3 vận 4, 5, 6.
- Hạ Nguyên : bao gồm 3 vận 7, 8, 9.

Như vậy, Tam Nguyên Cửu Vận tức là 3 Nguyên: Thượng, Trung, Hạ, trong đó bao gồm 9 Vận, từ Vận 1 tới Vận 9. Tổng cộng là chu kỳ 180 năm, cứ từ Vận 1 (bắt đầu vào năm GIÁP TÝ) đi hết 3 Nguyên (tức 9 Vận) rồi lại trở về Vận 1 Thượng Nguyên lúc ban đầu. Cứ như thế xoay chuyển không ngừng. Còn sở dĩ người xưa lại dùng chu kỳ 180 năm (tức Tam Nguyên Cửu Vận) làm mốc xoay chuyển của thời gian là vì các hành tinh trong Thái Dương hệ cứ sau 180 năm lại trở về cùng nằm trên 1 đường thẳng. Đó chính là năm khởi đầu cho Vận 1 của Thượng Nguyên. Dùng đó làm mốc để tính thời gian, người ta có thể suy ra Tam Nguyên Cửu Vận gần đây nhất là:


THƯỢNG NGUYÊN:

* Vận 1: từ năm 1864- 1883
* Vận 2: từ năm 1884- 1903
* Vận 3: từ năm 1904- 1923.

TRUNG NGUYÊN :

* Vận 4: từ năm 1924- 1943
* Vận 5: từ năm 1944- 1963
* Vận 6: từ năm 1964- 1983

HẠ NGUYÊN:
* Vận 7: từ năm 1984- 200
* Vận 8: từ năm 2004- 2023
* Vận 9: từ năm 2024- 2043

Như vậy, năm 2043 là năm cuối cùng của vận 9 Hạ Nguyên. Cho nên vào năm 2044 (tức năm GIÁP TÝ) thì lại trở về vận 1 của Thượng Nguyên, cứ như thế xoay chuyển mãi không ngừng. Điều quan trọng cho những ai mới học Huyền Không phi tinh là phải biết rõ năm nào thuộc Vận và Nguyên nào. Chẳng hạn như năm 1980 là thuộc về vận 6 Trung Nguyên, vì nó nằm trong giai đoạn từ năm 1964-1983. Hoặc như năm 1991 là thuộc về vận 7 Hạ Nguyên, vì nó nằm trong giai đoạn từ năm 1984- 2003. Cho nên những nhà cửa hay phần mộ xây trong năm 1991 đều thuộc về vận 7 Hạ Nguyên, hay những nhà xây năm 1980 đều thuộc về vận 6 Trung Nguyên. Có nắm vững được điều này thì mới có thể thiết lập trạch vận cho nhà cửa hay mộ phần được
Bản Tam Nguyên Lý Khí (Sưu tầm của cụ Tri Tri )

24 Sơn, 8 Hướng trên la bàn

Hậu thiên Bát quái của Văn Vương được chia làm 8 hướng đều nhau, với mỗi hướng đi liền với một số của Cửu tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa (trung cung) nêm không có phương hướng. Đem áp đặt Hậu thiên Bát quái lên la bàn gồm 360 độ, thì mổi hướng (hay mỗi số) sẽ chiếm 45 độ trên la bàn.

Vào thời kỳ phôi phai của học thuật Phong thủy (thời nhà Chu), việc phân chia la bàn thành 8 hướng như vậy đã được kể là quá tinh vi và chính xác. Nhưng sau này, khi bộ môn Phong thủy đã có những bước tiến vượt bậc dưới thời Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và sai lệch qúa nhiều. Để cho chính xác hơn, người ta lại chia mổi hướng ra thành 3 sơn đều nhau, mổi sơn chiếm 15 độ. Như vậy trên la bàn lúc này đã xuất hiện 24 sơn. Người ta lại dùng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu-Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can) và 4 quẻ Càn-Khôn- Cấn-Tốn mà đặt tên cho 24 sơn như sau:


- Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ

- Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
- Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
- Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
- Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
- Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
- Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
- Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI

Tất cả 24 sơn trên la bàn đều được xếp theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ. Chẳng hạn như hướng BẮC có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, sơn NHÂM chiếm 15 độ phía bên trái, sơn TÝ chiếm 15 độ nơi chính giữa hướng BẮC, còn sơn QUÝ thì chiếm 15 độ phía bên phải. Tất cả các sơn khác cũng đều theo thứ tự như thế.


Mỗi sơn được xác định với số độ chính giữa như: sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;


Phần trên là tọa độ chính giữa của 24 sơn. Từ tọa độ đó người ta có thể tìm ra phạm vi của mổi sơn chiếm đóng trên la bàn, bằng cách đi ngược sang bên trái, cũng như sang bên phải của tọa độ trung tâm, mỗi bên là 7 độ 5 (vì phạm vi mổi sơn chỉ có 15 độ). Chẳng hạn như hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược sang bên trái 7 độ 5 (tức là trừ đi 7 độ 5) thì được 202 độ 5. Sau đó từ tọa độ trung tâm là 210 độ lại đi thuận qua phải 7 độ 5 (tức là cộng thêm 7 độ 5) thì được 217 độ 5. Như vậy phạm vi sơn MÙI sẽ bắt đầu từ 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5 trên la bàn.


 
N

Người Lái Đò

Guest
Chính Hướng và Kiêm Hướng

Một vấn đề làm cho người mới học Phong thủy khá bối rối là thế nào là Chính Hướng và kiêm Hướng? Thật ra, điều này cũng không khó khăn gì cả, vì khi đo hướng nhà (hay hướng mộ) mà nếu thấy hướng nhà (hay hướng mộ đó) nằm tại tọa độ trung tâm của 1 sơn (bất kể là sơn nào) thì đều được coi là Chính Hướng. Còn nếu không đúng với tọa độ tâm điểm của 1 sơn thì được coi là Kiêm Hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, rồi kiêm nhiều hay kiêm ít. Nếu kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái thì hướng nhà không được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang phạm vi của sơn bên cạnh (điều này sẽ nói rõ hơn trong phần Tam nguyên long). Nói kiêm phải hay kiêm trái là lấy tọa độ tâm điểm của mổi sơn làm trung tâm mà tính. Chẳng hạn như sơn MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu bây giờ 1 căn nhà có hướng là 215 độ thì nhà đó thuộc hướng MÙI (vì sơn MÙI bắt đầu từ khoảng 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5), nhưng kiêm bên phải 5 độ. Nhưng trong thuật ngữ Phong thủy thì người ta lại không nói kiêm phải hoặc trái, mà lại dùng tên của những hướng được kiêm để gọi nhập chung với hướng của ngôi nhà đó. Như trong trường hợp này là nhà hướng MÙI kiêm phải 5 độ, nhưng vì hướng bên phải của hướng hướng MÙI là hướng KHÔN, nên người ta sẽ nói nhà này “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ” tức là kiêm sang bên phải 5 độ mà thôi.

Riêng với vấn đề kiêm nhiều hay ít thì 1 hướng nếu chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ tâm điểm của hướng đó thì được coi là kiêm ít, và vẫn còn giữa được thuần khí của hướng. Còn nếu lệch quá 3 độ so với trung tâm của 1 hướng thì được coi là lệch nhiều, nên khí lúc đó không thuần và coi như bị nhận nhiều tạp khí. Những trường hợp này cần được dùng Thế quái (hay số thế, sẽ nói trong 1 dịp khác) để hy vọng đem được vượng khí tới hướng hầu biến hung thành cát mà thôi.
Tam nguyên long

Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên” chỉ thời gian như đã nói trong “Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi.

Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm như sau:


- THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :

* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.

- ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:

* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.

- NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:

* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
http://www.vietnambuysell.com/forum/uploads//2011-06-17_050150_tamnguyênquáiphối24sơn.JPG


Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH. (điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận ở 1 mục khác).


Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long ta sẽ thấy trong mổi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ ba Nguyên: Địa, Thiên và Nhân, theo chiều kim đồng hồ. Thí dụ như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử. Trong 3 nguyên Địa-Thiên-Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái.


- Ví dụ: Nhà hướng MÙI 205 độ. Vì hướng MÙI bắt đầu từ 202 độ 5, nên nhà hướng 205 độ cũng vẫn nằm trong hướng MÙI, nhưng kiêm sang phía bên trái 5 độ, tức là kiêm hướng ẤT 5 độ. Vì hướng MÙI là thuộc Địa nguyên long (tức Nghịch tử), chỉ có thể lấy chính hướng (210 độ) chứ không thể kiêm, cho nên trường hợp này là bị phạm xuất quái, chủ tai họa, bần tiện. Ngược lại, nếu 1 căn nhà có hướng là 185 độ, tức là hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. Vì NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải tức là kiêm Thuận tử nên nhà như thế vẫn tốt chứ không xấu. Đây là 1 trong những yếu tố căn bản và quan trọng của Huyền không Học, cần phải biết và phân biệt rõ ràng. Có như vậy mới biết được tuy 2 nhà cùng 1 trạch vận, nhưng nhà thì làm ăn khá, mọi người sang trọng, có khí phách, còn nhà thì bình thường, con người cũng chỉ nhỏ mọn, tầm thường mà thôi. Cho nên sự quý, tiện của 1 căn nhà phần lớn là do có biết chọn đúng hướng hoặc biết kiêm hướng hay không mà ra. Những điều này sẽ đuoc nói rõ hơn trong phần Lập hướng và Kiêm hướng ở 1 bài khác.

Bản Tam Nguyên Đại Quái ( Sưu tầm của cụ Tri Tri )

 
N

Người Lái Đò

Guest
PHUƠN PHÁP LẬP TINH BÀN

( HAY TRẠCH VẬN )

Muốn lập tinh bàn (hay trạch vận) cho 1 căn nhà (hay 1 ngôi mộ) thì vấn đề trước tiên là phải biết căn nhà hay ngôi mộ đó được xây dựng trong năm nào, tháng nào? Rồi dựa vào bảng Tam Nguyên Cửu Vận gần đây nhất mà xác định nhà đó thuộc vận nào? Thí dụ như 1 căn nhà được xây xong vào tháng 6 năm 1984. Nếu nhìn vào bảng Tam Nguyên Cửu Vận gần đây thì thấy Vận 7 bắt đầu từ 1984 và kết thúc vào cuối năm 2003, cho nên biết nhà đó thuộc vận 7 Hạ Nguyên.

Nhưng vấn đề xác định nhà thuộc vận nào trở nên rắc rối và phức tạp khi 1 căn nhà đã được xây xong khá lâu, sau đó được chủ nhà tu sửa hay xây lại nhiều lần. Hoặc sau khi xây xong thì căn nhà đã được đổi chủ... Đối với những căn nhà trên thì việc xác định căn nhà thuộc vận nào là phụ thuộc vào những yếu tố sau đây:


- Nếu sau khi vào ở 1 thời gian rồi chủ nhà hoặc là dỡ mái lợp lại (nếu là nhà trệt), hoặc là tu sửa quá 1/3 diện tích căn nhà, hoặc là đập đi xây mới thì căn nhà sẽ không còn thuộc về vận cũ lúc mới xây nhà hay dọn vào nhà ở nữa, mà sẽ thuộc về vận là lúc gia chủ thực hiện những việc tu sửa trên.


- Nếu căn nhà được đổi chủ (vì bán hoặc cho thuê) thì khi lập tinh bàn căn nhà cho chủ mới thì phải dựa vào thời điểm họ dọn vào nhà này ở, chứ không dựa vào thời điểm lúc xây nhà. Nếu 1 căn nhà được đổi chủ nhiều lần, thì khi lập tinh bàn cho người chủ nào thì chỉ dựa vào thời điểm người đó dọn vào căn nhà để ở là thuộc vận nào. Cũng lấy thí dụ căn nhà ở trên, xây xong và dọn vào ở tháng 6 năm 1984 nên căn nhà thuộc vận 7. Nhưng nếu vào năm 2000 người chủ đó bán nhà cho 1 người khác. Khi người này dọn vào ở trong năm đó thì trạch vận căn nhà vẫn thuộc vận 7 (vì vận 7 bắt đầu từ năm 1984 và kết thúc vào cuối năm 2003). Nếu người này ở tới năm 2005 rồi lại bán nhà đi nơi khác, thì khi người chủ mới dọn về nhà này thì trạch vận căn nhà của họ lại thuộc về Vận 8 (vì Vận 8 bắt đầu từ năm 2004 và kết thúc vào cuối năm 2023) Cho nên tùy thời điểm mà gia chủ dọn vào căn nhà là thuộc vận nào mà tính trạch vận cho họ thuộc vận đó.


- Đối với những căn nhà vừa tu sửa như trường hợp 1, vừa thay đổi chủ như trường hợp 2 thì trường hợp nào xảy ra gần nhất thì trạch vận của căn nhà sẽ thuộc về Vận đó. Cũng lấy thí dụ căn nhà xây năm 1984 (nhà thuộc vận 7), sau đó bán lại cho 1 người khác vào năm 2000 (nhà vẫn thuộc vận 7). Nhưng đến năm 2004 thì người này tu sửa nhà lại nên nhà lúc đó sẽ thuộc về vận 8. Đến khi người đó bán nhà vào năm 2005 thì căn nhà cũng vẫn thuộc vận 8 đối với chủ mới.


- Đối với những căn nhà tuy không đổi chủ hay được tu sửa, nhưng nếu chủ nhà đóng cửa đi vắng 1 thời gian từ hơn 1 tháng trở lên, đến khi họ trở về thì căn nhà sẽ thuộc về Vận vào lúc họ trở về, chứ không còn thuộc về Vận cũ nữa. Cũng lấy thí dụ nhà xây năm 1984, người chủ sau khi mua ở đó được hơn 20 năm. Tới năm 2005 người đó có công chuyện phải đi xa hơn 2 tháng mới về. Như vậy khi người này trở về nhà thì lúc đó căn nhà sẽ chuyển sang thuộc về Vận 8, chứ không còn thuộc về Vận 7 nữa.


- Đối với những căn nhà được xây hay dọn vào ở trong những năm cuối của 1 vận thì trạch vận của căn nhà thường là thộc về vận mới, chứ cũng không thuộc về vận cũ nữa. Thí dụ như những căn nhà được xây hay được dọn vào ở năm 2003, tức là năm cuối cùng của Vận 7 thì trạch vận của căn nhà sẽ thuộc về Vận 8, chứ không thuộc về Vận 7 nữa.


- Riêng với âm phần (mồ mả), thì trạch vận được tính vào lúc ngôi mộ mới được xây, hoặc lúc sau này con cháu cải táng hay tu sửa mộ bia lại. Chẳng hạn như 1 ngôi mộ được dựng lên vào năm 1987 thì thuộc Vận 7, đến năm 2006 thì con cháu xây mộ, thay bia lại thì lúc đó mộ lại thuộc về Vận 8.


Khi đã biết cách xác định nhà (hay mộ) thuộc Vận nào thì mới có thể lập tinh bàn cho căn nhà (hay phần mộ đó). Nhưng trước hết lấy 1 tờ giấy trắng vẽ 1 ô vuông lớn, sau đó chia ô vuông đó ra làm 9 ô nhỏ, với 8 ô chung quanh tiêu biểu cho 8 hướng: BẮC, ĐÔNG BẮC, ĐÔNG, ĐÔNG NAM, NAM, TÂY NAM, TÂY, và TÂY BẮC. Riêng ô giữa được coi là trung cung. Sau đó mới có thể tiến hành việc lập tinh bàn như sau:



Lập Vận bàn


Muốn lập Vận bàn thì lấy số của Vận mà căn nhà (hay ngôi mộ) đó thuộc về đem nhập trung cung, nhưng an ở trên cao và chính giữa của trung cung, rồi di chuyển THUẬN theo vòng Lượng thiên Xích.


Thí dụ nhà xây năm 1984 tức thuộc Vận 7. Như vậy, lấy số 7 nhập trung cung, sau đó theo chiều thuận an số 8 tại phía TÂY BẮC, số 9 tại phía TÂY, số 1 tại phía ĐÔNG BẮC, số 2 tới NAM, số 3 tới BẮC, số 4 tới TÂY NAM, số 5 tới ĐÔNG, số 6 tới ĐÔNG NAM. Tất cả những số đó đều được gọi là “Vận tinh” (tức phi tinh của Vận) của căn nhà này, và đều được an ở trên cao và chính giữa của mỗi cung. Điều nên nhớ khi lập Vận bàn là phi tinh chỉ di chuyển “THUẬN”, tức là từ số nhỏ lên số lớn, chứ không bao giờ đi chuyển “NGHỊCH” từ số lớn xuống số nhỏ hơn.



