Mệnh lý trân bảo giảng nghĩa

N

Người Lái Đò

Guest
MỆNH LÝ TRÂN BẢO GIẢNG NGHĨA
Đoàn Kiến Nghiệp
Mục lục.
• Kỳ 1. Bí truyền sanh hài tử
• Kỳ 2. Luận về địa chi lục xung
• Kỳ 3. Lục hợp tại bát tự
• Kỳ 4. Lấy lộc là tài
• Kỳ 5. Thương quan khứ quan cách
• Kỳ 6. Luận về “chủ, khách” trong bát tự
• Kỳ 7. Mệnh lý chân giả
• Kỳ 8. Dụng pháp về tương hại trong bát tự
• Kỳ 9. “Có” cùng “không có” trong bát tự
• Kỳ 10. Tam hình trong bát tự
• Kỳ 11. Luận về thập can hỉ kỵ
• Kỳ 12. Những nhầm lẫn trong tài liệu mệnh học
• Kỳ 13. Điều hậu chánh giải
• Kỳ 14. Ý hướng của thập thần
• Kỳ 15. Thương quan làm tài
• Kỳ 16. Ứng dụng phục ngâm
• Kỳ 17. Hiểu rõ về bịp bợm lừa đảo
• Kỳ 18. Dự đoán mệnh trong thực tiễn_phần 1
• Kỳ 19. Dự đoán mệnh trong thực tiễn_phần 2.
• Kỳ 20. Cách xem về tính dục
• Kỳ 21. Tường giải quan hệ bát tự, đại vận cùng lưu niên
• Kỳ 22. Phân biệt bát tự tòng cách như thế nào?
• Kỳ 23. Địa chi phá dụng pháp
• Kỳ 24. Tỉ kiếp khứ tài cách
• Kỳ 25. Dụng pháp đặc biệt cho “Tuất”
• Kỳ 26. Ý hướng can chi
• Kỳ 27. Cách xem mệnh làm quan.
• Kỳ 28. Giải thích mệnh cục Lương Khải Siêu
• Kỳ 29. Thập thần đa ý hướng
• Kỳ 30. Cách xem về tài mệnh
• Kỳ 31. Cách xem về tai họa lao ngục
• Kỳ 32. Ứng dụng hư thật can chi
• Kỳ 33. Chú trọng bát tự tiên thiên
• Kỳ 34. Mệnh Tích Thuyền Vương
• Kỳ 35. Vài ví dụ thực tế
• Kỳ 36. Bát tự dụng thần cùng mã xổ số
• Kỳ 37. Mệnh học lục đại yếu huyền
• Kỳ 38. Ba cách chế kỵ thần
• Kỳ 39. Ký sự mệnh lý
• Kỳ 40. Đoán hôn nhân tốt xấu như thế nào
• Kỳ 41. Bán lộc đào hoa (lộc bị hợp trói thì đào hoa)
• Kỳ 42. Quan tài môn
• Kỳ 43. Hoạn thê tư phu
• Kỳ 44. Hôn nhân mấy lần?
• Kỳ 45. Từ bát tự con cái xem cha mẹ
• Kỳ 46. “Thế, ứng” trong bát tự
• Kỳ 47. Chu Nguyên Chương
• Kỳ 48. Tầm quan trọng của thiên địa hợp
• Kỳ 49. Khứ ấn đắc quyền
• Kỳ 50. Xem “mất việc” cùng “nghỉ việc” trong mệnh lý như thế nào?
Kỳ 1. Bí truyền sanh hài tử

Càn tạo.
Mậu tuất kỷ mùi ất tị đinh hợi
Đại vận: Nhâm tuất. Lưu niên: Mậu thìn.
Năm này không thể sanh con do hư thai, đồng thời năm này cũng lại mang thai. Đinh hỏa (thực thần) là con gái, lại lâm cung tử tức. Năm đinh mão mang thai, sao con gái là đinh hỏa phùng hợp, thê tinh tuất thổ phùng hợp, chứng tỏ vợ mang thai, nhưng đinh hỏa hợp nhâm thủy khá yếu, đến năm mậu thìn mậu khắc nhâm, nhâm không thể hợp đinh, nên hư thai. Mà năm mậu thìn lại mang thai, nguyên nhân do thìn tuất xung, thê tinh tuất là mộ khố của đinh hỏa, phùng lưu niên khai mộ khố là mang thai.

Bản mệnh mậu tuất ở trên tại năm mậu thìn phá tài rất rõ ràng, nguyên nhân là hỉ thần của bát tự là thủy mộc, thổ là kỵ thần, lưu niên đại vận gặp thổ vượng, nhất định phá tài.

