Chương I
NHẬN BIẾT NGƯỜI
HÀM NGHĨA TÂM LÝ CỦA NHÃN THẦN
Con mắt không những là cơ quan quan trọng của cơ thể mà còn là “cửa sổ của tâm hồn”. Nó phản ánh một cách đầy đủ, sinh động thế giới nội tâm của con người. Cho dù trong hiện thực cuộc sống hay trong tác phẩm nghệ thuật, người ta đều quan tâm và miêu tả rất nhiều về con mắt. Đó là vì “con mắt nói thật nhiều hơn miệng”. Hoạ sĩ danh tiếng Cô Khải đời Đông Tấn khi vẽ nhân vật của mình rất chú ý đến vẽ mắt, đặc biệt là sự thể hiện nhãn thần. Trong cuốn sách
Thế thuyết tân ngữ - Xảo nghệ từng viết: “Vẽ người nhiều năm vẫn chưa vẽ được mắt”. Theo cách nói của Cố Khải thì vẽ chân tay giống bao nhiêu cũng không liên quan đến vẽ truyền thần lắm, vẽ được nhãn thần mới là điều quan trọng. Đó là điều mọi người đều biết: “Vẽ truyền thần khó nhất là vẽ mắt”.
Nhãn thần là nguồn thông tin quan trọng trong giao tiếp giữa con người với nhau. Nhãn thần không những biểu đạt được những sắc thái tình cảm khác nhau của con người, như tình thân ái hay thù địch, hạnh phúc hay đau khổ, lo sợ hay vui mừng mà còn có thể cảm thông nhau. Trong giao tiếp, thông qua ánh mắt của đối phương mà có thế khai phá được thế giới nội tâm, đạt được mục đích biết và hiểu nhau.
Mạnh Tử từng nói: "Cái quan trọng ở con người là đồng tử. Đồng tử không thể che giấu được cái ác. Lòng ngay thẳng thì đồng tử sáng, lòng gian dối thì đồng tử tối". Nghe người ta nói, đồng thời nhìn vào đồng tử thì sẽ biết được nội tâm người đó. Lịch sử từng có câu chuyện như sau: Năm Hồng Vũ thứ 25, người ta bắt được bảy tên cướp. Hoàng thái tôn Chu Doãn Văn sau khi xem kỹ con mắt nói: trong đó có một người không phải là giặc cướp. Chu Nguyên Chương không hiểu vì sao lại thế. Sau khi lấy khẩu cung, quả nhiên có một người không phải là giặc cướp. Lúc đồ Chu Doãn Văn mới nói: "Người đó thần mắt rất sáng, bọn cướp không thể có con mắt như thế được". Ở đây ta không bàn đến dùng phương pháp quan sát mắt để phá án sẽ chính xác đến đâu, nhưng chắc chắn nếu quan sát đồng tử thì đại thể cũng phán đoán ra ai chính, ai tà, ai mạnh, ai yếu, người thật hay người giả.
Trong giao tiếp thường ngày, nếu chúng ta ứng dụng nguyên tắc của Mạnh Tử thì chắc chắn sẽ phát hiện được: đối phương nghĩ gì trong lòng đều biểu hiện ra ánh mắt một cách trung thực. Cho dù người đó đang che giấu một điều gì không tốt thì con mắt của anh ta cũng sẽ lộ ra. Người nói dối thì thần mắt mờ tối. Nếu bỏ qua không chú ý đến thần mắt thì khó mà có thể hiểu được thế giới nội tâm của đối phương.
Ngày xưa Trung Quốc có mười phương pháp để phân biệt nhãn thần:
Thứ nhất gọi là
thần tàng: Thần tàng là chỉ thần mắt giấu ồ bên trong, nói chung không lộ ra. Chỉ lúc người đó đắm trong yên tĩnh thì ánh mắt mới lóe lên rất sáng. Loại ánh mắt sáng như ngọc này khiến cho người khác cảm thấy yên tâm, tin tưởng người đó. Đó là loại nhãn thần tốt nhất. Người có con mắt như thế là người có năng lực dồi dào, dễ thành đại nghiệp.
Thử hai gọi là
thần lộ: Thần lộ là chỉ người không giấu nổi thần mắt. Nói một cách cụ thể là mắt lồi ra, không tức cũng giống như bực tức, cho dù ánh mắt không như thế nhưng dáng vẻ giống như thế. Không những ánh mắt lộ ra sắc thái bực tức mà từ tinh thần cho đến hành vi cũng lộ ra vẻ như bực tức. Giống như con hổ đang rình mồi, mắt giương tròn lên, hồi lâu vẫn không quay đầu lại. Người có ánh mắt như thế tuy có thể giàu có, nhưng là người gian giảo.