Lập Sơn bàn


Theo thuật ngữ Phong thủy, “Sơn” (có nghĩa là núi) dùng để chỉ khu vực phía sau nhà (tức phương “tọa”). Cho nên sau khi đã an Vận bàn thì nhìn xem số nào tới khu vực phía sau của căn nhà. Lấy số đó đem nhập trung cung, nhưng để tại góc dưới mé bên trái. Lúc này cần phải biết tọa của căn nhà thuộc sơn nào, rồi PHỐI HỢP với Tam Nguyên Long của Vận tinh tới phương tọa để quyết định di chuyển theo chiều “THUẬN” hay “NGHỊCH”.


Thí dụ như căn nhà có hướng là 0 độ thì phương tọa của căn nhà sẽ là 180 độ (vì tọa bao giờ cũng xung với hướng, tức là cách nhau 180 độ). Như vậy căn nhà này sẽ là tọa NGỌ hướng TÝ. Nếu xây năm 1984 tức thuộc Vận 7, nên lấy số 7 nhập trung cung di chuyển Thuận như đã nói ở trên thì 2 tới NAM tức phương tọa của nhà này. Bây giờ muốn lập Sơn bàn thì phải lấy số 2 nhập trung cung (để ở góc dưới mé bên trái), nhưng muốn biết nó sẽ xoay chuyển “THUẬN” hay “NGHỊCH” thì phải coi xem Tam Nguyên Long của số 2 là gì? Vì số 2 (tứcø hướng TÂY NAM) có 3 sơn là MÙI-KHÔN-THÂN, với MÙI thuộc âm và KHÔN-THÂN thuộc dương trong Tam nguyên Long. Mà tọa của căn nhà là nằm nơi phía NAM. Phía NAM cũng có 3 sơn là BÍNH-NGỌ-ĐINH. Vì trong Vận 7, số 2 tới phía NAM, nên lấy 3 sơn MÙI-KHÔN-THÂN của số 2 áp đặt lên 3 sơn BÍNH-NGỌ-ĐINH của phương này. Nhưng vì chính tọa của căn nhà là nằm tại sơn NGỌ, tức là trùng với sơn KHÔN của số 2. Vì sơn KHÔN là thuộc Dương trong Tam Nguyên Long, cho nên mới lấy số 2 nhập trung cung rồi di chuyển theo chiều “THUẬN”, tức là số 3 tới TÂY BẮC, số 4 tới TÂY, số 5 tới ĐÔNG BẮC, số 6 tới NAM, số 7 tới BẮC, số 8 tới TÂY NAM, số 9 tới ĐÔNG, số 1 tới ĐÔNG NAM. Tất cả những số này đều được gọi là “Sơn tinh” (tức phi tinh của phương tọa) của trạch vận, với sơn tinh số 6 nằm tại phương tọa (tức phía NAM) của căn nhà này. Mọi Sơn tinh đều được an tại góc phía dưới bên trái của mỗi cung, để tiện phân biệt giữa chúng với “Vận tinh” Và “Hướng tinh”.



Lập Hướng bàn


Sau khi đã lập xong “Sơn bàn” thì bắt đầu tới việc lập Hướng bàn. Việc lập Hướng bàn cũng tương tự như việc lập Sơn bàn, tức là tìm “Vân tinh” tới phía trước nhà là số nào? Lấy số đó đem nhập trung cung, nhưng để nơi góc phía dưới mé bên phải. Sau đó cũng phải xác định hướng của căn nhà là thuộc sơn nào? Rồi PHỐI HỢP với Tam nguyên Long của Vận tinh tới hướng mà quyết định di chuyển “THUẬN” hay “NGHỊCH”.


Cho nên nếu vẫn lấy thí dụ là căn nhà tọa NGỌ hướng TÝ, nhập trạch trong Vận 7 như ở trên thì sẽ thấy Vận tinh số 3 tới hướng. Vì số 3 thuộc phía ĐÔNG, gồm 3 sơn GIÁP-MÃO-ẤT, với GIÁP thuộc dương, còn MÃO- ẤT thuộc âm trong Tam Nguyên Long. Còn hướng nhà nằm về phía BẮC, cũng có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ. Đem áp đặt 3 sơn GIÁP-MÃO-ẤT của số 3 lên 3 sơn NHÂM-TÝ-QUÝ của phía BẮC, nhưng vì chính hướng của căn nhà là thuộc sơn TÝ, tức trùng với sơn MÃO của số 3. Vì sơn MÃO thuộc âm trong Tam nguyên Long, cho nên lấy số 3 nhập trung cung rồi di chuyển theo chiều ”NGHỊCH”, tức là 2 tới TÂY BẮC, 1 tới TÂY, 9 tới ĐÔNG BẮC, 8 tới NAM, 7 tới BẮC, 6 tới TÂY NAM, 5 tới ĐÔNG, 4 tới ĐÔNG NAM. Tất cả những số này đều được gọi là “Hướng tinh” (tức phi tinh của Hướng) của trạch vận, với hướng tinh số 7 nằm ở hướng, nên trong Vận 7 thì nhà này được “vượng tinh tới hướng” nên được xem là 1 nhà tốt. Tất cả những Hướng tinh đều được an tại góc phía dưới mé bên phải của mỗi cung.


Như vậy, sau khi đã lập “Vận bàn” , “Sơn bàn” và “Hướng bàn” , chúng ta sẽ xác định được vị trí của mọi Vận tinh, Sơn tinh và Hướng tinh. Đây chính là trạch vận của 1 căn nhà hay 1 phần mộ. Như vậy, 1 trạch vận gồm có 3 tinh bàn: Vận bàn, Sơn bàn và Hướng bàn. Kết hợp nó với địa thế chung quanh và cấu trúc bên trong của 1 căn nhà, người học Phong thủy Huyền Không sẽ có thể phán đoán chính xác mọi diễn biến tốt, xấu đã, đang và sẽ xảy ra cho căn nhà đó.

Sau cùng, điều mà người học Huyền KHông cần nhớ là khi muốn lập Sơn bàn hay Hướng bàn thì nếu tọa hay hướng nhà mà trùng với “sơn” DƯƠNG của Vận tinh thì di chuyển “THUẬN”, nếu trùng với “sơn” ÂM của vận tinh thì di chuyển “NGHỊCH”. Tức là sự di chuyển “THUẬN” hay “NGHỊCH” của sơn và Hướng tinh là hoàn toàn do “SƠN” của Vận tinh trùng với tọa và hướng nhà là DƯƠNG hay ÂM mà thôi. Ngoài ra, chỉ có việc lập tinh bàn cho Sơn và Hướng bàn mới có trường hợp phi tinh di chuyển theo chiều “NGHỊCH”. Còn tất cả các trường hợp khác thì phi tinh đều đi chuyển theo chiều “THUẬN” tức là từ số nhỏ lên số lớn hơn.
 
N

Người Lái Đò

Guest
Lấy ví dụ về việc lập Vận, Sớn hay Hướng Bàn.
Lấy ví dụ:
Nhà vào ở năm 2009, đo được hướng Mão, sơn Dậu
1) Lập vận bàn:
Năm 2009, thuộc vận 8, nên lấy số 8 nhập trung cung bay thuận:


2) Lập hướng bàn:

Vì Hướng Mão thuộc Phương Đông nên căn cứ vào vận bàn ta lấy số 6 nhập trung cung, muốn biết số 6 bay thuận hay nghịch ta làm như sau:
+ Số 6 là cung càn có 3 sơn Tuất Càn Hợi,
+ Hướng nhà Mão thuộc cung Chấn cũng gồm 3 sơn Giáp Mão Ất
+ Ta thấy Sơn Mão tương ứng với Sơn Càn ở Vận bàn mà sơn Càn thuộc "sơn" Dương nên số 6 phải bay Thuận
+ Như vậy phi tinh số 6 muốn biết bay thuận hay bay nghịch phải do sơn tại Vận bàn quyết định
Ta được hướng bàn như sau:


3) Lập Sơn bàn:

Vì sơn Dậu thuộc Phương Tây nên căn cứ vào vận bàn lấy số 1 nhập trung cung, muốn biết số 1 bay thuận hay nghịch ta làm như sau:
+ Số 1 thuộc cung Khảm có 3 sơn: Nhâm Tý Quý
+ Sơn Dậu thuộc cung Đoài gồm 3 sơn: Canh Dậu Tân
+ Vậy sơn Dậu tương ứng với sơn Tý của vận bàn, mà sơn Tý là "sơn" âm nên số 1 bay nghịch
+ Như vậy phi tinh số 1 muốn biết bay thuận hay bay nghịch phải do sơn tại Vận bàn quyết định
ta có sơn bàn:

Muốn biết sơn âm hay dương: Căn cứ vào bảng Tam Nguyên Long
Trường hợp Đặc biệt đối với Sơn hoặc Hướng Bàn khi có số 5 Nhập Trung Cung Thì việc quyết định Số 5 phi thuận hay nghịch là do Sơn Của Địa Bàn quyết định:
Ví dụ: Nhà ở vào năm 2010, thuộc Vận 8,

+ Nếu Nhà có sơn Sửu hướng Mùi: Khi lập Hướng Bàn có số 5 nhập trung cung ta căn cứ vào Sơn Mùi (của hướng ) là Âm nguyên long nên số 5 phi nghịch trên Lạc Thư.
+ Nếu Nhà có Sơn Cấn, Hướng Khôn: Khi lập Hướng Bàn có sô 5 nhập trung cung ta căn cứ vào sơn Khôn ( của hướng ) là Dương nguyên long nên số 5 phi thuận trên Lạc Thư
 
N

Người Lái Đò

Guest
THẾ QUÁI
Khi lập tinh bàn (hay trạch vận) của 1 căn nhà thì người ta thường hay gặp phải những căn nhà không thuần hướng (hay chính hướng, tức là hướng nhà nằm tại tâm điểm của 1 trong 24 hướng), mà lại lệch sang bên phải hoặc bên trái. Những trường hợp này còn được gọi là kiêm hướng.

Đối với Huyền không phái, nếu những căn nhà (hay phần mộ) tuy bị kiêm hướng, nhưng nếu kiêm dưới 3 độ thì vẫn có thể áp dụng phương pháp lập tinh bàn như bình thường, tức là vẫn lấy những vận tinh tới tọa và hướng, rồi tùy Tam nguyên long của nó là dương hay âm mà xoay chuyển thuận hay nghịch mà thôi. Nhưng nếu một khi mà hướng của căn nhà (hay ngôi mộ) đó kiêm quá 3 độ so với tâm của chính hướng (dù là kiêm sang bên phải hay bên trái) thì cần phải dùng Thế quái (hay số thay thế). Cho nên Thế quái thật ra chỉ là phương pháp dùng số thế cho nhửng trường hợp kiêm hướng nhiều (trên 3 độ).

Tưởng đại Hồng, một danh sư Phong thủy Huyền không dưới thời nhà Minh đã từng nói :” Xử dụng phép kiêm hướng thì cần phải dùng bí quyết KHÔN-NHÂM-ẤT”. Nhưng bí quyết KHÔN-NHÂM-ẤT là gì? Nó chính là 4 câu khẩu quyết trong “Thanh nang áo Ngữ” mà Dương quân Tùng đã viết để nói về cách dùng Thế quái như sau:

KHÔN-NHÂM-ẤT, Cự môn tòng đầu xuất,

CẤN-BÍNH-TÂN, vị vị thị Phá Quân,
TỐN-THÌN-HƠI, tận thị Vũ Khúc vị,
GIÁP-QUÝ-THÂN, Tham Lang nhất lộ hành.

Có nghĩa là:


-Với 3 hướng KHÔN-NHÂM-ẤT (xin coi lại phần 24 sơn hướng và TAM NGUYÊN LONG) thì dùng sao Cự môn (tức số 2) khởi đầu (tức nhập trung cung rồi xoay chuyển thuận, nghịch).


-Với 3 hướng CẤN-BÍNH-TÂN thì vị trí nào cũng dùng sao Phá Quân (tức sồ 7) nhập trung cung thay thế.


-Với 3 hướng TỐN-THÌN-HỢI thì dùng sao Vũ Khúc (tức số 6) nhập trung cung thay thế.


-Với 3 hướng GIÁP-QUÝ-THÂN thì dùng sao Tham Lang (tức số 1) nhập trung cung thay thế.


Lấy thí dụ như nhà hướng 185 độ tức là tọa TÝ hướng NGỌ kiêm QUÝ-ĐINH 5 độ, nhà xây và vào ở trong vận 8, nên khi an vận bàn thì có số 3 đến hướng, số 4 đến tọa. Vì kiêm quá 3 độ nên khi an sơn bàn thì không thể lấy số 4 nhập trung cung, nhưng vì số 4 có 3 sơn là THÌN-TỐN-TỴ, đem áp đặt lên phương tọa của căn nhà thì thấy sơn TỐN của số 4 trùng với tọa (tức sơn TÝ) của căn nhà này. Mà theo khẩu quyết của Dương quân Tùng thì nếu sơn TỐN kiêm độ thì phải dùng sao Vũ Khúc tức số 6 thay thế. Do đó khi lập sơn bàn thì phải lấy số 6 nhập trung cung (thay vì số 4). Kế đó mới xét vì TỐN là dương trong TAM NGUYÊN LONG, nên đem 6 vào trung cung rồi xoay theo chiều thuận là 7 tới TÂY BẮC, 8 tới TÂY, 9 tới ĐÔNG BẮC... để có được sơn bàn cho căn nhà này.


Tuy nhiên, vì trên la kinh có tới 24 sơn, trong khi khẩu quyết của Dương quân Tùng chỉ đưa ra 12 sơn trong trường hợp bị kiêm hướng, tức là ông chỉ biên ra có một nửa, còn một nửa không nhắc đến mà chỉ truyền khẩu cho hậu thế. Vì vậy, người nào được truyền đều tự cho là gia bảo, là “bí mật của mọi bí mật” của Phong thủy Huyền Không. Đến cuối đời nhà Minh, khi Khương Diêu đưa cho Tưởng đại Hồng hai ngàn lượng bạc để Tưởng đại Hồng mai táng cho cha, ông mới được họ Tưởng truyền hết khẩu quyết. Nhưng Khương Diêu cũng dấu kín bí mật này, nên không ai có thể biết hay hiểu được những khẩu quyết của Dương quân Tùng, trừ khi được chân truyền mà thôi. Mãi đến cuối đời nhà Thanh, danh sư Chương trọng Sơn được đích truyền của Huyền không phái mới biên sách để truyền lại cho con cháu, trong đó có nói đến cách dùng Thế quái. Việc này đến tai Thẩm trúc Nhưng, lúc đó cũng đang cố công tìm kiếm, học hỏi về Huyền KHông. Ông bèn bỏ ra một ngàn lạng bạc mượn sách của Chương trọng Sơn trong 1 đêm để ghi chép hết lại. Nhờ vậy mà ông mới biết hết bí quyết của Thế quái mà đặt ra bài “Thế quái ca quyết” sau đây:


"TÝ, QUÝ tịnh GIÁP, THÂN, Tham Lang nhất lộ hành,

NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, ngũ vị vi Cự Môn,
CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, liên TUẤT Vũ Khúc danh,
DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH, thiên tinh thuyết Phá Quân,
DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH thượng, Hữu Bật tứ tinh lâm,
Bản sơn tinh tác chủ, phiên hướng trục hào hành,
Liêm Trinh quy ngũ vị, chư tinh thuận, nghịch luân,
Hung, cát tùy thời chuyển, Tham-Phụ bất đồng luận,
Tiện hữu tiên hiền quyết, không vị kỵ lưu thần,
Phiên hướng phi lâm BÍNH, thủy khẩu bất nghi ĐINH,
Vận thế tinh bất cát, họa khởi chí diệt môn,
Vận vượng tinh cách hợp, bách phúc hựu thiên trinh,
Suy, vượng đa bằng thủy, quyền ngự giá tại tinh,
Thủy kiêm tinh cộng đoán, diệu dụng cánh thông linh."

Tạm dịch:


TÝ, QUÝ cùng GIÁP, THÂN, đi 1 đường với Tham Lang (số 1),

NHÂM, MÃO, ẤT, MÙI, KHÔN, 5 vị trí dùng sao Cự Môn (số 2),
CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, TUẤT liên tiếp dùng sao Vũ Khúc (số 6),
DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH là những vị trí của sao Phá Quân (số 7),
DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH sẽ được sao Hữu Bật bay tới (số 9),
Sao của bản sơn làm chủ, sao của hướng vận hành,
Liêm Trinh (số 5) mà tới 5 vị trí này thì phải tính sự thuận, nghịch của các sao.
Hung, cát chuyển vận tùy theo thời, Tham-phụ sẽ di chuyển trái ngược nhau,
Theo khẩu quyết của tiên hiền, phải xa lánh tuyến vị Không vong,
Nếu hướng tinh không ở vị trí BÍNH, thì thủy khẩu không thể ở vị trí ĐINH.
Gặp lúc thế tinh xấu có thể làm tan cửa nát nhà,
Lúc thế tinh là vượng tinh thì trăm điều lành sẽ tới,
Suy hay vượng là căn cứ vào thủy, quyền hành đều do sao quyết định,
Hợp thủy với sao mà đoán là cách hay nhất để đoán biết mọi việc.