Người này gặp kiện tụng, nguyên nhân là 1 thìn xung 2 tuất, tuất là kỵ thần bên trong lại tàng thất sát chủ kiện tụng. Do thất sát không thấu lộ khắc thân, cho nên không phải là kiện tụng hình sự, mà đều là tranh chấp kiện tụng dân sự. Bởi do tuất là mộ khố là ẩn tàng, đến năm thìn dẫn động, không còn ẩn tàng nữa. Kiện tụng không liên quan đến anh ta mà là tài xế. Ấn là xe cộ, khắc ấn là tài xế. Đại vận nhâm tuất, chi tuất là tài xế. Đầu tiên lưu niên cùng đại vận phát sinh tác dụng, sau đó lại tác dụng đến bát tự. Cho nên người gây ra kiện tụng là tài xế. Ấn tinh nhập mộ biểu hiện giam xe.
Càn tạo
Ất dậu canh thìn đinh mùi quý mão
Mùi là nguyên thần của tài lâm thê vị, có thể xem là vợ, trong mùi tàng ất mộc có thể xem là vợ mang thai nhi, phùng không vong, ta đoán là: “Ngươi có 1 đứa con chưa sanh đã chết trong bụng mẹ”, quả đúng vậy.
Kỳ 2. Luận về địa chi lục xung

Địa chi lục xung hết sức phức tạp, xung trong bát tự, đại vận cùng bát tự xung, xung thái tuế đều không giống nhau. Cụ thể có 7 loại xung: Xung hung, xung vượng, xung động, xung khai, xung xuất, xung khử, xung phá.

Xung hung là gì?

Kỵ thần trong mệnh cục xung đại vận hoặc kỵ thần tại đại vận thông căn đắc vượng xung mệnh. Tuế vận xung hung thì sẽ phát sinh hung sự.

Như ví dụ trong Tích thiên tủy:

Bính dần giáp ngọ bính ngọ quý tị

Mệnh này tòng cường, mộc hỏa là dụng thần, đến vận kỷ hợi là kỵ thần quý thủy thông căn, phá gia nghiệp mất mạng. Nguyên văn giảng kích vượng liệt hỏa là không chính xác, nguyên nhân hỏa là hỉ thần, xung vượng hỉ thần là rất tốt, vậy sao mất mạng? Nguyên nhân chính là trong bát tự kỵ thần thủy xuất hiện tại đại vận xung mệnh cục nên hung.

Lại như Nhạc Phi:
Quý mùi ất mão giáp tý kỷ tị
Đại vận: Giáp dần/ quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi

Đến vận tân hợi, năm tân dậu bị hại. Trước nay có nhiều giải thích nhưng đều không đúng (kể cả ta). Thầy Vương Hồ Ứng nhận định mệnh này tòng cường, lấy mộc hỏa là dụng thần, ta hỏi tòng cường cách đến năm tân dậu xung mão mộc hỉ thần thì càng tốt, cớ sao đại hung? Sau này nghiên cứu mới biết mệnh này nguyên nhân đại vận gặp tân (quan) là kỵ thần không được chế hóa, đến vận kỵ thần sợ nhất kỵ thần đắc căn, nên năm tân dậu là lúc đại hung, tức hung thần xuất hiện tại lưu niên. Nếu ông ta không gặp vận tân hợi mà gặp vận nhâm tý, phùng lưu niên tân dậu thì gọi là xung vượng, rất tốt.

Xung vượng là gì?

Thái tuế xung thần cực vượng trong bát tự, như vượng hỏa xung nhược thủy, kích động vượng thần. Xung vượng hỉ thần thì tốt, xung vượng kỵ thần thì hung. Đại vận xung thần cực vượng trong bát tự không phải là xung vượng, tốt hay xấu cần xem tình huống: Hung thần trong bát tự không bị chế hóa, lại đắc căn tại đại vận thì hung; hung thần trong bát tự bị chế hóa, hung thần xuất hiện tại đại vận, là lúc hung thần bị khử mất nên cát.

Ví dụ về xung vượng thần. Càn tạo

Đinh mùi bính ngọ mậu ngọ đinh tị
Bát tự tòng cường, hỉ gặp mộc hỏa thổ, không nên gặp kim thủy. Bát tự không có kỵ thần kim thủy, mệnh khá thuần. Đến vận quý mão, năm ất hợi_bính tý, gọi là xung vượng thần hỏa (là dụng thần), nên cát lành không hung. Tuy nói quý thủy là kỵ thần, nhưng phùng mậu hợp mất quý, không thể hung hiểm. Mệnh này cha mẹ song toàn, gia đình hoàn mỹ. Cho nên nói tỉ kiếp trùng trùng khắc cha, thật sai lầm vậy!

Xung động là gì?