Thứ ba gọi là
thần tĩnh: Chữ "tĩnh" ở đây chỉ ánh mắt tĩnh lặng như ánh trăng mùa thu. Nhìn vào khiến người ta có cảm giác điềm tĩnh, nhìn kỹ vẫn thấy rất yên tĩnh. Hơn nữa cho dù mình nhìn họ bao lâu, họ cũng tỏ ra rất bình thường, thư thái. Người xưa nói đó là nhãn thần nhân từ, yên bình, quý giá.
Thử tư gọi là
thần cấp: Chữ "cấp" ở đây là chỉ mắt thường động, hành vi cũng động. Con mắt thường đảo luôn giống như mắt khỉ. Người xưa nói: "Nếu mắt tròn, sâu, ánh mắt sáng động thì có thể thành tài. Nếu thần khí gấp, nói nhanh, đi nhanh, ăn uống nhanh, dễ vui, dễ buồn thì người đó sớm phát đạt, nhưng cũng dễ gặp nguy hiểm đến tính mạng". Đó không phải là nhãn thần tốt.
Thứ năm gọi là
thần uy: Người tuy không phát tức nhưng lộ vẻ uy nghiêm, con mắt vừa dài vừa to, tuy mở hay nhắm nhưng mắt vẫn có khí thế. Khi gặp việc vui mừng lông mày vẫn không mềm, khi gặp việc bực bội cũng không cứng đơ ra. Người như thế dễ có thần uy đối với người khác, khiến cho người ta thấy sợ. Người có nhãn thần như thế hoặc là người xấu, hoặc là người xuất chúng.
Thứ sáu gọi là
thần hôn: Chữ "hôn" ở đây là chỉ mắt tuy mở ra nhưng ánh mắt mơ màng, lơ đễnh, nét mặt không rõ ràng. Mắt béo bệch và hơi phù. Người có ánh mắt như thế chứng tỏ sẽ nghèo khổ, hèn kém, làm việc gì cung không thành, kết quả chẳng ra sao.
Thử bảy gọi là
thần hòa: Ánh mắt yên tĩnh, hài hòa, sáng một cách tự nhiên. Người như thế hiền và điềm đạm, không vui cũng có nét mặt như vui, lúc tức giận chỉ hơi có sắc tức giận, song nói chung sắc thái phần nhiều là tươi vui. Từ xa nhìn anh ta đã cảm thấy có hòa khí. Người có ánh mắt như thế thì tấm lòng rộng rãi, không hay đố kỵ, ít thiên kiến đối với người khác.
Thứ tám mọi là
thần "kinh": Chữ "kinh" là chỉ thần khí nhu nhược giống như hốt hoảng, sắc mặt thường thay đổi, mơ màng không sáng sủa, giống như người bị mất cắp, tâm thần bất định, mắt đảo luôn, miệng thường lẩm bẩm, đứng ngồi và ăn uống thường tỏ ra e sợ. Người có thần mắt như thế làm việc gì cũng không kiên quyết đến cùng.
Thứ chín gọi là
thần say: Ánh mắt giống như người say rượu, tròng mắt chuyển động chậm chạp như người ốm lâu không khỏi, lờ đờ không tỉnh, mắt trừng lên, thần khí hôn mê. Người có nhãn thần như thế thường ngu muội, kém linh hoạt, dễ bị người khác lừa gạt.
Thứ mười gọi là
thần thoát: Là chỉ vừa thấy có ánh mắt nhưng rất nhanh lại như không có, giống như người nộm làm bằng gỗ hoặc bằng đất. Mặc dù người đó vẫn ngồi ăn cơm, uống trà bình thường nhưng chẳng có thần khí gì. Đang nói chuyện với nhau nhưng anh ta lại chú ý đi đâu hoặc quay mình sang phía khác. Loại người như thế gọi là cái "xác biết đi", Người có nhãn thần này lâu nhất không quá một năm sẽ phát cuồng hoặc ốm chết.
Ở đây ta không đi sâu phân tích cách nói thiếu tính khoa học này của người xưa, nhưng tối thiểu, cách nói đó cũng chứng tỏ vai trò của nhãn thần từ xa xưa đã rất được con người chú ý.
Vậy thì nhãn thần trong giao tiếp và đàm phán có những hàm nghĩa tâm lý cụ thế gì? Chúng ta làm sao qua nhãn thần của đối phương để hiểu và nắm bắt được thế giới nội tâm của họ?
Thông qua sự phân tích dưới đây mong sẽ giúp độc giả có được sự hiểu biết cụ thể hơn.