Dựa vào bài “Thế quái ca quyết” đó của Thẩm trúc Nhưng, chúng ta có thể tóm lược lại như sau:


- TÝ, QUÝ, GIÁP, THÂN dùng số 1 nhập trung.

- KHÔN, NHÂM, ẤT, MÃO, MÙI dùng số 2 nhập trung.
- TUẤT, CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ dùng số 6 nhập trung.
- CẤN, BÍNH, TÂN, DẬU, SỬU dùng số 7 nhập trung.
- DẦN, NGỌ, CANH, ĐINH dùng số 9 nhập trung.

Tuy nhiên nếu để ý kỹ thì ta sẽ thấy trong 24 sơn thì chỉ có 13 sơn là dùng Thế quái, còn lại 11 sơn không dùng, cụ thể là:


- Cung KHẢM “NHÂM-TÝ-QUÝ” thuộc Nhất Bạch (Tham Lang), trừ NHÂM dùng Thế quái thành Nhị Hắc (Cự Môn), TÝ-QUÝ vẫn dùng Nhất bạch, tức không dùng Thế quái.


- Cung KHÔN “MÙI-KHÔN-THÂN” thuộc Nhị Hắc (Cự Môn), trừ THÂN dùng Thế quái thành Nhất Bạch (Tham Lang), MÙI-KHÔN vẫn dùng Nhị Hắc, tức không dùng Thế quái.


- Cung CHẤN “GIÁP-MÃO-ẤT” thuộc Tam Bích (Lộc Tồn), nhưng GIÁP dùng Nhất Bạch làm Thế Quái, còn MÃO-ẤT thì dùng Nhị Hắc làm Thế quái.


- Cung TỐN “THÌN-TỐN-TỴ” thuộc Tứ Lục (Văn Khúc), nhưng cả 3 đều dùng Lục Bạch (Vũ Khúc) làm Thế quái.


- Cung CÀN “TUẤT-CÀN-HỢI” thuộc Lục bạch (Vũ Khúc), nhưng cả 3 đều dùng Lục Bạch tức không dùng Thế quái.


- Cung ĐOÀI “CANH-DẬU-TÂN” thuộc Thất Xích (Phá Quân), trừ CANH dùng Cửu Tử (Hữu Bật) làm Thế quái, còn DẬU-TÂN vẫn dùng Thất Xích (Phá Quân), nên không dùng Thế quái.


- Cung CẤN “SỬU-CẤN-DẦN” thuộc Bát Bạch (Tả Phù), nhưng SỬU-CẤN dùng Thất Xích (Phá Quân) làm Thế quái, còn DẦN dùng Cửu Tử (Hữu Bật) làm Thế quái.


- Cung LY “BÍNH-NGỌ-ĐINH” thuộc Cửu Tử (Hữu Bật), trừ BÍNH dùng Thất Xích (Phá Quân) làm Thế quái, còn NGỌ-ĐINH vẫn dùng Cửu Tử (Hữu Bật) tức không dùng Thế quái.

attachment.php


Cho nên với bài “Thế quái ca quyết” của Thẩm trúc Nhưng, chúng ta có thể biết sơn nào (trong 24 sơn) có thể dùng Thế quái. Do đó, trở về với thí dụ ở trên, nhà hướng 185 độ (tức tọa TÝ hướng NGỌ kiêm QUÝ-ĐINH 5 độ), nhập trạch trong Vận 8 nên có Vận tinh số 3 tới phía trước (hướng). Nếu chỉ dựa vào 4 câu khẩu quyết của Dương quân Tùng trong “Thanh nang Áo Ngữ” thì chúng ta không biết Vận tinh này có thể dùng Thế quái hay không. Nhưng với bài “Thế quái ca quyết” thì chúng ta thấy số 3 gồm có 3 sơn là GIÁP-MÃO-ẤT, nếu đem áp đặt lên 3 sơn BÍNH-NGỌ-ĐINH nơi đầu hướng của căn nhà này thì sẽ thấy sơn MÃO của số 3 trùng với Hướng (tức sơn NGỌ) của căn nhà. Theo ca quyết thì sơn MÃO dùng Nhị Hắc làm Thế quái, nên lấy số 2 (tức sao Nhị Hắc) nhập trung cung. Vì MÃO thuộc âm (trong Tam nguyên Long), cho nên lấy số 2 nhập trung cung rồi xoay theo chiều “Nghịch” , tức 1 tới TÂY BẮC, 9 tới TÂY, 8 tới ĐÔNG BẮC... Cũng chính vì điều này mà trong ca quyết mới có câu “sao của bản sơn làm chủ, sao của hướng vận hành”. Chữ “làm chủ” ở đây có nghĩa là quyết định sự di chuyển Thuận hay Nghịch, còn “sao của hướng” tức là Thế quái vận hành.

Một trường hợp khác là khi an vận bàn thì vận tinh số 5 sẽ đến tọa hay hướng của 1 căn nhà. Vì số 5 không có phương hướng, cũng không có Thế quái, cho nên khi gặp những trường hợp này thì chỉ cần coi xem phương tọa hay hướng của căn nhà thuộc sơn gì, và là dương hay âm trong Tam nguyên long, rồi vẫn lấy số 5 nhập trung cung mà xoay chuyển THUẬN hay NGHỊCH theo với sơn tọa hoặc hướng của căn nhà mà thôi. Lấy thí dụ như nhà hướng 185 độ tức là tọa TÝ hướng NGỌ kiêm ĐINH-QUÝ 5 độ, xây xong và vào ở trong vận 1. Nếu an Vận bàn thì lấy số 1 nhập trung cung, xoay theo chiều thuận thì 2 đến TÂY BẮC, 3 đến TÂY, 4 đến ĐÔNG BẮC, 5 đến NAM... Vì nhà này kiêm hướng, nhưng do 5 không có Thế quái, cũng không có phương hướng, nên vẫn dùng hướng chính của căn nhà là hướng NGỌ, thuộc âm trong Tam nguyên Long, nên vẫn lấy số 5 nhập trung cung xoay NGHỊCH mà an Hướng bàn cho căn nhà này.

Một điềm quan trọng khác là có những căn nhà tuy kiêm hướng nhiều, nhưng những vận tinh tới tọa và hướng đều không dùng Thế quái. Về vấn đề này thì nhiều nhà Phong thủy cho là cách cục không tốt, nên dù nhà có đắc vượng tinh tới hướng cũng vẫn có tai họa. Họ cho rằng vì nhà đã kiêm hướng tức là cần phải có Thế quái, nếu như không có thì dù có đắc vượng tinh tới hướng cũng chỉ là miễn cưỡng, hoặc vượng tinh không có đủ uy lực phù trợ cho căn nhà đóï. Nhưng qua thực tế kiểm chứng thì lại thấy những nhà này vẫn phát phúc, công việc và tài lộc của người sống trong nhà vẫn tốt đẹp. Điều này có thể dẫn đến kết luận là dù nhà kiêm hướng, nhưng nếu không có Thế quái mà đắc vượng tinh tới hướng cũng vẫn tốt đẹp như những nhà đắc vượng tinh khác mà thôi. Lấy thí dụ như nhà hướng 320 độ, tức tọa TỐN hướng CÀN kiêm TỴ-HỢI 5 độ, xây và vào ở trong vận 8. Nếu lập Vận bàn thì 8 nhập trung cung, 9 tới TÂY BẮC tức hướng nhà. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì trước tiên xem hướng nhà trùng với sơn nào của số 9. Vì nhà hướng CÀN, trùng với sơn NGỌ của số 9. Mà theo bài “Thế quái ca quyết” thì NGỌ vẫn dùng Cửu Tử (tức số 9), tức là không dùng Thế quái. Vì NGỌ thuộc âm trong Tam nguyên Long nên lấy số 9 nhập trung cung xoay NGHỊCH thì 8 đến TÂY BẮC tức đến hướng. Vì đang trong vận 8 mà được hướng tinh 8 tới Hướng nên nhà này thuộc cách đắc vượng tinh tới hướng. Đây là 1 cách tốt, mặc dù là nhà kiêm hướng nhiều mà vẫn không có Thế quái để dùng.

P/s: Lý thuyết về Thế quái là vậy nhưng hiện nay rất nhiều người cho rằng khẩu quyết của Dương Quân Tùng không phải nói về Thế Quái mà nói về việc ai tinh ( tức là là phi tinh ).

Thanh Nang Áo Ngữ


Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất (1).


Cấn Bính Tân, vị vị thị Phá Quân (2).


Tốn Thìn Hợi, tận thị Vũ Khúc vị (3).


Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ hành (4).


Tả vi dương, Tý Quý chí Hợi Nhâm (5).


Hữu vi âm, Ngọ Đinh chí Tị Bính (6).


Thư dự Hùng, giao hội hợp nguyên không (7).


Hùng dự Thư, nguyên không quái nội thôi (8).


Sơn dự Thủy, tu yếu minh thử lí (9).


Thủy dự Sơn, họa phúc tận tương quan (10).


Minh huyền không, chỉ tại Ngũ Hành trung (11).


Tri thử pháp, bất tu tầm Nạp Giáp (12).


Điên điên đảo, Nhị thập tứ sơn hữu châu bảo (13).


Thuận nghịch hành, Nhị thập tứ sơn hữu hỏa khanh (14).


Nhận kim long, Nhất kinh nhất vĩ nghĩa bất cùng (15).


Động bất động,




Trực đãi cao nhân thi diệu dụng (16).


Đệ nhất nghĩa,
Yếu thức long thân hành dự chỉ (17).


Đệ nhị ngôn,
Lai mạch Minh Đường bất khả thiên (18).


Đệ tam pháp,
Truyền tống công tào bất cao áp (19).


Đệ tứ kì,
Minh Đường thập tự hữu nguyên vi (20).


Đệ ngũ diệu,
Tiền hậu Thanh Long lưỡng tương chiếu (21).


Đệ lục bí,
Bát quốc Thành Môn tỏa chánh khí (22).


Đệ thất áo,
Yếu hướng Thiên Tâm tầm thập đạo (23).


Đệ bát tài,
Khuất khúc lưu thần nhận lai khứ (24).


Đệ cửu thần,
Nhâm tha bình địa dự thanh vân (25).


Đệ thập chân,
Nhược hữu nhất khuyết phi chân tình (26).


Minh đảo trượng,
Quái tọa âm dương hà tất tưởng (27).


Thức chưởng mô,
Thái cực phân minh tất hữu đồ (28).


Tri hóa khí,
Sanh khắc chế hóa tu thục kí (29).


Thuyết ngũ tinh,
Phương viên tiêm tú yếu phân minh (30).


Hiểu cao đê,
Tinh phong tu biện đắc nguyên vi (31).


Quỷ dự diệu,
Sanh tử lai khứ chân yếu diệu (32).


Hướng phóng thủy,
Sanh vượng hữu cát hưu tù phủ (33)


Nhị thập tứ sơn phân ngũ hành (34),



Tri đắc vinh khô tử dự sanh (35).


Phiên thiên đảo địa đối bất đồng (36),


Kì trung mật bí tại huyền không (37).


Nhận long lập huyệt yếu phân minh (38),


Tại nhân tử tế biện thiên tâm (39).


Thiên tâm kí biện huyệt hà nan (40),


Đãn bả hướng trung phóng thủy khán (41).


Tòng ngoại sanh nhập danh vi tiến (42),


Định tri tài bảo tích như sơn (43).


Tòng nội sanh xuất danh vi thoái (44),


Gia nội tiễn tài giai phế tận (45).


Sanh nhập khắc nhập danh vi vượng (46),


Tử tôn cao quan tận phú quý (47).


Mạch tức sanh vượng yếu tri nhân (48),


Long hiết mạch hàn tai họa xâm (49).


Tung hữu tha sơn lai cứu trợ (50),


Không (gian) lao lộc mã hộ long hành (51).


Khuyến quân tái bả tinh thần biện (52),


Cát hung họa phúc như thần kiến (53).


Thức đắc thử thiên chân vi diệu (54),


Hựu kiến Quách Phác tái xuất hiện (55).
 
N

Người Lái Đò

Guest
Bản chú giải do hội viên HieuK thực hiện đã được cụ Tri Tri cho ý kiến:
"
Chú giải:
Áo: sâu xa khó hiểu; ngữ: nói, câu nói
nhà Đường (618-907)
(1-4) Ai tinh ngũ hành: Tham Lang (1), Cự Môn (2), Lộc Tồn (3), Văn Khúc (4), Liêm Trinh (5), Vũ Khúc (6), Phá Quân (7), Tả Phụ (8), Hữu Bật (9).
(7) nguyên không tức là huyền không
(8) thôi: đẩy lên, tiến cử, chọn lẩy
(9) tu: nên, cần phải có; yếu: mong ước, cầu, thiết yếu, xét; thử: vậy
(12) Tri: nhận biết; Nạp Giáp ? Đường sử tăng Nhất Hành tác “Quái Lệ”: Kiền nạp Giáp, Khôn nạp Ất, Tốn nạp Tân, Cấn nạp Bính, Đoài nạp Đinh, Chấn nạp Canh, Li nạp Nhâm, Khảm nạp Quý.
(13) Điên điên đảo: phi tinh ?; châu bảo: châu báu; Trong 24 Sơn, mỗi Sơn đều có chỗ gặp châu báu tạo cơ may.
(14) hỏa khanh: hố lửa; Trong 24 Sơn, mỗi Sơn đều có chỗ gặp phải hố lửa khiến ra xui
(15) Nhận kim long: Nhận ra vô hình khí tốt (tức tùy thời); 1 đường dọc và 1 đường ngang (+) nghĩa không cùng.
(16) long động là sống và bất động là chết; trực đãi: đợi ngay; thi diệu dụng: thực hiện công dụng hay
(17)long thân: mình rồng; dự: đều, cùng; chỉ: dừng, chỉ như thế
(18) Lai mạch: mạch đến (về); thiên: lệch, nghiêng
(19) tống: đưa đi, tiễn ra; công: lễ tang; tào: bên đối; áp: đè nén
(20) Minh Đường: danh từ kép chỉ cái sân giữa; thập tự: chữ thập (+); vi: mầu nhiệm, nhỏ, giấu không cho ai biết;
(21) Thanh Long: danh từ kép chỉ giải (vùng) đất bên tay trái khi đứng nhìn ra phía trước.
(22) Thành Môn (cổng thành): danh từ kép chỉ về cách dùng "khí khẩu" trong Thủy Pháp
(23) Thiên Tâm: điểm chính giữa


 
N

Người Lái Đò

Guest
[FONT=Verdana, Arial, Tahoma, Calibri, Geneva, sans-serif]VƯỢNG SƠN VƯỢNG HƯỚNG[/FONT]
Sau khi đã thiết lập được tinh bàn (hay trạch vận) cho 1 căn nhà thì điều trước tiên là phải xác định được những khu vực nào có sinh –vượng khí, cũng như những khu vực nào có suy - tử khí của căn nhà đó. Điều này cũng rất dễ dàng, vì chỉ cần căn cứ vào thời điểm lúc đang coi Phong thủy cho căn nhà là thuộc vận nào, rồi lấy vận đó làm chuẩn mốc. Kế đó nhìn vào hết 9 cung của trạch bàn. Hễ thấy cung nào có Hướng tinh cùng 1 số với đương Vận (tức vận hiện tại) thì khu vực đó được xem là có VƯỢNG KHÍ. Những cung nào có 2 số tiếp theo sau vượng khí thì được xem là có SINH KHÍ. Những cung nào có số trước số của vượng khí thì bị coi là có SUY KHÍ. Còn những cung nào có những số trước vượng khí từ 2 số trở lên thì đều bị coi là có TỬ KHÍ. Những điều này được áp dụng cho cả Hướng tinh lẫn
Sơn tinh, còn Vận tinh thì không mấy quan trọng nên không cần phải xét tới.
Cho nên sự biến đổi của Sơn, Hướng tinh: từ Sinh-Vượng thành Suy-Tử, rồi từ Suy-Tử trở thành Sinh-Vượng là điều mà người học Huyền Không cần để ý, và nó cũng là 1 trong những yếu tố giúp cho việc giải đoán Phong thủy thêm phần linh hoạt và uyển chuyển, chính xác hơn.