Thái tuế xung vượng thần trong bát tự là động, xung vượng thần tại đại vận là động. Đại vận chỉ trạng thái tĩnh, một chữ bị xung mà phát động, ảnh hưởng đến mệnh cục hoặc phát sinh chuyện.
Kỳ 3. Lục hợp tại bát tự

Địa chi lục hợp là loại hợp nhiều nhất trong bát tự, là hiện tượng kết hôn. Dụng pháp về lục hợp chủ yếu là hợp lưu và hợp trói, đặc biệt đối với hung thì có hợp khứ.

Trong mệnh ứng kỳ kết hôn là lúc có lục hợp, tức xu hướng hợp lưu, tức tại đại vận có phối ngẫu tinh vượng hoặc phùng xung-hình, phùng thái tuế hợp là năm sẽ kết hôn; hoặc phối ngẫu cung hợp lưu niên cũng biểu hiện kết hôn. Đặc biệt tình huống thái tuế hợp phối ngẫu tinh trong mệnh, đều là xu hướng hợp lưu.

Nguyên lý cơ bản của hợp trói (bị buộc chặt không còn tác dụng) là: hợp trói hỉ thần thì hung, hợp trói kỵ thần thì cát. Đồng thời cần phối hợp xem khách chủ của bát tự. Tức khách hợp trói kỵ thần thì cát; chủ hợp trói kỵ thần thì hung; khách hợp trói hỉ thần không cát, chủ hợp trói hỉ thần thì cát. Đây là nguyên tắc căn bản.

Ví dụ. Càn tạo

Đinh mùi nhâm tý đinh tị tân hợi

Bát tự lấy mộc hỏa làm dụng thần, mệnh này đến vận kỷ dậu, năm đinh sửu phát tài. Ngược lại tại năm mậu dần, kỷ mão phá tài, có người gặp tình huống này giải thích không thông sẽ tin rằng mệnh này tòng tài, thực tế không phải vậy!

Năm đinh sửu: kỵ thần sửu, hỉ thần đinh, đinh nhược sửu vượng, sửu khởi tác dụng mạnh, vốn tị dậu sửu tam hợp kim cục, là kỵ thần hợp thành kỵ thần cục đại hung. Tuy nhiên phùng tý sửu hợp, lục hợp có thể hóa giải tam hợp, bởi vì lục hợp là kết thân (kết hôn), tam hợp là kết đảng, theo lẽ thường tình, một người đi xa trở về sẽ gặp thân nhân gia đình trước, mà sẽ không gặp tổ chức hội đảng trước. Tý sửu hợp, tý là khách, là kỵ thần, 2 kỵ thần tương hợp là kỵ thần hợp trói, không khắc hại dụng thần, cho nên đại cát.

Năm mậu dần, vốn dần là hỉ thần sanh hỏa, phùng dần hợi tương hợp, hỉ thần bị hợp trói, cho nên không cát.

Năm kỷ mão vì sao không cát, hãy tự xem xét.

Mệnh này tại năm canh ngọ là năm phân công tốt nghiệp, nguyên nhân ngọ là hỉ thần, ngọ mùi hợp trói, hỉ thần hợp khách (mùi là khách) nên không tốt.

Năm đinh mùi tỉ kiên là đồng bối, đương nhiên đinh mùi trong bát tự là hỉ dụng thần, nên chị anh ta thăng quan đối với bản thân anh ta cũng là chuyện tốt.

Ví dụ. Càn tạo

Giáp dần quý dậu đinh sửu canh tý

Mệnh này tòng tài cách, thủy là kỵ thần, thổ kim là dụng thần. Đến vận bính tý, năm đinh sửu, sửu là hỉ thần, vốn đại cát, nhưng phùng tý sửu hợp trói. Năm này kiếm được rất nhiều tiền từ cổ phần góp vốn. Nhưng nguyên do bạn bè không đủ tiền nên không thể trả đúng hạn, chỉ được một ít tiền. Sở dĩ còn có thể được tiền, nguyên nhân trong mệnh có sửu là dụng thần, tại lưu niên lại xuất hiện nên xảy ra.

Hợp hung là một loại khác. Như trong mệnh cục thiên tài (đại biểu cha) quá nhược, lại đến đại vận nào đó mà thiên tài lâm tử địa, lại gặp lưu niên hợp thì có thể là năm cha mất.

Ví dụ. Càn tạo

Mậu tý tân dậu nhâm tuất nhâm tý

Đại vận: Nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý

Mệnh này tân dậu chánh ấn là mẹ, tuất thổ không sanh kim lại toàn cục tiết khí kim, chỉ mậu thổ có thể sanh kim, đến đại vận giáp tý, giáp khắc mất mậu thổ, tân kim lâm tử địa, mẹ mất tại vận này. Xảy ra vào năm nào? Năm bính thìn hợp tân dậu (mẫu tinh) là hợp khứ, mất vào năm này.
Kỳ 4. Lấy lộc là tài

Lộc trong mệnh lý có nghĩa chính là địa vị. Theo nghĩa từ thì lộc là bổng lộc, ăn uống, hưởng thụ, có thể giải thích là tài phú. Trong “quan lộc cách” lấy lộc là quan, đó là lộc đã thành cách, lộc chưa thành cách ý nghĩa chủ yếu là tài phú.