Sau khi đã phân biệt Cửu khí thành SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ cho mỗi vận thì mới xét tới mức độ ảnh hưởng của chúng như sau:

- SINH KHÍ: có tác dụng tốt, tuy ảnh hưởng lâu dài và trong tương lai, nhưng cũng cần được phát huy.


- VƯỢNG KHÍ: có tác dụng tốt đẹp và mau chóng, nhất là trong lúc còn đương vận, cho nên cần được phát huy càng sớm càng tốt.


- SUY KHÍ: vì chỉ là khí suy nên tác dụng cũng chưa đến nổi xấu lắm (ngoại trừ các khí 2, 5, 7) cho nên tuy cần phải né tránh nhưng cũng không phải là tuyệt đối.


- TỬ KHÍ: là những khí xấu cần phải né tránh, nếu không sẽ có tai họa về nhân sự, sức khỏe hoặc tiền bạc.


Kế đó lại còn phải phân biệt những khí SINH-VƯỢNG-SUY-TỬ đó là Sơn tinh hay Hướng tinh. Nếu là Sơn tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến nhân sự (số lượng người nhiều, ít, tài giỏi hay không...trong nhà). Nếu là Hướng tinh thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe và tài lộc của gia đình đó.
attachment.php



Trong “Thiên ngọc kinh Ngoại thiên” của Dương công Chẩm có viết: “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không chỉ có nghĩa là “núi”, mà còn là Sơn tinh của 1 trạch vận. Cũng như chữ “Thủy” không chỉ có ý nghĩa là “sông nước”, mà còn là Hướng tinh (do quan niệm phương tọa cần có núi, phía trước cần có thủy). Cho nên Sơn tinh chủ về nhân đinh, còn Hướng tinh chủ về tài lộc.

Vì đã gọi là “Sơn”, nên Sơn tinh nếu muốn phát huy tác dụng (hay đắc cách) thì cần phải có núi cao (hay nhà hoặc cây cao...). Vì đã gọi là “Thủy”, nên Hướng tinh nếu muốn phát huy tác dụng thì cần phải gặp nước (thủy). Nhưng không phải Sơn tinh nào cũng cần phải gặp núi, mà chỉ có những Sơn tinh đang là khí Sinh, Vượng mà thôi. Chẳng hạn như trong vận 1 thì các Sơn tinh 1 (vượng khí), 2, 3 (sinh khí) đóng ở khu vực nào thì cần có núi hay nhà cao ở tại khu vực đó. Có như vậy thì gia đình đó nhân đinh đông đúc, lại chủ xuất hiện người tài giỏi, có danh, có tiếng. Ngược lại, những khu vực có những Sơn tinh là Suy khí hay Tử khí thì lại cần thấp, trống hay bằng phẳng. Nếu tại những khu vực đó mà có núi hay nhà cao... thì sẽ có tai họa về nhân đinh như hiếm người, con cái khó lấy chồng, lấy vợ, hoặc trong nhà xuất hiện cảnh chia ly, góa bụa, cô quả...


Đó chỉ là riêng đối với các trường hợp khí SINH, VƯỢNG, SUY, TỬ của Sơn tinh. Còn đối với các trường hợp của Hướng tinh cũng thế. Tuy rằng Hướng tinh cần có Thủy, nhưng chỉ những khu vực nào có Sinh khí hay Vượng khí của Hướng tinh mới cần có Thủy như sông, hồ, ao, biển hoặc buồng tắm, nhà vệ sinh, đường xá, cửa ra vào... Nếu được như thế thì tài lộc dồi dào, của cải sung túc, công việc làm ăn ổn định... Ngược lại, nếu những khu vực có Suy, Tử khí của Hướng tinh mà lại có “THỦY” thì nhà đó tài lộc túng thiếu, dễ bị hao tán tiền của, công ăn việc làm lụn bại...

Nếu lập Trạch vận thì sẽ thấy các Hướng tinh 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) ở các khu vực phía ĐÔNG BẮC, TÂY và TÂY BẮC. Cho nên những khu vực này (bên trong hay bên ngoài nhà) cần có thủy của sông hồ, ao biển, buồng tắm, cửa ra vào ... Còn khu vực phía NAM có hướng tinh 7 (Suy khí) nên không nên có thủy, nếu có tất nhà sẽ dễ bị trộm cướp quấy phá. Những khu vực còn lại cũng toàn là Tử khí của Hướng tinh nên đều không nên có thủy hoặc cửa ra vào.

Kế đó lại xét tới những trường hợp của các Sơn tinh. Vì các Sơn tinh số 8 (Vượng khí), 9, 1 (Sinh khí) nằm tại các khu vực phía TÂY NAM, BẮC và NAM, nên nếu những khu vực này mà có núi hay nhà cao... thì nhà này sẽ đông con, nhiều cháu, con cái tài giỏi, nên người... Các khu vực còn lại thì chỉ toàn là Suy khí hay Tử khí của Sơn tinh, nên nếu có núi hay nhà cao tất sẽ làm phương hại tới nhân đinh của căn nhà này.


Sau khi đã biết và phân biệt được những yếu tố trên rồi mới có thề xét tới trường hợp cơ bản đầu tiên của Phong thủy Huyền Không là Vượng sơn, Vượng hướng. Như chúng ta đã biết, Phong thủy bắt đầu từ Hình tượng, rồi sau này mới phát triển lên tới Lý khí và Vận số. Mà Hình tượng phái (tức Loan đầu phái) thường chủ trương nhà cần có núi bao bọc, che chở nơi phía sau (Huyền Vũ), còn phía trước thì cần phải trống thoáng, có sông, hồ phản chiếu ánh sáng để tích tụ Long khí (Chu Tước), đồng thời có cửa ra vào để hấp thụ Long khí. Còn đối với Phong thủy Huyền không thì khi cất nhà phải chọn hướng như thế nào cho Vượng khí của Hướng tinh tới Hướng (tức phía trước), còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau. Phối hợp giữa Hình tượng với Lý khí (tức phi tinh) thì nhà này sẽ có Vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, đắc Thủy của sông hồ, lại có lối ngõ, cửa nẻo vào nhà nên tài lộc đại vượng. Còn Vượng khí của Sơn tinh tới phía sau gặp núi nên chủ vượng nhân đinh, con cháu đông đúc, nhân tài xuất hiện nên là cách cục “phúc lộc song toàn”. Cho nên Vượng Sơn, Vượng Hướng (còn gọi là ĐÁO SƠN, ĐÁO HƯỚNG, vì vượng khí của Sơn tinh tới tọa, vượng khí của Hướng tinh tới hướng) là cách cục cơ bản của Phong thủy và Huyền Không. Những nhà có cách cục như vậy còn được gọi là những nhà có “Châu bảo tuyến” (hướng nhà quý như châu báu). Điểm quan trọng của những trường hợp này là giữa hình thế bên ngoài (Loan đầu) và phi tinh có sự tương phối thích hợp. Ngược lại, nếu 1 căn nhà phía trước cũng có sông hồ, phía sau cũng có núi cao. Nhưng do việc chọn hướng không thích hợp, hoặc do xây dựng không đúng lúc mà khi lập Trạch vận thì Vượng khí của Sơn tinh lại tới hướng (phía trước), còn vượng khí của Hướng tinh lại tới tọa (phía sau) thì tuy hình thế chung quanh của ngôi nhà là tốt, nhưng do không ứng hợp được với phi tinh nên lại chủ phá tài, tổn đinh, tan cửa nát nhà mà thôi. Đây còn gọi là cách cục “Thượng sơn, Hạ thủy” sẽ nói ở 1 phần khác.


Một điểm cần chú ý trong cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng" (hay "Đáo Sơn, Đáo Hướng”) này là tuy trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường coi những nhà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, còn vượng khí của Sơn tinh tới phía sau nhà là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”. Nhưng điều quan trọng là ngoại hình bên ngoài của căn nhà (Loan đầu) có phù hợp với vượng khí của Sơn và Hướng tinh hay không? Nếu phù hợp thì mới thật sự là cách cục “vượng Sơn, vượng Hướng”, và nhà mới phát phúc, phát lộc. Còn nếu ngoại hình không phù hợp thì sẽ biến thành cách cục “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mà gây ra hung họa đầy dãy. Nhưng thế nào là phù hợp hay không phù hợp? Như chúng ta đã biết, Sơn tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có núi cao. Còn Hướng tinh mà muốn đắc cách thì phải đóng ở những khu vực có Thủy như sông biển hoặc đường đi hay cửa nẻo ra vào nhà... Cho nên những nhà mà có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước thì còn đòi hỏi khu vực phía trước của nhà đó phải trống, thoáng, có thủy hay đường đi, cửa ra vào... Còn vượng khí của Sơn tinh đến phía sau cũng đòi hỏi khu vực phía sau nhà có núi hay nhà cao... Có như thế mới được coi là thật sự đắc cách “Đáo Sơn, Đáo Hướng” mà đinh, tài đều vượng. Ngược lại, nếu như nhà đó có vượng khí của Hướng tinh tới phía trước, nhưng phía trước nhà lại có núi hay nhà cao, hoặc bị gò đất nhô lên, hay bị cây cối rậm rạp, um tùm che chắn... tức là vượng khí của Hướng tinh không gặp “Thủy” mà lại gặp “Sơn”. Còn vượng khí của Sơn tinh tuy tới phía sau, nhưng phía sau nhà lại không có núi hay nhà cao, mà lại có sông, hồ, ao, biển, hoặc cống rãnh..., tức là vượng khí của Sơn tinh không gặp “Sơn” mà lại gặp “Thủy”. Đó đều là những cách cục suy bại về tài lộc và nhân đinh. Cho
nên mới nói giữa phi tinh và ngoại hình Loan đầu bên ngoài phải có sự phù hợp là như vậy. Nếu phù hợp thì mới thật sự là “vượng”, và mọi sự mới được tốt đẹp. Còn nếu như trái ngược (tức không phù hợp) thì dù có “vượng” cũng sẽ thành “suy” và phát sinh ra muôn vàn tai họa. Đây là điều mà người học Huyền không cần phải ghi nhớ.
 
N

Người Lái Đò

Guest
THƯỢNG SƠN, HẠ THỦY​

“Thanh nang Tự” viết: “Long thần trên núi không được xuống nước, Long thần dưới nước không được lên núi”. Đây là 1 nguyên lý trọng yếu của Huyền Không, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “then chốt của cát, hung, họa, phúc”.

Như chúng ta đã biết “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không những chỉ nói về “Núi”, mà còn dùng để ám chỉ những phi tinh của Sơn bàn (tức Sơn tinh). Cũng như chữ “Thủy” ở đây không những chỉ nói về “Nước”, mà còn dùng để ám chỉ những phi tinh của Hướng bàn (tức Hướng tinh). Cho nên Sơn tinh chủ về nhân đinh, Hướng tinh chủ về tài lộc. Chính vì thế nên khí sinh, vượng của Sơn tinh cần đóng tại những nơi có núi hay gò đất cao, hay những nơi có nhà cửa, cây cối cao lớn. Như thế là những cách cuộc Sơn tinh đắc cách, chủ người trong nhà tài giỏi, đông đúc, thành công sớm, tên tuổi vang dội... Còn khí sinh, vượng của Hướng tinh thì cần đóng tại những nơi có sông, hồ, ao, biển, đường rộng, ngã ba, ngã tư hay cửa ra vào... Đó là những cách cuộc Hướng tinh đắc “Thủy”, nên tài lộc của gia đình sẽ không bao giờ thiếu, công việc làm ăn ổn định...


Ngược lại, nếu những nơi có khí sinh, vượng của Sơn tinh lại không có núi hay nhà cao, cây cao, nhưng lại có Thủy của sông, hồ, ao, biển, hoặc là những vùng thấp, trũng... thì sẽ chủ gia đình ly tán, cô quả, tuyệt tự hoặc yểu chiết... Cho nên mới nói “Long thần trên núi không được xuống nước”. Chữ “Long thần trên núi” thực ra là để ám chỉ Sơn tinh. Sơn tinh nếu là khí sinh, vượng so với đương vận thì không thể đóng tại những nơi thấp, trũng hoặc có nước (hạ thủy), kẻo nếu không thì sẽ có tai họa cho nhân đinh.


Tương tự như thế, nếu những nơi có khí sinh, vượng của Hướng tinh lại không có Thủy của sông, hồ, ao, biển, đường đi hoặc cửa ra vào..., nhưng lại có núi hay nhà cao, cây cao thì sẽ chủ tài lộc khó khăn, công việc làm ăn lụn bại, gia cảnh lầm than, sa sút. Cho nên mới nói “Long thần dưới nước không được lên núi”. Chữ “Long thần dưới nước” là để ám chỉ Hướng tinh. Hướng tinh nếu là khí sinh, vượng so với đương vận thì không thể đóng tại những nơi cao ráo hoặc có núi đồi (thượng sơn), kẻo nếu không sẽ có tai họa về tiền bạc. Đây chính là cách cuộc “Thượng sơn, Hạ thủy” trong Huyền không học.


Thí dụ: nhà tọa Sửu hướng Mùi, nhập trạch trong vận 8. Nếu lập trạch vận thì sẽ thấy tinh bàn của căn nhà như sau:



http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ10.jpg

Trước hết xét về Sơn tinh, ta thấy các khu vực TÂY, TÂY BẮC và ĐÔNG BẮC của căn nhà này có các số 9, 1, và 8, tức là những sinh, vượng khí của Sơn tinh (so với đương vận, tức vận 8). Nếu những khu vực này chỉ toàn là sông, hồ, hoặc đường đi, chứ không có núi hay nhà cao thì nhà này đã phạm cuộc “Hạ thủy”, chủ nhân đinh suy bại. Sau đó, lại xét về Hướng tinh, ta thấy các khu vực phía BẮC, NAM và TÂY NAM có các số 9, 1 và 8, tức là những sinh, vượng khí của Hướng tinh trong vận 8. Nếu những khu vực này không có Thủy, mà lại có núi đồi hay nhà cao, cây cao, thì căn nhà này còn phạm thêm cuộc “Thượng sơn”, chủ suy bại cả về tài lộc nữa.


Cũng tương tự như những trường hợp “vượng Sơn, vượng Hướng” (hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”) là trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường cho những nhà có vượng tinh của Hướng đến tọa, vượng tinh của Sơn đến hướng là thuộc cách cuộc “Thượng sơn, Hạ thủy”, và gọi những nhà lập trạch vận theo những hướng đó là những nhà có “Hỏa Khanh tuyến” (tức hướng xấu hay bần tiện). Nhưng trên thực tế thì còn phải tùy thuộc vào bối cảnh Loan đầu bên ngoài của căn nhà đó như thế nào rồi mới có thể kết luận là nhà đó có bị “Thượng sơn, Hạ thủy” hay không được.


Thí dụ: nhà tọa Khôn hướng Cấn, xây và vào ở (nhập trạch) trong vận 8. Nếu lập trạch vận thì tinh bàn căn nhà sẽ như sau:





http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ11.jpg

Trước hết xét về Sơn tinh, ta thấy khu vực ĐÔNG BẮC có Sơn tinh 8, tức là vượng khí của Sơn tinh tới hướng, nên trên lý thuyết là phạm cuộc “Hạ thủy” (vì vượng tinh của Sơn tới hướng (phía trước nhà). Nhưng nếu khu vực này không có sông, hồ, ao, biển, mà lại có núi đồi hay nhà cao, thì vượng khí của Sơn tinh nhà này đã đắc cách, tức là đóng tại chỗ có cao sơn thực địa, cho nên trong nhà nhân đinh vẫn đông đúc, chứ không bị suy bại. Sau đó lại xét tới Hướng tinh, ta thấy khu vực phía TÂY NAM có Hướng tinh 8, tức là vượng khí của Hướng tinh tới phương tọa, nên trên lý thuyết là phạm cuộc “Thượng sơn”. Nhưng nếu khu vực này không có núi, đồi hoặc nhà cao, mà lại có Thủy hoặc đường đi, cửa ra vào... thì vượng khí của Hướng tinh nhà này vẫn đắc cách, tức là đóng tại chỗ có Thủy nên tiền của, tài lộc của gia đình này vẫn dồi dào, sung túc.


Cho nên điều quan trọng là phải phối hợp phương vị của phi tinh với địa hình bên ngoài thì mới có thể xác quyết được chính xác mọi trường hợp tốt, xấu, chứ không thể mới nhìn thấy 1 căn nhà có vượng tinh của Hướng tới phía trước, vượng tinh của Sơn tới phía sau mà đã vội cho là căn nhà tốt. Hoặc mới thấy 1 căn nhà có vượng tinh của Hướng tới phía sau, vượng tinh của Sơn tới phía trước mà đã vội cho là căn nhà xấu thì sẽ dẫn tới những sai lầm đáng tiếc.


Một điểm cần chú ý khác là tuy Sơn tinh cai quản về nhân đinh, và cần đóng tại những chỗ cao sơn thực địa, nhưng chỉ có những sinh, vượng khí của Sơn tinh mới nên gặp núi đồi hoặc nhà cao mà thôi. Còn những khí suy, tử của Sơn tinh thì lại không nên đóng ở những nơi đó, mà chỉ nên đóng ở những chỗ bằng phẳng hoặc có Thủy mà thôi. Nếu chẳng may mà nhà lại có khí suy, tử của Sơn tinh đóng tại những chỗ cao hoặc núi đồi thì sẽ gặp tai họa do những đối tượng đó gây ra. Thí dụ như hiện tại đang trong vận 8, nên nếu 1 nhà có sơn tinh Thất xích (số 7) đóng tại khu vực có núi hay nhà nhà cao chót vót thì sẽ bị tai họa do Sơn tinh Thất xích mang tới. Vì Thất xích là biểu tượng của kẻ tiểu nhân hay giặc cướp, nên nhà này sẽ thường xuyên bị bọn trộm cướp tới phá phách, hoặc ra ngoài bị kẻ tiểu nhân tìm cách hãm hại...


Tương tự như thế, đối với Hướng tinh tuy cai quản về tài lộc, và cần đóng tại những chỗ thấp trũng hoặc có thủy, nhưng chỉ có những sinh, vượng khí của Hướng tinh mới cần thỏa mãn điều kiện này mà thôi. Còn đối với những suy, tử khí của Hướng tinh nếu gặp Thủy sẽ chủ gây ra những tổn thất về tiền bạc, hoặc những bệnh tật, tai họa, tùy theo tính chất của Hướng tinh đó như thế nào.


Lấy thí dụ như 1 nhà trong vận 8, có hướng tinh Nhị hắc gặp thủy, cho nên nhà này vừa bị hao tiền, vừa thêm bệnh tật nhiều, nhất là về tỳ vị, sảy thai, hỏa hoạn, hình ngục, tai nạn xe cộ. Trong nhà dễ có quả phụ hoặc ni cô...


Cho nên đối với những Hướng tinh là khí suy, tử thì lại nên đóng ở những chỗ cao ráo hoặc yên tĩnh. Có như thế thì mới tránh nỗi họa mà thôi. Còn nếu như khí suy, tử của Sơn tinh mà còn đóng ở những nơi có núi hay nhà cao, khí suy tử của Hướng tinh đóng ở những nơi có thủy hoặc cửa nẻo ra vào nhà thì tức là cảnh “HUNG TINH ĐẮC CÁCH”, tai họa còn khủng khiếp hơn là cách cục “thượng Sơn, Hạ Thủy” nữa.


Nói tóm lại thì sinh, vượng khí của Sơn tinh phải đóng ở những chỗ cao ráo, còn sinh, vượng khí của Hướng tinh cần gặp thủy. Nếu được như thế là nhà có phúc, có lộc, còn nếu ngược lại là cảnh bần tiện, nghèo hèn. Cho nên người học Huyền không phải dựa vào những tiêu chuẩn này mà chọn phương lập hướng cho đúng, tức là phải kiếm cho được những nhà đắc “vượng Sơn, vượng Hướng” (hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”), và phải xa lánh những nhà có cách cuộc “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mới được. Ngoài ra cũng cần phải để ý, không bao giờ để cho những khí suy, tử của Sơn, Hướng tinh có thể trở thành “Hung tinh đắc cách” mà gieo rắc tai họa cho người ở trong nhà được
 
N

Người Lái Đò

Guest
Một số đoạn trích trong quyển Thanh Nang Tự: ( Sưu tầm từ HKLS )
“sơn thượng long thần bất hạ thuỷ,
thuỷ lí long thần bất thượng sơn,
dụng thử lường sơn dữ bộ thuỷ,
bách lí giang sơn nhất hưởng gian”


Tưởng công chú:
Phần này nói ý nghĩa sơn quản sơn, thuỷ quản thuỷ. Thế nhân tầm long nơi sơn cốc núi cao, lại lấy thuỷ pháp mà dùng, đó là không hiểu sơn long pháp. Sơn long chi pháp vốn không cầu ở thuỷ. Sơn với Thuỷ mỗi cái tự có long thần riêng, đặc biệt chỉ rõ điều này để mọi người được hiểu. Sơn thượng long thần, sơn là long vậy, sơn có âm dương ngũ hành thuận nghịch suy tử chuyên biệt không giống thuỷ, tính chất cương nhu, khô nóng, phân chia.. không giống nhau. Có tình huống sơn long kiêm thuỷ long chi khí, nhưng sơn vẫn tự là sơn, thuỷ vẫn tự là thuỷ, không thể có chuyện âm dương ngũ hành của sơn lẫn lộn với âm dương ngũ hành của thuỷ. Xét sơn thuỷ đều ở sự thanh thuần, hỗn tạp, dài hay ngắn, sơn thì ước lượng xa, thuỷ ước lượng gần. Đắc được 2 phép dùng sơn và thuỷ, ngàn dặm giang sơn chỉ ngay trước mắt. Bí quyết của Thanh nang vốn có tiệp quyết bên trong đó(Nam Phong: tiệp quyết có nghĩa như đường tắt vậy). Ôi! Tằng Công An đã tiết lộ bí quyết nhưng từ đó đến nay không một ai biết được. Thế tục chú: luận sơn dùng song sơn ngũ hành, lấy địa quái mà xét lai long nhập thủ; luận thuỷ dùng tam hợp ngũ hành, lấy thiên quái mà xét thuỷ đi và đến, toàn bộ không phải vậy.

Nam Phong chú:

Đoạn này mỗi phái mỗi diễn giải khác nhau. Như Phi tinh thì cho rằng đó là nói nơi hướng tinh sinh vượng không nên gặp sơn, nơi sơn tinh sinh vượng không nên gặp thuỷ, sự thực quan điểm của phi tinh chính là “Hình Lý tương quan” mà thôi. Như Quá lộ âm dương thì cho rằng đó là nói nơi âm không gặp dương, dương không gặp âm mà âm dương phải tương đối nhau, quan điểm này gần như tịnh âm tịnh dương pháp. Như Tam hợp thì cho rằng sơn phải dùng ngũ hành riêng là song sơn ngũ hành, thuỷ phải dùng ngũ hành riêng là tam hợp ngũ hành…

Sự thật là sao? Sơn-Thuỷ chính là nói nơi sơn cốc-bình dương, nơi miền núi cao và đồng bằng. Phong thuỷ dùng cho miền núi cao và đồng bằng có những khác biệt nhau.

Nơi miền núi cao mạch nổi bên trên, nơi miền đồng bằng mạch chìm bên dưới;
Nơi miền núi cao Âm làm chủ nên núi dựng sừng sững, nơi miền đồng bằng Dương làm chủ nên thoáng đãng mênh mông.
Nơi miền núi cao Âm làm chủ nên rừng cây bạt ngàn bất động mà ngầm chứa trong nó khí Dương rất lớn(một ví dụ như rừng mùa khô cháy gần như không chữa được), nơi miền đồng bằng Dương làm chủ nên sông nước chảy không ngừng nhưng lại ngầm chứa trong nó khí Âm rất lớn(một ví dụ gần như không chống lại được mưa, bão).
ASVN chú
:
hần này không hiểu sao Tưởng công lại chú giải như vậy?
Thực tế là một sơn (Sơn La Kinh) chưa kể đến Loan đầu có hai cách dùng. Một là thu núi, hai là nạp thuỷ do vậy khi xem xét bản sơn mới nói song song khởi (cùng khởi). Cả tám câu khẩu quyết trên “song song khởi”, “sơn thượng long thần bất hạ thuỷ, thuỷ lý long thần bất thượng sơn” đã nói hết tất cả.
Sách cổ có viết:
“Chính vận tới sơn mạch phù trợ
Linh thần đúng chỗ nước thành công”
Khi dùng trong thực tế Loan đầu, Lý khí tương giao. Long thần thì đợi vận còn Linh thần có thuỷ thì định hướng ,toạ. Cả hai mươi bốn sơn thực tế chỉ có vài sơn phải khởi theo nguyên tắc thuần thanh, thuần khí của Hà Đồ đó là nói tới “ địa liệt xuyên sơn” mà chưa nói tới “Thiên phân tinh tú”
Có lẽ Tưởng công muốn nhấn mạnh sơn thuỷ hai đường mà nói vậy chứ thật ra thì sơn thuỷ là Thư Hùng không thể phân chia sơn cốc cũng như bình dương. Đạo của trời vận hành theo một lẽ không thể có một cho sơn cốc và một cho đồng bằng câu “Tĩnh trung cầu động, động trung cầu tĩnh” đã nói hết tất cả rồi.
 
N

Người Lái Đò

Guest
THU SƠN, XUẤT SÁT​

Như chúng ta đã biết, khí sinh, vượng của Sơn tinh phải đóng tại những nơi cao ráo, còn khí sinh, vượng của Hướng tinh phải đóng tại những nơi thấp, trũng hay gặp thủy. Nhưng nhìn vào trạch vận của 1 căn nhà, ta thấy tại bất cứ khu vực nào cũng đều có 3 sao là Vận-Sơn-Hướng tinh. Trong 3 sao đó thì ngoại trừ Vận tinh có tác dụng rất yếu, không đáng kể, chỉ dùng để phối hợp với Sơn tinh (hoặc Hướng tinh) để làm tăng thêm sự tốt, xấu mà thôi. Nhưng sự tương tác giữa Sơn tinh với Hướng tinh và hoàn cảnh Loan đầu chung quanh là 1 điều quan trọng có liên quan tới mọi vấn đề cát, hung, họa, phúc của 1 căn nhà, và do đó cần phải được đặc biệt quan tâm đến.

Khi xét đến sự tương quan giữa Sơn tinh và Hướng tinh tại mỗi khu vực thì ta thấy có 4 trường hợp sau:


1) Sơn tinh là sinh, vượng khí; Hướng tinh là suy, tử khí.

2) Hướng tinh là sinh, vượng khí; Sơn tinh là suy, tử khí.
3) Sơn tinh và Hướng tinh đều là sinh, vượng khí.
4) Sơn tinh và Hướng tinh đều là suy, tử khí.

Nếu phối hợp 4 trường hợp trên với địa hình Loan đầu bên ngoài thì chúng ta sẽ thấy như sau:


1) Nếu trong một khu vực có Sơn tinh là sinh, vượng khí, còn Hướng tinh là suy, tử khí, mà khu vực đó lại có núi hay nhà cao, cây cao... tức là khí sinh, vượng của Sơn tinh đã “đắc cách”, vì đóng tại chỗ có cao sơn, thực địa. Trong trường hợp này, khí sinh, vượng của Sơn tinh đã làm chủ khu vực đó, còn Hướng tinh tại đây vừa là khí suy, tử, vừa bị “thất cách” (vì còn gặp núi chứ không gặp nước) nên mất hết hiệu lực. Do đó hoàn toàn bị Sơn tinh nơi này chi phối. Vì Sơn tinh “đắc cách” của những nơi này làm mất hết tác dụng xấu của Hướng tinh tại đây, nên những trường hợp này còn được gọi là “ Sơn chế ngự Thủy”. Đây chính là trường hợp Sơn tinh “hóa sát” (hay “xuất sát”, tức là làm mất hết sát khí) của Hướng tinh, và thường được gọi tắt là “XUẤT SÁT”.


Thí dụ:
nhà hướng Mùi 210 độ, nhập trạch trong vận 8.


http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ12.jpg


Nếu lập trạch vận thì sẽ thấy khu vực phía sau nhà ở hướng Đông Bắc có Sơn tinh 8 (vượng khí), Hướng tinh 2 (tử khí). Nếu phía sau nhà này có núi (ở xa) hay nhà cao ở gần (nhưng tối thiểu phải cao bằng nhà này, còn nếu càng cao lớn hơn thì càng tốt) thì vượng khí của Sơn tinh đã “đắc cách”, có thể hóa giải sát khí của Hướng tinh 2. Còn Hướng tinh 2 vì đã bị mất hết hiệu lực, nên không còn có thể gieo rắc bệnh tật (số 2 là sao Nhị Hắc, chủ bệnh tật, đau ốm), cũng không thể làm hư hao tài lộc được nữa, dù là khu vực đó có “động” (như có cửa hay thường sinh hoạt...) hay không. Cho nên nhà này không những vừa vượng nhân đinh, vừa có thể tăng tiến cả tài lộc nữa (vì không bị hung khí của Hướng tinh làm hao tài). Cũng tương tự, khu vực phía TÂY của nhà này có Sơn tinh 9 (sinh khí) và Hướng tinh 3 (tử khí). Còn khu vực phía TÂY BẮC có Sơn tinh 1 (sinh khí) và Hướng tinh 4 (tử khí). Nếu 2 khu vực này cũng có núi hay nhà cao thì cũng là trường hợp “Xuất sát”, vừa làm vượng đinh, vừa góp phần làm tăng tiến thêm tài lộc.


Tuy nhiên, nếu khu vực có Sơn tinh là sinh, vượng khí, còn Hướng tinh là suy, tử khí, nhưng khu vực này không có núi hay nhà cao, mà lại có thủy của sông, hồ, ao, biển... thì đây tức là trường hợp Sơn tinh “Hạ thủy”, còn Hướng tinh là “hung tinh đắc cách”, nên là trường hợp tổn đinh, phá tài.


2) Nếu khu vực có Hướng tinh là sinh, vượng khí, còn Sơn tinh là suy, tử khí, mà khu vực đó lại có Thủy của sông, hồ, ao, biển hay cửa nẻo ra, vào nhà, thì Hướng tinh đã “đắc cách”, nên nắm quyền điều động và chi phối Sơn tinh tại đây. Còn Sơn tinh thì vừa là khí suy, tử, vừa bị “thất cách” (gặp thủy) nên đã mất hết hiệu lực và bị Hướng tinh chế ngự. Đây chính là trường hợp “ Thủy thu sát của Sơn”, hay thường gọi tắt là cách cục “THU SƠN”.


Thí dụ:
cũng lấy nhà hướng MÙI 210 độ, nhập trạch trong vận 8.


http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ12.jpg

Nếu nhìn vào trạch vận thì sẽ thấy ở khu vực phía TÂY NAM (tức phía trước nhà) có Hướng tinh 8 (vượng khí) và Sơn tinh 5 (tử khí). Nếu khu vực phía trước của căn nhà này có sông, hồ, ao, biển, hay đường rộng, cửa ra vào... thì vượng khí của Hướng tinh đã “đắc cách”, nên chẳng những là làm cho tài lộc của nhà này được sung túc, mà còn hóa được sát (tức “Thu sơn”) của Sơn tinh Ngũ Hoàng, khiến cho sao này mất tác dụng mà không còn gây ra cảnh tỗn hại nhân đinh (sao Ngũ Hoàng chủ sự chết chóc hoặc nhân đinh ly tán). Cũng tương tự, ở khu vực phía BẮC của nhà này có Hướng tinh 9 (sinh khí), Sơn tinh 6 (tử khí). Còn khu vực phía NAM có Hướng tinh 1 (sinh khí), Sơn tinh 7 (suy khí). Nếu ở 2 phía này cũng có Thủy hay đường đi, cửa ra vào... thì cũng tạo thành cuộc “Thu sơn”, vừa vượng tài, vừa có thể làm vượng cả đinh nữa.


Tuy nhiên, nếu khu vực có Hướng tinh là sinh, vượng khí, còn Sơn tinh là suy, tử khí, mà nơi đó không có Thủy nhưng lại có núi cao hay nhà cao... thì sẽ là cuộc Hướng tinh “Thượng sơn”. Còn Sơn tinh suy, tử mà còn gặp núi cao, là cách cuộc “hung tinh đắc cách”, chủ phá tài và gây ra nhiều tai họa cho người.


3) Nếu trong một khu vực mà Sơn tinh hay Hướng tinh đều là sinh, vượng khí, thì cách tốt nhất cho trường hợp này là khu vực đó cần có cả sông hồ lẫn núi hay nhà cao, với điều kiện là sông hồ ở gần kề, còn núi hay nhà cao ở ngoài xa. Nếu được như thế thì Sơn tinh và Hướng tinh đều đắc cách, nên đinh tài đều vượng. Nếu khu vực này chỉ có núi mà không có sông, hồ thì hình dáng của núi phải đẹp và ở xa thì mới chủ vượng cả tài đinh. Còn nếu chỉ có núi hình dáng tầm thường và lại nằm gần nhà, hay chỉ có nhà cao thôi thì chỉ vượng đinh nhưng thoái tài. Nếu khu vực này có sông nước đẹp, thủy lớn và phản quang thì dù không có núi cũng là cách cuộc vượng cả tài lẩn đinh. Nếu không có thủy mà chỉ có đường đi, sân rộng hay cửa nẻo ra vào thôi thì chỉ là cách cuộc vượng tài nhưng không vượng đinh.