Như bát tự: Tân hợi tân sửu canh thân giáp thân

Có thực thần phá hủy quan lộc cách. Nên xem lộc là tài. Đến vận kỷ hợi, năm bính tý phá tài. Nguyên nhân do tiết lộc thần.

Lại ví dụ. Đinh mùi bính ngọ canh thân đinh sửu

Mệnh này bát tự không có tài, nhưng là người rất tài giỏi, làm nghề lái xe kiếm tiền, thân kim là chuyên chở là xe. Vận quý mão, năm mậu dần, tài sanh sát xung khứ thân kim (lộc), lái xe đụng chết người phải bồi thường đến 6 vạn. Hác tiên sinh đoán: “Năm nay ngươi không phải bồi thường tức có người nữ bồi thường giúp, người nữ đó là vợ ngươi”. Đương nhiên vợ người này rất giàu, cuối cùng không có chuyện gì. Sanh cho anh ra 2 đứa con vào năm dần. Năm giáp tuất vợ con mất. Sửu chính là kim khố có thể dưỡng kim, phùng xung không phá, thê cung gặp hung.

Ví dụ. Khôn tạo

Đinh mùi kỷ dậu tân sửu tân mão

Mệnh này rất nhiều người lấy tài làm dụng thần, mão mộc cực suy, không có nguyên thần sanh trợ, về lý không thể làm dụng thần. Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thần. Vận quý sửu, năm canh thìn, cùng với người khác hợp tác đầu tư sản xuất dụng cụ chữa bệnh, kiếm rất nhiều tiền. Sửu thổ sanh kim, thìn thổ sanh kim, canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm, là hợp tác với nhiều người đa phần về tiền bạc mà thôi.

Lộc thần sợ nhất gặp kiếp tài.

Ví dụ. Khôn tạo

Mậu ngọ bính thìn kỷ mùi kỷ tị

Kỷ lộc tại ngọ, không tại mùi, ngọ lộc kề sát kiếp tài, cũng biết sản nghiệp tổ tiên chỉ phân cho anh em, cô ta thì không được. Nguyên nhân ngọ mùi hợp, có thể chồng cô ta được cha mẹ cho tài sản. Mệnh này nếu trụ giờ là đinh hoặc ngọ hỏa thì rất quý. Hiện tại chỉ có thể dựa vào tỉ kiên kỷ thổ. Vận giáp dần, giáp hợp kỷ tỉ kiên không cát. Dần mộc sanh hỏa thì cát. Năm canh thìn, thìn là kiếp tài nên hung, tự hình thìn thìn khai thủy khố, bị kiếp tài phá tài, nhưng canh giáp tương xung giải giáp kỷ hợp, cuối cùng được phá án thu hồi một phần tài sản.

Lại ví dụ. Càn tạo

Quý mão mậu ngọ kỷ dậu giáp tuất

Đại vận: Đinh tị/ bính thìn/ ất mão

Mệnh này khó xem nhất, đến đại vận ất mão anh ta bắt đầu phát tài, đến nay thu hơn mấy trăm vạn. Có người giải thích quý thủy tài tinh là dụng thần, bị mậu hợp, đến vận mộc khử đi mậu thổ cứu tài. Tài cực suy bị hợp mất, làm sao có thể cứu nổi? Sau này có người cho rằng tòng cường cách, nhưng tòng cường thì hỉ ấn, khi còn bé vận đinh tị cả nhà đều cơm áo không đủ. Ta cho rằng mệnh này thuộc lộc cách. Thực thần dậu là bệnh thần, nên khử đi. Kiếp tài là kỵ thần, cho nên anh ta từng bị người anh họ lừa gạt 2 lần. Năm canh thìn anh ta cho vay 30 vạn, bảo đảm sẽ không thu hồi được. Anh ta đổi tên công ty, tuyên bố đóng cửa công ty trước kia, nhưng có thể không thu hồi được khoản tiền.
Kỳ 5. Thương quan khứ quan cách

Ví dụ. Đại tham quan Hòa Thân.

Canh ngọ ất dậu canh tý nhâm ngọ

Đại vận: bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần

Mệnh này thương quan kiến quan, tài tinh cực nhược lại bị hợp, vì sao lại làm quan chức cực cao, lại tham đắc tài nhiều nhất? Mệnh này kim thủy thương quan, chứng tỏ thông minh tuyệt đỉnh, tài hoa hơn người, có quan tinh, tài tinh hỗn cục là bệnh thần, phùng thương quan khứ quan, tỉ kiếp khử tài. Gọi là khử kỵ thần thì đắc kỵ thần, là hỉ, cho nên có thể được làm quan lại đắc tài. Đến vận hợi tý sửu phương bắc thủy địa, thương quan khử quan, thăng làm trung đường. Đến vận canh dần, kỵ thần ngọ hỏa phùng trường sanh, kỵ thần tài lâm vượng. Mùa xuân năm kỷ mùi bị xử tử.

Kết cấu mệnh cục loại này nếu không thấy tài thì sẽ là quan thanh liêm, nếu không thấy quan tinh, sẽ có tài khí mà không làm quan, nếu tài thấu rõ ràng không hợp, lòng tham không đáy mà lại phung phí vô độ, nếu quan tinh cùng thương quan không kề sát, thì chức quan sẽ không lớn.

Ví dụ. Càn tạo

Ất tị canh thìn tân mão nhâm thìn

Đại vận: kỷ mão/ mậu dần/ đinh sửu/ bính tý/ ất hợi

Mệnh này trong “Bặc văn mệnh học”, nguyên văn nói lấy thủy làm dụng thần, không nói vì sao? Thật ra mệnh này tỉ kiên nhược, nhâm thủy không phải là bát tự tú khí, không thành cách thương quan tiết tú, thành cách thương quan khứ quan. Đương nhiên mệnh này kết cấu thương quan cùng quan không kề sát, cho nên quan chức không lớn. Đến đại vận bính tý, quan tinh hư nhược thấu lộ cùng thương quan gặp nhau, thương quan khử quan mà làm quan. Liền thăng chức quan. Có thể đoán nhâm ngọ lại thăng 1 bậc, năm nhâm ngọ thương quan kiến quan thiên khắc địa xung, theo lý luận của Thiệu Vỹ Hoa ắt đại hung, nhưng Hác tiên sinh đoán năm nhâm ngọ sẽ thăng chức. Đến vận ất hợi, năm đinh hợi thăng chức đứng đầu 1 sở. Bước đầu tiên anh ta thăng chức phó là vào năm ất hợi. Không hiểu mệnh lý, nói xằng bậy không biết sẽ hại bao nhiêu người.

Lại ví dụ. Càn tạo

Giáp ngọ nhâm thân canh tý mậu dần

Đại vận: quý dậu/ giáp tuất/ ất hợi/ bính tý/ đinh sửu

Ta đoán mệnh này năm quý hợi thăng chức; năm nhâm thân, quý dậu thăng chức, kết quả chính xác! Đây là mệnh cục trưởng cục công thương, nghe nói là đại tham quan. Năm mậu dần, vợ bị nhọt ở não phải giải phẫu, đến năm kỷ mão bản thân anh ta bị liệt phải điều trị ở bệnh viện. Nguyên nhân rất đơn giản là, tham đắc tài quá nhiều. Mệnh này vào vận mậu dần sẽ bị xét xử, hoặc mắc bệnh mà chết.
Kỳ 6. Luận về “chủ, khách” trong bát tự.

Chủ khách là điểm quan trọng nhất trong mệnh lý học.

- Đầu tiên, lấy nhật can là chủ, can chi khác là khách. Lại lấy trụ ngày là chủ, các trụ khác là khách. Lại lấy ngày giờ là chủ, năm tháng là khách. Kề sát nhật chủ là chủ, cách xa nhật chủ là khách. Lại lấy mệnh cục là chủ, lưu niên đại vận là khách. Cuối cùng đại vận là chủ, thái tuế là khách.

- Kế đến, xem lục thần. Lộc ấn tỉ kiên là chủ, các thần khác là khách; thực thần, tài tinh là chủ, sát nhận kiếp tài là khách.

- Cuối cùng dụng thần hỉ thần là chủ; kỵ thần cừu thần là khách.

Như vậy, cần phải biến thông quan hệ phức tạp chủ khách, không thể cứng nhắc. Tầng lớp chủ khách là có tính tương đối. Đối với cuộc sống chúng ta, ta là chủ, thân nhân của ta là khách. Cha mẹ ta đối với ta là người khác. Lại theo quan hệ thân tộc, thì quan hệ càng gần ta là chủ, quan hệ càng xa ta là khách. Như vậy trong bát tự, có thể phân biệt phát sinh sự kiện cát hoặc hung đối với bản thân, hay đối với thân nhân. Đồng thời cũng có thể phân biệt tính chất cát hung, mức độ nghiêm trọng ra sao. Vì sao thọ tinh (sao biểu thị thọ, yểu) là nhật chủ, lộc, ấn, thực thần cùng tài tinh, bởi vì chúng là “chủ”. Chỉ có “khách” tác dụng cùng ảnh hưởng đến “chủ”, mà không có chiều ngược lại

Ví dụ. Càn tạo

Giáp thìn kỷ tị mậu dần canh thân

Đến vận quý dậu, năm đinh sửu sẽ có chuyện gì?