4) Nếu trong một khu vực mà Sơn tinh hay Hướng tinh đều là suy, tử khí, mà nếu khu vực đó có núi hay nhà cao, thì nhà đó sẽ bị những tai họa do những đối tượng của Sơn tinh đó gây ra. Trong trường hợp này Hướng tinh vô hại. Nếu khu vực đó có sông, hồ hay cửa ra vào, thì nhà đó sẽ bị những tai họa, bệnh tật do hướng tinh đó mang tới, cộng với vấn đề hao tài. Trong trường hợp này Sơn tinh vô hại. Nếu khu vực này bằng phẳng, yên tĩnh, thì cả Sơn tinh lẫn Hướng tinh đều được hóa giải và trở nên vô hiệu lực.


Thí dụ:
Cũng nhà hướng MÙI 210 độ, nhập trạch trong vận 8.


http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ12.jpg

Nếu nhìn vào trạch vận thì sẽ thấy 3 phía TÂY, TÂY BẮC và ĐÔNG BẮC có sinh vượng khí của Sơn tinh, suy, tử khí của Hướng tinh, nên 3 phía này cần có núi hay nhà cao để tạo thành cuộc “Xuất sát”. Còn 3 phía BẮC, NAM và TÂY NAM thì có sinh, vượng khí của Hướng tinh, nên 3 phía này cần có sông, hồ, ao, biển, đường đi, cửa ra vào... để tạo thành cuộc “Thu sơn”. Còn khu vực phía ĐÔNG có Sơn tinh 4, Hướng tinh 7 tức đều là khí suy, tử, nên nếu nơi đó có núi cao thì Sơn tinh 4 đắc thế, nên nhà dễ bị đàn bà làm hại (như vì tửu sắc hoặc trai gái...), con gái trưởng trong nhà bướng bỉnh, hư đốn. Còn Hướng tinh 7 thì vô hại. Nhưng giả sử nếu nơi này có sông, hồ, chứ không có núi cao, thì Hướng tinh Thất xích lại đắc thế, nên nhà thường bị bệnh về miệng, cổ, phổi, đại trường, lại hay bị người khác lừa gạt, mất tiền mất bạc, cũng như dễ bị hỏa hoạn. Còn Sơn tinh 4 ở đây vô hại. Nếu khu vực này lại bằng phẳng, yên tĩnh thì cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều vô hại. Tương tự như thế với khu vực phía ĐÔNG NAM, có Sơn tinh 3, Hướng tinh 6 tức đều là khí suy, tử. Nếu khu vực này có núi cao thì sơn tinh 3 đắc thế, nên con trai trưởng trong nhà hung hăng, vô lễ, ra ngoài thì bị bạn đồng liêu ghen ghét, hãm hại. Còn Hướng tinh 6 ở đây vô hại. Nhưng nếu khu vực này không có núi mà lại có sông, biển, cửa ra vào... thì Hướng tinh 6 lại đắc thế, cho nên dễ bị những bệnh về đầu, tai nạn về binh đao, trộm cướp và trong nhà dễ có người đàn ông góa vợ. Còn Sơn tinh 3 ở đây vô hại. Nếu khu vực này lại bằng phẳng, yên tĩnh thì cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều vô hại.


Như vậy, căn nhà này có 3 phía BẮC, NAM, và TÂY NAM nếu có thủy sẽ thành cuộc “Thu sơn”. Còn 3 phía TÂY, TÂY BẮC và ĐÔNG BẮC nếu có núi sẽ thành cuộc “Xuất sát”. Riêng 2 phía ĐÔNG và ĐÔNG NAM thì nên bằng phẳng, yên tĩnh là tốt nhất.


Tóm lại, “Thu sơn, xuất sát” chỉ là phương pháp nhằm phát huy tới mức tối đa những khí sinh, vượng của cả Hướng tinh và Sơn tinh, hỗ trợ, bổ khuyết thêm cho cách cục “Đáo Sơn, Đáo Hướng”, cũng như loại bỏ được cách cục “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mà làm cho 1 căn nhà đã tốt lại càng tốt thêm, gồm thâu được cả “PHÚC” (nhân đinh đông đúc, con cháu hiền tài), “LỘC” (giàu sang, phú quý), “THỌ” (sức khỏe tràn trề, sống lâu trăm tuổi) tức là tất cả hạnh phúc trên thế gian rồi vậy
 
N

Người Lái Đò

Guest
PHẢN NGÂM, PHỤC NGÂM

Trong việc thiết lập các phương tọa, hướng của 1 căn nhà để có được 1 trạch vận tốt thì ngoài những vấn đề như nhà phải thật sự được “Đáo Sơn, Đáo Hướng” (tức là phi tinh phải hợp với hình thế bên ngoài), tránh được cuộc “Thượng Sơn, Hạ Thủy”, nếu thêm được cuộc “Thu Sơn, Xuất Sát” nữa thì như gấm thêm hoa..., người làm Phong thủy Huyền Không còn cần để ý 2 cách cục xấu khác là Phản Ngâm và Phục Ngâm của Sơn tinh và Hướng tinh.

Trường hợp có Phản Ngâm hay Phục Ngâm xảy ra là khi an Vận bàn cho 1 căn nhà, Vận tinh số 5 sẽ tới Hướng hay tọa của căn nhà đó. Nếu đem số 5 đó nhập trung cung xoay nghịch (để thiết lập Sơn bàn hoặc Hướng bàn), thì những số tới 8 cung sẽ đối nghịch với số nguyên thủy của địa bàn (hay cộng với số nguyên thủy của địa bàn thành 10). Trường hợp này được gọi là “PHẢN NGÂM” (Phản: tức là phản đối hoặc xung khắc). Nếu vận tinh số 5 đó nhập trung cung xoay thuận, thì những số tới 8 cung sẽ giống như những số nguyên thủy của địa bàn. Trường hợp này được gọi là “PHỤC NGÂM” (Phục: tức là tăng áp lực lên vì cùng 1 số).


Thí dụ 1:
Nhà tọa Mùi hướng SỬU, nhập trạch trong vận 8.



http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ13.jpg

Nếu lập Vận bàn thì sẽ thấy Vận tinh số 5 tới tọa ở Tây Nam. Bây giờ nếu muốn lập Sơn bàn thì phải lấy số 5 nhập trung cung. Vì nhà này hướng SỬU, nên tọa thuộc sơn MÙI. Mà MÙI thuộc âm trong Tam nguyên Long, cho nên lấy 5 nhập trung cung rồi xoay nghịch thì sẽ thấy 4 đến TÂY BẮC, 3 đến TÂY, 2 đến ĐÔNG BẮC, 1 đến NAM, 9 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 7 đến ĐÔNG, và 6 đến ĐÔNG NAM. Nếu so sánh phương vị cuả những Sơn tinh này với phương vị nguyên thủy của chúng trong Hâu thiên Bát quái (hay Lạc thư) thì sẽ thấy như sau:


•Số 4: vị trí nguyên thủy (tức địa bàn) trong Lạc thư là nằm tại khu vực phía ĐÔNG NAM, nhưng trong trạch vận này lại đổi lên đóng tại khu vực phía TÂY BẮC là khu vực đối nghịch với vị trí nguyên thủy của nó.

•Số 3: vị trí nguyên thủy là ở phía ĐÔNG, nhưng lại tới đóng nơi phía TÂY.
•Số 2: vị trí nguyên thủy là ở TÂY NAM, nhưng lại tới đóng ở ĐÔNG BẮC.
•Số 1: vị trí nguyên thủy là ở BẮC, nhưng lại tới đóng ở phía NAM.
•Số 9: vị trí nguyên thủy là ở NAM, nhưng lại tới đóng ở phía BẮC.
•Số 8: vị trí nguyên thủy là ở ĐÔNG BẮC, nhưng lại tới đóng tại TÂY NAM.
•Số 7: vị trí nguyên thủy là ở TÂY, nhưng lại tới đóng tại phía ĐÔNG.
•Số 6: vị trí nguyên thủy là ở TÂY BẮC, nhưng lại tới đóng ở phía ĐÔNG NAM.

Như vậy, ta thấy tất cả các số (hay sao) của Sơn tinh đều đóng tại những khu vực đối nghịch với địa bàn nguyên thủy của mình, nên đây là trường hợp “PHẢN NGÂM”.


Thí dụ 2:
nhà tọa Cấn hướng KHÔN, nhập trạch trong Vận 8.

http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ14.jpg

Nếu an Vận bàn thì sẽ thấy vận tinh số 5 tới hướng ở Tây Nam. Vì hướng KHÔN là thuộc dương trong Tam nguyên Long, nên nếu muốn an Hướng bàn thì phải lấy số 5 nhập trung cung xoay thuận thì số 6 tới TÂY BẮC, số 7 tới TÂY, số 8 tới ĐÔNG BẮC, số 9 tới NAM, số 1 tới BẮC, số 2 tới TÂY NAM, số 3 tới ĐÔNG, số 4 tới ĐÔNG NAM. Nếu so sánh phương vị của những Hướng tinh này với phương vị nguyên thủy của chúng trong Lạc thư thì sẽ thấy như sau:


•Số 6: vị trí nguyên thủy (tức địa bàn) trong Lạc thư là khu vực phía TÂY BẮC, bây giờ trong trạch vận này lại cũng tới đóng tại khu vực TÂY BẮC

•Số 7: vị trí nguyên thủy ở TÂY, bây giờ cũng tới đóng tại phía TÂY.
•Số 8: vị trí nguyên thủy ở ĐÔNG BẮC, bây giờ cũng tới đóng tại ĐÔNG BẮC.
•Số 9: vị trí nguyên thủy ở NAM, bây giờ cũng tới đóng tại NAM.
•Số 1: vị trí nguyên thủy ở BẮC, bây giờ cũng tới đóng tại BẮC.
•Số 2: vị trí nguyên thủy ở TÂY NAM, bây giờ cũng tới đóng tại TÂY NAM.
•Số 3: vị trí nguyên thủy ở ĐÔNG, bây giờ cũng tới đóng tại ĐÔNG.
•Số 4: vị trí nguyên thủy ở ĐÔNG NAM, bây giờ cũng tới đóng tại ĐÔNG NAM.

Như vậy, ta thấy tất cả những Hướng tinh đó đều đến đóng ngay tại khu vực địa bàn nguyên thủy của chúng, nên đây là trường hợp “PHỤC NGÂM”.


“Phản ngâm, Phục ngâm, tai họa khó đương”, đó là lời của cỗ nhân viết để nói về những trường hợp này. Cho nên trong “Trạch vận Tân án” mới viết:” tai họa do “Phản ngâm, Phục ngâm” gây ra chẳng kém gì “Thượng Sơn, Hạ Thủy”, nếu phạm vào cách đó lập tức người chết, tiền hết”. Cho nên “Phản ngâm, Phục ngâm” là 1 cách cục rất nguy hiểm cho dương trạch và âm trạch, nhưng nó cũng được chia làm 2 loại như sau:


-Sơn tinh phạm “Phản ngâm hay Phục ngâm” (viết tắt là “Phản, Phục ngâm”): chủ gây nguy hại cho nhân đinh trong nhà.


-Hướng tinh phạm “Phản, Phục ngâm” chủ gây nguy hạI cho tài lộc và công việc.


Trong 2 loại Sơn, Hướng tinh phạm “Phản, Phục ngâm” ở trên thì còn phân ra 2 trường hợp như sau:


-Tất cả Sơn tinh (hay tất cả Hướng tinh) đều phạm “Phản ngâm” hay “Phục ngâm”. Như trong thí dụ 1 thì tất cả Sơn tinh đều bị “Phản Ngâm”. Trường hợp này được gọi là “Sơn tinh toàn bàn Phản ngâm”. Còn như trong thí dụ 2 thì tất cả Hướng tinh đều bị “Phục ngâm”, nên được gọi là “Hướng tinh toàn bàn Phục ngâm”.


-Trong trạch vận chỉ có 1, 2 Sơn tinh hay Hướng tinh là bị Phản ngân hay Phục ngâm. Lấy thí dụ như nhà hướng TỐN 135 độ, nhập trạch trong vận 8. Khi an Vận bàn thì sẽ thấy Vận tinh số 7 tới hướng. Nếu muốn an Hướng bàn thì phải lấy số 7 nhập trung cung xoay nghịch (vì nhà hướng TỐN là trùng với sơn DẬU của số 7, mà DÂU là âm hướng trong Tam nguyên Long) thì 6 đến TÂY BẮC, 5 đến TÂY, 4 đến ĐÔNG BẮC, 3 đến NAM, 2 đến BẮC, 1 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, 8 đến ĐÔNG NAM. Trong tất cả các Hướng tinh đó thì chỉ có số 6 là nằm tại địa bàn nguyên thủy của mình nên bị “Phục ngâm”, còn những Hướng tinh khác thì không phạm vào trường hợp này.


Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp “Phản, Phục ngâm” đều gây ra tai họa, mà còn phải phân biệt như sau:


-Trường hợp Sơn tinh phạm “Phản, Phục ngâm”: nếu khu vực có sinh, vượng khí của Sơn tinh có núi hay nhà cao thì nhà đó vẫn phát phúc, vượng nhân đinh, đồng thời có nhân tài xuất hiện. Nếu những khu vực này không có núi mà lại có thủy thì người trong nhà sẽ gặp những tai họa khủng khiếp. Ngược lại, nếu những khu vực có khí suy, tử của Sơn tinh mà lại có núi cao thì cũng là điều cực kỳ nguy hại cho những ai sống trong căn nhà đó. Nhưng nếu những khu vực này lại có thủy thì sát khí của Sơn tinh đã được hóa giải nên vô hại.


-Trường hợp Hướng tinh phạm “Phản, Phục ngâm”: Nếu khu vực có sinh, vượng khí của Hướng tinh lại có thủy của sông, hồ, ao, biển hoặc cửa ra vào... thì nhà đó vẫn phát tài lộc, công việc làm ăn tiến triển tốt đẹp. Nhưng nếu những khu vực này không có thủy mà lại có núi thì sẽ làm cho nhà đó tán gia bại sản, cơ nghiêp lụn bại. Ngược lại, nếu những khu vực có suy, tử khí của Hướng tinh mà lại có thủy thì cũng chủ đại phá tài lộc, còn nếu có núi thì Hướng tinh nơi đó đã được hóa giải nên vô hại.


Cho nên khi đã biết những trường hợp “Phản, Phục ngâm”, cũng như những yếu tố tác động có thể làm cho chúng gây họa hoặc được hóa giải... thì chúng ta có thể tìm cách tránh né, như không cất nhà phạm vào cách cục đó, hoặc có thể lựa chọn địa hình bên ngoài, hay cấu trúc bên trong cho phù hợp để hóa giải hết (hoặc bớt) những điều xấu này.


Thí dụ: nhà tọa Cấn hướng Khôn, nhập trạch trong vận 8.


http://i556.photobucket.com/albums/ss5/tuandeptrai_2009/huyenkhongBNQ15.jpg

Nếu lập Hướng bàn thì sẽ thấy Hướng tinh toàn bàn “Phục ngân” (xem lại thí dụ 2 ở trên). Nếu vì lý do gì đó mà vẫn phải xây và vào ở trong nhà này (tức không thể né tránh được) thì có thể tìm những nơi có vượng khí và sinh khí của Hướng tinh, xem địa hình bên ngoài nhà tại những nơi đó có sông, hồ, ao, biển không? Nếu có thì dù nhà này bị phạm “Phục ngâm” như thế nhưng vẫn vượng về tài lộc và có thể sống được. Ngược lại nếu những khu vực đó không có thủy thì phải thiết lập “thủy nhân tạo”, tức là phải mở cửa sau tại phía ĐÔNG BẮC (nơi có vượng khí số 8), xây hồ bơi tại khu vực phía BẮC (nơi có sinh khí số 1), để buồng tắm hay làm cầu thang tại khu vực phía NAM (nơi có sinh khí số 9)... Còn những nơi khác thì có thể làm phòng ăn, phòng khách, phòng ngủ, hoặc bỏ trống, hoặc chứa đồ... thì tài lộc của căn nhà này vẫn tốt và có thể phát triển lâu dài.


Riêng với “Phản, Phục ngâm” thì ngoài những trường hợp do Vận tinh số 5 của Tọa hoặc Hướng nhập trung cung xoay chuyển thuận hay nghịch mà tạo ra thì có 1 số trường hợp khác như sau:


-Vân tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều cùng 1 số. Đây là trường hợp Hướng tinh Phục ngâm. Thí dụ: nhà tọa TUẤT hướng THÌN kiêm CÀN-TỐN 4 độ, nhập trạch trong vận 2. Nếu an Vận bàn thì lấy số 2 nhập trung cung xoay thuận thì 3 đến TÂY BẮC, 4 đến TÂY, 5 đến ĐÔNG BẮC, 6 đến NAM, 7 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, và 1 đến ĐÔNG NAM. Tuy Vận tinh số 1 đến hướng, nhưng vì nhà này kiêm nhiều, nên phải dùng số 2 làm Thế quái, nhập trung cung xoay thuận (vì nhà Hướng THÌN thì trùng với sơn NHÂM của số 1, thuộc dương trong Tam nguyên Long) thì 3 đến TÂY BẮC, 4 đến TÂY, 5 đến ĐÔNG BẮC, 6 đến NAM, 7 đến BẮC, 8 đến TÂY NAM, 9 đến ĐÔNG, 1 đến ĐÔNG NAM. Tức là tại mỗi vị trí thì những số của Vận tinh và Hướng tinh đều giống nhau (hay cùng 1 số).


-Vận tinh và Sơn tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều giống nhau (hay cùng 1 số). Đây là trường hợp Sơn tinh Phục ngâm.


-Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung (hay trong tất cả 8 cung) đều giống nhau (hay cùng 1 số). Đây là trường hợp cả Sơn-Hướng tinh đều bị Phục ngâm
 
N

Người Lái Đò

Guest
THÀNH MÔN
Trong việc chọn tọa-hướng cho nhà ở (hay phần mộ), ngoài những vấn đề đã được nêu ra thì còn cần để ý tới khu vực 2 bên phía trước như thế nào để có thể dùng bí quyết của "Thành môn".

Thành môn, tức cổng thành, là nơi ra, vào thành cũng là chỗ dẫn nước ra, vào ở phía dưới. Cho nên Thành môn chính là cửa ngõ để vào huyệt, hoặc nơi thủy đến, thủy đi, thủy hội tụ ở 2 bên phía trước. Đối với nhà cửa thì nếu khu vực đó có ngõ rẽ vào nhà hay ngã ba, ngã tư, ao, hồ, biển, hoặc chỗ 2 dòng sông tụ hội... thì những nhà đó được xem như có Thành môn.

Thành môn cũng được chia ra làm 3 loại như sau:


1) Thành môn chính: nằm ở những khu vực mà khi kết hợp với khu vực ở đầu hướng sẽ hợp thành những số Tiên thiên như 1-6, 2-7, 3-8, 4-9.


Thí dụ: Căn nhà hướng NAM, có ngõ vào nhà nằm ở khu vực phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN mang số 4, còn NAM thuộc quẻ LY mang số 9, hợp thành số Tiên thiên 4-9, nên ngõ vào nhà đó được coi là Thành môn chính.


2) Thành môn phụ: chỉ là những vị trí nằm bên cạnh đầu hướng, nhưng không có sự tương hợp thành những số Tiên thiên như ở trên.


Thí dụ: Nhà hướng NAM, nhưng có ngõ vào nhà ở khu vực TÂY NAM. Vì NAM là số 9, TÂY NAM là số 2, giữa 2 khu vực này không có sự tương hợp thành số Tiên thiên, nên đây là Thành môn phụ.


3) Thành môn ngầm: ngoài Thành môn chính (được gọi là “Chính mã”) và Thành môn phụ (được gọi là “tá mã”), còn có Thành môn ngầm, nhưng cũng được chia thành 2 loại như sau:


a) Khi an vận bàn mà vận tinh Ngũ Hoàng tới 1 trong 2 phía bên cạnh đầu hướng. Nếu nơi đó có thủy hay cửa khẩu, ngõ ra vào... thì cũng được coi là Thành môn.


Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8, nên khi an vận bàn thì vận tinh Ngũ Hoàng sẽ đến phía TÂY NAM. Nếu nơi này có ngã tư, ngõ vào nhà, ao, hồ... thì được xem là Thành môn ngầm. Sở dĩ như thế là vì trong mỗi vận, khu vực có vận tinh Ngũ Hoàng bao giờ cũng là khu vực của Linh Thần (xin xem lại bài “Chính Thần và Linh Thần”), nên khi khu vực này có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì được xem như Linh thần đắc thủy, chủ đại vượng cho nhà cửa trong vận đó. Vì vậy nó mới được xem như 1 loại Thành môn mà thôi.


b) Khi các vận, sơn hay hướng tinh tới 2 phía bên cạnh đầu hướng, mà chúng lại kết hợp với địa bàn tại nơi đó thành các số Tiên thiên. Nếu khu vực đó có cổng, ngã ba, ao, hồ, núi cao... thì cũng được xem như có Thành môn.


Thí dụ: nhà tọa CANH, hướng GIÁP (tức hướng ĐÔNG, 75 độ), nhập trạch trong vận 8. Nếu an Vận bàn thì vận tinh số 6 tới hướng. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại bài PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN) thì số 3 đến ĐÔNG BẮC. Vì ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà địa bàn của nó là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên 3-8. Nếu nơi này có thủy hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.


Đối với Huyền không Học, việc xác định Thành môn là 1 yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn phương vị tọa hướng cho ngôi nhà hay phần mộ. Bởi vì như Thẩm trúc Nhưng nói:”Thành môn là nơi then chốt để khí tiến vào huyệt”, hoặc như Bạch hạc Minh xem nó “giống như yết hầu của con người”. Cho nên Thành môn chính là nơi nắm giữ vận khí của chân long địa huyệt hay nhà cửa. Nếu nó tốt thì dù nhà cửa hay phần mộ có gặp hướng xấu, hay bị hung khí xung sát cũng vẫn bình yên, hoặc có thể hóa hung thành cát mà làm cho nhà đó vẫn vượng phát.


Riêng đối với những căn nhà đã lập phương hướng đúng phép mà lại còn đắc Thành môn thì chẳng khác nào áo gấm thêm hoa, tài lộc và nhân đinh sẽ hưng thịnh 1 thời. Cho nên sách mới có câu:”Bí quyết Thành môn là cực tốt (tối vi lương), cất nhà, lập mộ thì đại cát”.


Tuy nhiên, cách dùng Thành môn không phải cứ hễ thấy ở 2 bên đầu hướng có cổng, ngã ba, ngã tư hay sông nước là có thể xử dụng, mà còn phải theo những nguyên tắc căn bản sau đây:


- Tọa-hướng nhà phải đồng Nguyên long với khu vực có cổng, cửa hoặc sông nước ở 2 bên đầu hướng. Điều này đã nói rõ trong bài “Phương pháp chọn hướng nhà (1)”, phần bàn về vấn đề thuần khí (chỉ có sự khác biệt là với vấn đề thuần khí thì có thể lấy được cả những cổng, ngõ, nơi có thủy... tại bất cứ khu vực nào, miễn là được đồng nguyên với hướng; còn Thành môn thì chỉ lấy được ở 2 phía bên cạnh hướng mà thôi).


* Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8. Vì nhà này hướng NGỌ (tức hướng NAM), nên khi chọn Thành môn thì chỉ có thể lấy ở khu vực 2 bên của đầu hướng, tức là 2 phía ĐÔNG NAM và TÂY NAM. Do đó, nếu ở sơn TỐN thuộc phía ĐÔNG NAM, hoặc sơn KHÔN thuộc phía TÂY NAM có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì nhà đó có Thành môn. Còn những khu vực THÌN, TỴ của ĐÔNG NAM, cũng như MÙI, THÂN của TÂY NAM tuy cũng nằm ở 2 bên hướng, nhưng do không đồng nguyên với tọa-hướng nên không thể lấy làm Thành môn.


- Khu vực của Thành môn cũng phải đắc vượng khí của Phi tinh, có như thế mới hóa giải được khí xấu nơi đầu hướng, hoặc làm cho khí nơi đầu hướng càng thêm tốt đẹp. Nhưng muốn biết vượng khí có tới Thành môn hay không, thì không phải căn cứ vào Hướng tinh tại đó để xác quyết, mà phải xem Thành môn nằm tại sơn nào (trong 24 sơn)? Sơn đó trùng với sơn nào của vận tinh tới khu vực đó? Rồi mới đem vận tinh đó nhập trung cung, xoay chuyển theo chiều thuận (hay nghịch) tùy theo sơn của vận tinh đó là dương hay âm. Nếu số đến khu vực của Thành môn cũng tương đồng với đương vận thì tức là có vượng khí đến Thành môn.


* Thí dụ: cũng lấy nhà tọa TÝ hướng NGỌ ở trên. Nếu an vận bàn của vận 8 thì vận tinh số 5 đến TÂY NAM, vận tinh số 7 đến ĐÔNG NAM. Vì phía TÂY NAM chỉ có sơn KHÔN có thể chọn làm Thành môn, mà KHÔN thuộc dương nên lấy 5 nhập trung cung xoay thuận thì 2 đến KHÔN, là tử khí trong vận 8 nên không thể dùng (tuy nhiên, vì vận tinh 5 tới phía TÂY NAM tạo thành cách “Thành môn ngầm”, nên lại là 1 cách khác). Kế đó, quay sang vận tinh số 7 ở ĐÔNG NAM. Vì chỉ có sơn TỐN mới có thể chọn làm Thành môn, mà TỐN trùng với sơn DẬU của số 7, là sơn âm nên lấy 7 nhập trung cung xoay nghịch thì 8 đến TỐN, là vượng khí của vận 8, nên nơi này có thể dùng làm Thành môn. Vì vậy, nếu phương TỐN của nhà này mà có cổng, ngõ vào nhà, thủy khẩu... thì tài lộc sẽ đại vượng.



Về mức độ tác dụng của các loại Thành môn thì Thẩm trúc Nhưng thường cho rằng Thành môn chính có tác dụng mạnh hơn Thành môn phụ, nhưng ông không nói gì tới hiệu lực của Thành môn ngầm. Tuy nhiên nếu nhìn thì cũng có thể thấy là tác dụng của Thành môn ngầm phải yếu hơn Thành môn phụ. Nhưng vì không phụ thuộc vào việc bảo vệ nguyên khí cho tọa-hướng, nên Thành môn ngần không bị giới hạn trong phạm vi 1 sơn, mà có thể bao hàm hết cả 1 hướng.


Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ trong vận 8, khu vực phía TÂY NAM có vận tinh số 5 đắc Thành môn ngầm. Thành môn này có thể chiếm hết 3 sơn MÙI-KHÔN-THÂN của hướng TÂY NAM, chứ không bị giới hạn trong 1 sơn như những Thành môn chính hay phụ, nhưng tác dụng của nó cũng yếu hơn 2 loại Thành môn kia.
Một vấn đề khác là thời gian ảnh hưởng của Thành môn đối với 1 căn nhà hay 1 phần mộ. Trong "Thẩm Thị Huyền Không Học", Thẩm Trúc Nhưng và Bạch Hạc Minh đều cho rằng Thành Môn chỉ có hiệu lực trong 1 vận, tức trong khoảng 20 năm. Khi tới vận khác thì căn nhà đó sẽ bị suy bại ngay. Nhưng điều này chỉ đúng với Thành Môn ngầm mà thôi. Vì khi qua vận khác, khách tinh của vận mới sẽ nhập trung cung, cho nên Phi tinh sẽ thay đổi. Lúc đó, nếu khu vực có Thành Môn mà không được đồng Nguyên long với Tọa - Hướng thì làm sao tránh khỏi tai họa do việc khí không thuần, cũng như không còn được Phi tinh hỗ trợ?
Còn những Thành Môn chính hay Thành Môn phụ chẳng những đã được khí đồng Nguyên, lại còn đắc cách " Dương khẩu ( tức Thành Môn ) phối Âm hướng", hay "Âm Khẩu phối Dương Hướng. Theo Thanh Nang Kinh là được "Phúc lộc vĩnh trinh", tức phúc lộc lâu dài, nên làm sao có thể suy bại nhanh chóng được ? Cho nên những nhà đắc Thành môn chính hay phụ chẳng những là sẽ đại vượng trong vận đó ( tức vận có vượng khí đến Thành Môn ) , mà còn chủ phát phú quý lâu dài. Nhất là nếu trạch vận của căn nhà đó có hướng tinh nơi đầu hướng, kết hợp với hướng tinh nơi khu vực có Thành Môn, thành các cặp số Tiên Thiên 1-6, 2-7, 3-8, 4-9 thì công danh Tài Lộc, sẽ phát liên tiếp nhiều vận. Nếu địa thế xung quanh tốt đẹp thì có thể phát hết cả Tam Nguyên, Cửu Vận. Nếu căn nhà hay địa huyệt nằm đúng chân long, địa huyệt thì tuy mức độ lớn hay nhỏ của long mạch mà nhà hay mộ huyệt đó sẽ phát từ 500 năm cho đến 1000 năm, tức là 1 đến 2 đại nguyên mới hết.
Trở lại thí dụ về căn nhà tọa Tý hướng Ngọ 180 độ này, vì tọa - hướng thuộc Thiên Nguyên, nên Thành Môn cũng phải thuộc Thiên Nguyên. Cho nên nhà này có ngã tư gần nhà nằm trong phạm vi cung Khôn, còn lối vào nhà nằm trong phạm vi cung Tốn, tức là đã đắc cả Thành Môn Chính, lẫn Thành Môn Phụ. Vì vậy, vận khí sẽ rất lâu dài, bền bỉ chứ không phải chấm dứt khi kết thúc 1 vận như "Thẩm Thị Huyền Không học " đã nói:



Ngược lại, nếu ngõ vào nhà cổng, cửa ngã ba....không đồng Nguyên long với tọa hướng thì sẽ chủ tai họa. Nếu những nơi này đắc vượng khí thì vẫn phát về tài lộc, nhưng 1 khi vượng khí đã hết thì tai họa sẽ lập tức kéo đến. Đây cũng là trường hợp Thành Môn chỉ phát trong 1 vận. Những nhà có Thành Môn khác biệt Nguyên long với Tọa - Hướng chỉ có thể phát về tài lộc mà thôi


Bài của cụ Tri Tri:


Tác dụng của Thành môn 1) Nơi Thành Môn có cửa sổ thông khí , khi lưu niên hung tinh phi đến cửa cái thì có cát khí thành môn nơi cửa sổ lọt vào có thể giảm đi hung khí nơi cửa cái tối thiểu; 2) hoặc có cửa phụ nơi thành môn thì đóng bỏ cửa cái, rồi ra vào nơi cửa phụ để tránh cái hung ;
Thành Môn Thũy = ( hướng Thành Môn có sông, hồ, ao, rạch )
1) Cục Vượng sơn vượng hướng được thêm thành môn thũy thì như gấm thêm hoa;
2) Cục Thượng sơn hạ thũy dùng thũy nơi thành môn để bổ cứu
3) Cục Song tinh đáo sơn dùng thành môn thũy để thâu tài.

Thành môn Sơn:

Muốn tìm Thành Môn Sơn thì đổi toạ thành Hướng sau đó cũng làm tương tự như Thành môn Thuỷ.
Ngoài Thành Môn còn cách sủ dụng Thôi quan Sơn, Thôi quan Thuỷ:
Thôi quan Thủy:
xem 2 cung 2 bên coi bên nào có số sinh thành với số hướng thủy tinh thì lấy đó mà dùng.
Thôi quan Sơn
Trừ ra 2 cung áp dụng số sinh thành cho thôi quan thủy còn lại 7 cung,xem cung nào hướng tinh (không phải sơn tinh ) có thể hợp thập với hướng tinh của hướng thì dùng đó làm thôi quan sơn,nếu số đó rơi vào trung cung thì không dùng được.
 
N

Người Lái Đò

Guest
HỢP THẬP

Trong vấn đề chọn phương hướng cho nhà cửa hay phần mộ thì có 2 cách thông thường là chọn chính hướng sao cho được cuộc “Vượng Sơn, Vượng Hướng”, hoặc chọn kiêm hướng để dùng Thế Quái hầu đem vượng khí tới tọa-hướng. Ưu điểm của 2 cách này là sẽ giúp cho tài, đinh của 1 căn nhà được vượng phát nhanh chóng, nếu chọn thời điểm xây nhà, lập mộ đúng lúc thì có thể “táng (hay xây) vào tháng DẦN (tức tháng 1 Â.L) thì tháng MÃO (tức tháng 2 Â.L) phát”.



Nhưng khuyết điểm của nó là thời gian hưng vượng lại rất ngắn ngủi, đa số chỉ phát trong khoảng 1 vận (tức 20 năm) mà thôi. Nếu muốn tiếp tục phát thì thường là cứ sau 1 vận phải tu sửa lại nhà cửa hay phần mộ, kẻo nếu không thì tai họa sẽ ập tới như trường hợp Liêu kim Tinh (tức Liêu công) thời Tống.