Một người trả lời ngay năm này ấn tinh tị hỏa bị hợp, mẹ qua đời. Người khác nói bản thân mắc bệnh về mắt hoặc tim có vấn đề. Thực tế người thứ nhất sai lầm, người thứ hai tương đối chính xác, năm này người này bị mù mắt. Nguyên nhân là tị hỏa là lộc của nhật chủ, nguyên thần dần mộc bị khắc, dần mộc tại trụ ngày, lộc cùng trụ ngày đều là chủ, cho nên là việc xảy ra chính bản thân mình. Nếu dần mộc tại chi năm, có thể đoán là mẹ bị mất mạng.

- Cuối cùng, thái tuế từ bên ngoài đến là khách, tác dụng bát tự đại vận “Thái tuế” hoặc “Chinh thái tuế” thiếu chính xác. Nhưng thái tuế phản khách làm chủ (tức can, chi thái tuế kiến lộc), tức có thể xác định 1 loại ứng kỳ của bát tự, tức năm này chủ yếu phát sinh sự việc cát hoặc hung.

Ví dụ. Khôn tạo

Đinh dậu giáp thìn mậu ngọ giáp tý

Đại vận: Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân

Bát tự thân nhược dụng hỏa, tý ngọ xung  hỏa bị thương khắc. Phu cung bị xung, hôn nhân ban đầu không thuận lợi. Đến vận mậu thân, thân tý thìn hợp vượng thủy cục xung ngọ, có thể đoán vận này ly hôn. Thời điểm ly hôn có thể xảy ra vào năm tý hoặc năm thìn. Bình thường không xảy ra vào năm thân, nguyên nhân thân không hiện trong bát tự mệnh cục. Xem kỹ phu tinh, năm bính tý cùng giáp không phát sinh tác dụng nặng, mà năm canh thìn, canh giáp tương xung, canh lại chính là kỵ thần; thân kim tại thái tuế thấu can (tức canh tàng trong thân thấu can tại năm canh thìn), đây là thái tuế phản khách làm chủ. Canh khử đi giáp mộc, nên năm này ly hôn.

Ví dụ. Càn tạo

Canh tý canh thìn canh ngọ ất dậu

Mệnh này tỉ kiên trùng trùng, thiên tài là cha, nhưng mệnh cục không có thiên tài nên không khắc cha. Đến vận giáp thân, thiên tài hư nhược thấu xuất gặp khắc, có thể đoán cha mất. Năm mậu dần thái tuế thông lộc, phản khách làm chủ, bị thân kim bị xung phá, năm này cha mất. Giả sử không gặp vận giáp thân, đổi lại là vận mậu thân hoặc canh thân, thì năm mậu dần không dám đoán là cha mất, nguyên nhân thái tuế là khách, không có giáp xuất hiện, không đủ điều kiện phản khách làm chủ.

Kỳ 7. Mệnh lý chân giả

Thông thường người học mệnh lý hơn 10 năm, thậm chí vài chục năm, nhưng có thể càng học càng đoán hồ hồ. Nguyên nhân căn bản là người học không nhìn thấy được mệnh lý chân giả. Nguyên nhân nhiều thầy giảng không đồng nhất, chẳng biết ai đúng ai sai.

Ví dụ. Càn tạo, tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton

Bính tuất bính thân ất sửu mậu dần

Đại vận: Đinh dậu/ mậu tuất/ kỷ hợi/ canh tý/ tân sửu/ nhâm dần/ quý mão

Vận tân sửu, năm nhâm thân đắc cử tổng thống, năm bính tý lại tái đắc cử. Bát tự này dụng thần là gì?

Nếu nói dụng thần là bính hỏa, tại sao tại đại vận kim thủy vượng lại cát? Nếu nói dụng thần là kim thủy, bát tự không có thủy, làm sao dụng thủy; dụng kim cũng không trọn vẹn. Trên thực tế, mệnh này dụng thần chính là bính hỏa, thành thương quan khứ quan cách, nên đến vận quan có thể làm quan, đây là đại vận ứng kỳ. Ta ví dụ cho dễ hiểu, chỉ khi có tội phạm xuất hiện thì cảnh sát mới có ích lợi vì bắt tội phạm. Nếu không có tội phạm, thì cảnh sát thành vô dụng dư thừa. Tại vận nhâm dần không thấy quan sát, thương quan thành vô dụng, nên không làm quan nữa.

1. Bình thường người dụng thần là thương quan thì lật đổ người khác để mình nắm quyền.

2. Thương quan thấu can thì tính cách cũng rất đường hoàng. Thương quan cũng biểu tượng cho trưng cầu dân ý cùng tự do, nếu thương quan thấu rõ ràng chế quan cách là được dân bầu lên làm lãnh đạo nhân dân.