Liêu kim Tinh xuất thân hàn vi, phải đi ở cho nhà của 1 đại quan là Trương minh Thúc. Vợ của họ Trương là con gái của Ngô cảnh Loan, 1 danh sư Phong thủy thời đó, thấy Liêu công thông minh, tướng mạo khôi vĩ mà phải chịu cảnh cơ cực, nên mới đem những bí lục của phụ thân truyền cho. Sau khi học xong, vì quá nghèo, Liêu công bèn tìm địa huyệt đắc “Vượng sơn, vượng hướng” mà cải táng mồ mả cho tổ tiên. Từ đó, gia đình ông đinh, tài đều vượng phát, danh tiếng nổi như cồn, được dân chúng vùng đó coi như 1 vị thánh, ngày nào cũng mời ông đi xem Phong thủy. Chuyện này đến tai 1 gia đình thế phiệt, họ liền mời ông về, dùng lễ thượng khách mà hậu đãi, chỉ mong ông tìm cho họ những cuộc đất tốt. Trong 18 năm trời, Liêu công đã tìm được 74 cuộc đất quý. Lúc đó cũng đã gần hết thời hạn vượng phát mồ mả của tổ tiên mình, nên Liêu công mới muốn xin về để tìm đất tu sửa hay cải táng lại. Nhưng nhà kia tham lam, cứ nhất quyết giữ ông ở lại thêm 4 năm nữa mới cho về. Khi ông về đến nơi thì đại họa đã xảy ra, tất cả các con đều đã chết, chỉ còn bà vợ già và 2 đứa cháu nhỏ. Liêu công vì quá đau buồn nên từ đó sinh bệnh rồi chẳng bao lâu cũng tạ thế.

Nói như vậy không phải là mọi cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” đến khi thất vận đều sẽ bị tai họa thảm khốc như thế, mà điều đó còn tùy thuộc vào địa hình và Phi tinh của từng địa huyệt. Nhưng nó cho thấy khuyết điểm của cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” là không được lâu dài, và vì vậy những nhà Phong thủy sau này đã tìm kiếm những cách cục khác có khả năng bảo đảm sự vượng phát của 1 gia đình lâu dài hơn cuộc “Vượng sơn, vượng hướng”. Một trong những cách cuộc đó là tình huống “HỢP THẬP”.

Nói “Hợp Thập” là khi trong các vận-sơn-hướng tinh, có 2 trong 3 số đó cộng với nhau (hợp) thành 10 (thập). Có 2 tình thế “Hợp Thập” xảy ra giữa Vận, Sơn và Hướng tinh như sau:

1/ Vận tinh và Sơn tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 9-1-3, thì vận tinh 9 + Sơn tinh 1 = 10, nên đó là tình huống “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Sơn tinh.

2/ Vận tinh và Hướng tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 8-6-2. Vì Vận tinh 8 + Hướng tinh 2 = 10, nên là sự “Hợp Thập” giữa Vận tinh và Hướng tinh.

Cả 2 trường hợp kể trên đều đòi hỏi tất cả các cung phải có sự “Hợp Thập” thì mới có hiệu lực. Những trường hợp này còn được gọi là “toàn bàn Hợp thập”. Nếu trong trạch bàn chỉ có sự “Hợp Thập” ở 1, 2 cung thì không đáng kể lắm.
- Thí dụ 1: Nhà tọa TÝ, hướng NGỌ (tức 180 độ), nhập trạch trong vận 7.

Nếu lấy trạch vận thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Sơn tinh đều cộng với nhau thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh.
- Thí dụ 2: Nhà tọa NGỌ hướng TÝ (tức 0 độ), nhập trạch trong vận 7.


Nếu lấy trạch vận thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Hướng tinh đều cộng với nhau thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Hướng tinh.

Có tất cả 12 tình huống toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh với Sơn tinh, cũng như 12 tình huống Hợp thập giữa Vận tinh với Hướng tinh như sau:

* Giữa Vận tinh với Sơn tinh:
- Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
- Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.

* Giữa Vận tinh với Hướng tinh:
- Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
- Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH.
- Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP.
- Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.

Ngoài hai tình huống Hợp thập giữa Vận-Sơn-Hướng tinh như ở trên thì còn một tình huống Hợp thập đặc biệt khác. Đó là khi trong một trạch bàn, Sơn tinh của một cung cộng với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Trường hợp này cũng đòi hỏi Sơn tinh của tất cả 8 cung (tức chỉ trừ Sơn tinh tại trung cung) đều phải “hợp” với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Sơn và Hướng tinh.

- Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu lấy trạch vận thì ta thấy:


- Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;
- Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.
- Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.
- Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10.
- Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.
- Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.
- Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.
- Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.


Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, nên đây là cách toàn bàn Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.

Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.


TÁC DỤNG CỦA HỢP THẬP

Hợp thập tức là dùng Thập số (số 10) để thông với Ngũ Hoàng ở trung cung mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm - Dương, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “tượng trưng cho sự thần diệu, sự thần diệu dùng số để biểu hiện, một Âm, một Dương là đạo vậy. Hai khí giao cảm mà hóa sinh vạn vật, sinh sinh không ngừng, biến hóa vô tận...công dụng của Hợp thập đều ghi cho sức của Mậu-Kỷ, khí vận mà được điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”.

Cho nên nơi nào có Hợp thập là có thể làm cho thông khí (còn gọi là Thông quái), toàn bàn đắc Hợp thập tức có thể làm cho thông khí hết 8 cung, khiến cho toàn cục đang suy (vì không đắc vượng khí tới tọa-hướng) lại chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc song toàn.
Nói phúc - lộc song toàn là vi nhà đắc cách Hợp thập không chỉ phát riêng về nhân đinh hoặc tài lộc, mà bao giờ cũng sẽ vượng phát cả 2 tức phúc - lộc song toàn. Đó là vì khi Sơn tinh được thông khí ( tức Hợp Thập ) cũng sẽ làm cho Hướng tinh đang từ suy chuyển thành vượng. Ngược lại, khi Hướng tinh được thông khí cũng sẽ làm cho Sơn tinh hóa thành vượng. Cho nên về mức độ phát phúc - lộc thì những nhà đắc cách Hợp thập cũng không thua gì những nhà đắc cách " vượng sơn, vượng hướng ", nhưng về lâu dài lại hơn rất nhiều. Những nhà đắc "Vượng sơn, vượng hướng" thường chỉ phát trong vận đó, đến khi tới vận sau sẽ dễ bị suy tàn. Còn trong những nhà đắc cách Hợp thập thường sẽ phát hết 1 Tam nguyên Cửu vận ( tức 180 năm ) thì vận khí mới hết.

Tuy nhiên,không phải tất cả mọi nhà đắc cách Hợp thập đều có thể sử dụng hay phát huy được công năng của nó, mà chỉ có những nhà được xây vuông vức, đồng thời địa thế chung quanh phải cân đối, trước sau, phải, trái phải đồng đều, không được thiên lệch, bên cao bên thấp, bên lớn bên nhỏ, bên rộng, bên hẹp......nếu là nhà trong đô thị thì phải nằm tại trung tâm 1 dãy nhà, chính giữa 1 khu vực được chi bởi những con đường..


attachment.php

Những hình dạng nhà phát huy được cuộc Hợp thập
( Chú ý là nhà hoặc là hình vuông hoặc là hình chữ nhật nhưng không quá dài, hẹp )
Còn những nhà không phát huy được cuộc Hợp thập có hình dạng méo mó, lồi lõm, không cân đối, hay quá dài, hẹp như hình dưới
attachment.php



Riêng đối với mồ mả thì cần phải chọn địa huyệt nằm chính giữa của cuộc đất sơn, thủy các phía đều phải nằm cách xa địa huyệt 1 khoảng bằng nhau, có như thế mới phát huy được cuộc Hợp thập. Lý do vì Hợp thập chính là sử dụng nguyên tắc của " Thiên tâm thập đạo", 8 phương phải đều nhau ( vì mọi hướng đều cùng Hợp thập ) thì mới có thể thông khí được với Thiên tâm mà làm cho toàn cục được hương vượng. Nếu có 1 phía bị thiên lệch, méo mó thì đương nhiên Thiên tâm sẽ bị di lệch, quẻ khí không thông mà hóa thành cục suy bại.
Ngoài ra muốn đắc được cách Hợp thập thì tọa - hướng của nhà hay mộ phải là chính hướng. Nếu có kiêm hướng cũng chỉ tối đa trong khoảng dưới 3 độ mà thôi. Nếu kiêm nhiều thì tọa - hướng đã bị thiên lẹch, nên cách Hợp thập sẽ không còn hiệu lực nữa, nếu không muốn nói sẽ gây thêm tai họa.

Một số người cho rằng những nhà có sự Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh thì sẽ vượng về nhân đinh, nếu có Vận tinh với Hướng tinh Hợp thập thì sẽ phát về tài lộc. Điều này có lẽ chỉ là sự suy diễn theo quan điểm “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc” mà ra. Nhưng họ không để ý rằng 1 khi đã có tình huống Hợp thập (bất kể giữa Vận tinh với Sơn hay Hướng tinh) thì toàn bàn đã thông khí được với trung cung (tức Thiên tâm), 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng vượng và ngược lại. Chính vì vậy mà Thẩm trúc Nhưng mới nói ”khí vận mà được điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”, chứ không chỉ thuần 1 vấn đề là vượng đinh hay vượng tài không được.
Ngoài ra trong "Trạch vận tân án" còn nói đến 1 cách hợp thập theo hình cục của Loan đầu. Theo cách này, nếu lai long ở phía sau và hướng thủy ở phía trước có thể hợp với tọa hướng của căn nhà ( hay mộ huyệt ) để tạo thành 1 đường thẳng, nhà lại nằm tại trung tâm của thế đất để lấy Thiên tâm, tức địa thế 2 bên đã được phân ra đồng đều cũng là cách Hợp thập theo địa hình. Tuy nhiên cách này đòi hỏi tọa - hướng của căn nhà cũng phải đắc vượng khí của Sơn - Hướng tinh trong thực chất cũng chỉ là 1 trường hợp "vượng sơn, vượng hướng" . Nhưng do hình cục đắc thiên tâm thập đạo nên lúc đương vận có thể phát mạnh hơn những cuộc "Vượng sơn, Vượng hướng" bình thường mà đến khi thất vận cũng không đến nỗi suy tàn nhanh chóng. Nhưng muốn đắc cách Hơp thập theo hình cục thì nhà cũng phải lập tọa - hướng theo chính hướng, chứ không thể dùng kiêm hướng nhiều quá. Dù hình cục có cân xứng đến đâu nữa, nhưng nếu thế bắt buộc phải kiêm hướng nhiều thì Thiên tâm thập đạo sẽ bị phá mà phải sinh ra nhiều hung họa. Cho nên chẳng thà lập theo nguyên tắc " Vượng sơn, Vượng hướng" như bình thường hoặc dùng phương pháp Thế quái chứ đừng tham lam chọn cách Hợp thập để chuốc lấy nhiều tai họa sau này.
Sau cùng, còn trường hợp đặc biệt khi Sơn hoặc hướng tinh tại trung cung kết hợp với Sơn hay Hướng tinh ở tọa hay hướng thành 10 đây là 1 hình thức Hợp thập khá quan trọng, và cần được chú ý tới:
Thí dụ 1: Nhà tọa Càn hướng Tốn, nhập trạch trong vận 8. Tin bàn của nhà như sau:
attachment.php


Nhìn vào trạch vận ta thấy Sơn tinh 9 ở trung cung hợp với sơn tinh 1 ở hướng ( phía trước ) thành 10. Đay là tình trạng Hợp thập giữa Sơn tinh ở trung cung với Sơn tinh ở Hướng..
Thí dụ 2: Nhà hướng 90 độ ( tức tọa Dậu hướng Mão ) nhập trạch trong vận 6. Tinh bàn của căn nhà:
attachment.php


Nhìn vào căn trên ta thấy Hướng tinh 4 ở trung cung hợp với Hướng tinh 6 ở tọa thành 10, nên đây là tinh trạng Hợp thập giữa hướng tinh ở trung cung với Hướng tinh ở tọa.

hập trạch trong vận 6. Tinh bàn củ Những tình huống Hợp thập riêng lẻ này cũng khá quan trọng vì nó kết hợp giữa trung cung với tọa hay hướng, tức là những khu vực nắm quyền điều động, hay nạp khí chủ chốt của căn nhà. Nhưng vì chỉ là sự hợp thập riêng lẻ, nên tác dụng của chúng cũng chỉ giới hạn trong phạm vi của Hướng tinh hoặc Sơn tinh mà thôi. Tức là nếu Sơn tinh Hợp thập thì vượng đinh, Hướng tinh Hợp thập sẽ vượng tài. Với điều kiện Sơn tinh phải đắc núi, Hướng tinh phải đắc thủy ( ở tọa hay hướng chứ không phải ở trung cung ) cũng như ở 2 khu vực tọa - hướng củac căn nhà không được khuyết lõm
attachment.php



Tron 3 hình trên chỉ có hình 1 mới có thể sử dụng được cuộc Hợp thập giữa trung cung với tọa - hướng, còn hinh 2, 3 không sử dụng được.
 
N

Người Lái Đò

Guest
Quan điểm khác về Hợp thập ( Trích từ HKLS )

Hợp thập cục có 2 trường hợp: Vận-Hướng tinh hợp thập; Vận-Sơn tinh hợp thập. Hợp thập cục quý ở chổ nghịch bài, xem linh thần thì rõ. Mấy chữ này đã nói hết về Hợp thập. Hợp thập cục chỉ xảy ra khi Sơn hoặc Hướng có vận tinh là Linh thần đương vận, như vận 1 vận bàn như sau:
9---5---7
8---1---3
4---6---2
9 linh thần vận bài đến Tốn(chính là nói xem Linh thần thì rõ); Thìn Tốn Tị tam sơn: khi Sơn hoặc Hướng là Tốn hoặc Tị thì 9 nhập trung nghịch bài thành hợp thập cục(chính là nói hợp thập cục quý ở chổ nghịch bài).

Như vậy 9 vận trừ vận 5 không có hợp thập cục thì các vận dương 1 3 7 9 có 2 cục hướng hợp thập, 2 cục sơn hợp thập. Các vận âm 2 4 6 8 có 1 cục hướng hợp thập và 1 cục sơn hợp thập. Cộng tất cả 3 nguyên 9 vận có 12 cục hướng hợp thập và 12 cục sơn hợp thập.

Luận Hợp thập cục:
Hợp thập cục dùng Linh thần đương vận để bài, đó là suy tinh mà nghịch bài chính là đắc vượng thủy(Sơn vượng thuận bài, thủy vượng nghịch bài). Hợp thập lấy Linh thần nghịch bài chính là đắc vượng thủy nên cục này Hướng tinh hợp thập là cục đắc cách, đắc sơn tinh hợp thập là cục thất cách.
Ví dụ vận 1 Càn sơn Tốn hướng:
191---655----873
982---219---437
546---764---328
Hướng tinh hợp thập cùng vận tinh, cục đắc cách.
Cục cần kiến thủy hoặc thông lộ hoặc khai môn tại: Tốn, Khảm, Đoài, đó là Thượng nguyên vận thông Thưong nguyên khí. Đại phát vận 1.

Ví dụ vận 1 Tốn sơn Càn hướng:
191---556---378
289---912---734
654---467---823
Sơn tinh hợp thập cùng vận tinh, cục thất cách.
Nếu luận thông thường thì cần kiến sơn tại các vị trí sơn tinh sinh vượng sẽ đắc cách hợp thập. Nhưng hợp thập cục nguyên ủy vốn là linh thần đắc khí, nếu bài sơn tại các nơi sơn tinh sinh vượng thì chính là đem linh thận thượng sơn. "Bán cát chi thời hựu bán hung". Không thấy sơn không thấy thủy thì còn là tiểu cát, thấy thủy thì lúc cát lúc hung, thấy sơn thì chỉ có hung.

Các vận còn lại cũng luận như trên.

Hợp thập cục có Sơn tinh hợp thập có Hướng tinh hợp thập, đó là Hậu thiên. Nguyên ủy Tiên thiên chỉ có cái lý Thủy nghịch bài. Thủy nghịch bài đắc hướng(thủy) thì cát, đắc sơn thì hung.

Sơn Thủy chia đôi 2 đường cát hung rất rõ, đó là âm dương giao phối hoặc bất giao phối. Hướng tinh hợp thập chính là chân âm chân dương giao phối. Sơn tinh hợp thập chính là có âm dương nhưng âm tự là âm, dương tự là dương, âm dương có mà bất giao vậy. Biết đắc cách hay thất cách mới biện đến loan đầu, đắc cách đắc loan đầu thì cát, thất cách đắc loan đầu hung lại càng hung.
 
Bên trên