Rất nhiều sách viết, phùng thiên khắc địa xung, tuế vận cũng thiên khắc địa xung, chinh thái tuế, thương quan kiến quan, tam hình đều là năm hung họa. Chỗ này là những người không hiểu mệnh lý dụng tâm hù dọa người. Đa số không nghiệm. Mệnh lý căn bản là ngũ hành sanh khắc cùng hình xung hóa hợp, mà không phân biệt thần sát. Cho nên ta chủ trương đệ tử cần chăm chỉ nghiên cứu đọc Tích thiên tủy, tận lực nghiên cứu tư liệu mệnh học.
Kỳ 8. Dụng pháp về tương hại trong bát tự

Nhớ kỹ Hác tiên sanh giảng cho ta, trong bát tự: Hại có khi còn nguy hiểm hơn xung. Tý mùi tương hại, mão thìn tương hại, dần tị tương hại, sửu ngọ tương hại, thân hợi tương hại, dậu tuất tương hại. Nếu vừa tương khắc lại tương hại thì nguy hiểm nhất.

Ví dụ. Càn tạo

Canh tý canh thìn canh thìn mậu dần

Đến vận quý mùi, năm đinh mão, mão hại thìn (ấn tinh), mẹ mất. Vì sao phát sinh tại vận quý mùi, do tý mùi tương hại, hại nên mẹ gặp sự cố. Đương nhiên còn có một nguyên nhân là vận “Hoạn mẫu” (vận mẹ bị tai họa).

Lại ví dụ. Càn tạo

Nhâm dần mậu thân ất dậu mậu dần

Đại vận: kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi

Xem hôn nhân của mệnh này, mậu thổ thê tinh tại can tháng lại đến vận tuất thổ tài vận, nên luận kết hôn sớm. Thực tế người này ở vận tuất vẫn không tìm được đối tượng thích hợp để kết hôn. Nguyên nhân là dậu tuất tương hại, cho nên thê cung bị hại. Năm mậu thìn, thìn tuất tương xung, thìn dậu hợp giải dậu tuất tương hại, gặp được đối tượng. Đến vận tân hợi, năm kỷ tị kết hôn.

Ta có đồng nghiệp cha cô ta đột nhiên qua đời, trước đây thầy Vương Hổ Ứng đã nhắc nhở cô ta phải chú ý đến bệnh tim của cha vào sau lập thu, Không ngoài tiên liệu, sau lập thu cha cô ta bị bệnh tim không biết mà mất, bát tự như sau, Khôn tạo:

Mậu thân tân dậu đinh mùi quý mão

Đại vận: Canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ/ đinh tị

Đến vận mậu ngọ, năm canh thìn, tháng thân, ngày dậu, cha qua đời.

Một người cho rằng: Mệnh này dậu kim tài là cha, vận mậu ngọ hỏa khắc kim, cha bị khắc nên mất mạng. Lập tức có người đưa ra ý kiến trái ngược, nói là bát tự tài rất vượng, vận mậu ngọ hỏa sanh mậu thổ, lại sanh kim, kim khá vượng, năm canh thìn lại trợ kim, cha quá vượng mà mất mạng. Ta nói: Thời niên thiếu cô ta gặp vận canh thân, canh kim vượng, vì sao cha chưa chết vẫn còn sống? tất cả lý giải đều không chính xác. Chỉ có tìm được chánh lý, mới có thể giải thích xác đáng.

Ta nói: Quan sát tại trụ năm trụ tháng, tài tinh tại trụ giờ hư thấu cùng tài tinh tại trụ năm trụ tháng, quan sát tại trụ giờ hư thấu đều là kết cấu bát tự trung niên sẽ bị tang cha (tức trong khoảng từ 30-40 tuổi). Mệnh này, tài là cha là theo cách xem thông thường, do thấu sát cho nên lấy sát làm cha, sát tọa ấn, ấn tinh mão mộc cũng là cha không phải mẹ, “quý mão” một trụ coi như là cha. Nguyên nhân sát tại trụ giờ, cho nên sẽ không có tang cha sớm. Vận mậu ngọ hợp mất quý thủy không thể sanh mão mộc, mão mộc phùng ngọ là lâm tử địa, cho nên vận này cha mất. Năm canh thìn tương hại mão mộc, tháng thân mộc lâm tuyệt địa, phùng ngày dậu xung phá mà mất mạng. Có thể thấy được tương hại đáng sợ đến mức nào.
Kỳ 9. “Có” cùng “không có” trong bát tự

Ta cho rằng học mệnh lý quan trọng nhất là nhận thức đúng về mệnh lý. Từ kỳ thứ 1 đến thứ 8 cũng không có dạy nhiều về dụng pháp, mà là dạy về mệnh lý cùng lý luận nhận thức. Kỳ này cũng như vậy. Ta trước tiên học mệnh thì có 1 loại sai lầm về nhận thức, hay bát tự khuyết kim thì cho rằng phải bổ kim, bát tự nhiều kim thì phải tiết kim hoặc khắc kim. Tất cả đều là nhận thức sai lầm. Đọc “Tích Thiên Tủy” cùng “Mệnh lý chỉ yếu” đều có thể hiểu được mệnh lý chánh lý.

Ví dụ. Càn tạo

Nhâm tý quý mão nhâm tý bính ngọ

Đại vận: giáp thìn/ ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi

Hác tiên sinh từng hỏi ta bát tự người này làm gì? Ta không trả lời được. Thực tế người này là 1 tên ăn mày. Đến vận bính ngọ đang hành nghề ăn xin. Bát tự có tài đến tài vận là lúc nghèo nhất. Nếu như bát tự này thay đổi trụ giờ, can chi không thấy tài tinh, dám chắc không phải là tên ăn mày. Mệnh này thân cực vượng, lệnh tháng mão mộc bị hình, bị hại không thể tiết thủy sanh hỏa, tài tinh là kỵ thần, thấy tài là hại, huống hồ tài tại môn hộ (trụ giờ là môn hộ), môn hộ chỉ thấy tài, nhất định là tên ăn mày.

Quý mão đinh tị đinh tị nhâm dần

Bát tự này tòng cường, sẽ không là tên ăn mày, mà sanh vào giờ thân dậu thì nhất định là tên ăn mày.

Cho nên, xem bát tự có một nguyên tắc, trong bát tự cái gì là kỵ thần hoặc bệnh thần, thần này vượng trong bát tự hoặc vượng xuất hiện tại đại vận, tức thần này đại biểu sẽ gặp việc không tốt. Nếu thần này tại bát tự, đại vận nhược hoặc bị khử mất, biểu thị sẽ đắc thần này, là thần này bị hao tổn mà có thu hoạch lớn. Nếu bệnh thần cùng kỵ thần tại bát tự đại vận không xuất hiện, có thể nói thần này đại biểu sự vật không cần theo đuổi mà tự nhiên sẵn có. Còn có đạo lý trái ngược: Nếu trong bát tự hỉ thần cùng dụng thần bị hư hoại hoặc phùng đại vận bị hư hoại, tức thần này đại biểu gặp sự việc hung. Nếu như thần đó đại biểu chồng hoặc vợ, không bị hư hoại, tức có thể chồng hoặc vợ vô sự mà luận cát. (chú thích cho rõ: Ông Nghiệp viết chỗ này hơi khó hiểu. Tôi viết lại cho rõ để mọi ngừoi dễ hiểu là: Ví dụ nếu trong mệnh tài quan là kỵ thần thì đến vận kỵ thần vượng ắt hung. Nhưng nếu kỵ thần tài quan trong mệnh bị chế, thì đến vận gặp kỵ thần lại cát, đắc tài, đắc quan).

Ví dụ. Khôn tạo

Giáp thân bính tý ất sửu kỷ mão

Đại vận: Ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu/ nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ

Mệnh này lấy thương quan bính làm dụng thần, kim thủy là kỵ thần. Chồng là kim. Phu cung sửu cũng là kỵ thần, chồng đối với cô ta không tốt. Đến vận canh ngọ, thương quan lâm vượng mà quan tinh hư thấu, thương quan cùng quan tương hội mà khắc, năm canh thìn phu tinh thái tuế xuất hiện là ứng kỳ. Chồng mắc bệnh tim qua đời. Có người nói kỵ thần kim bị khử đi là cát, vì sao hung? Thực tế cát hung chỉ là tương đối. Vận nhâm thân, chồng đánh cô ta rất nặng. Đến vận tân mùi, cô ta có ý định buôn bán kiếm tiền, chồng không hỗ trợ mà còn gây trở ngại việc buôn bán của cô ta. Vận canh ngọ chồng qua đời khiến nàng không có liên lụy, cuộc sống rất tốt.

Đồng thời ta phản đối lấy dụng thần làm tuyệt đối hóa. Bát tự cũng giống lục hào, xem về chồng thì lấy quan quỷ là dụng thần, quan quỷ bị khắc thì chồng mất mạng, lại chủ hung. Dụng thần chỉ quản hành vận tốt xấu, việc sống chết đã có cách xem khác. Hác tiên sinh xem mệnh cho tới bây giờ không nói đến dụng thần, có đạo lý khác.

Xung khai là gì?

Chỉ có 2 trường hợp: Hợp phùng thái tuế xung là xung khai; mộ khố trong bát tự bị thái tuế xung là xung khai. Như sao phối ngẫu hoặc cung phối ngẫu phùng hợp, thường khi xung giải hợp là năm kết hôn. Dụng thần tàng trong mộ khố, thường khi bị xung là năm bắt đầu chuyển hướng.

Ví dụ. Càn tạo

Quý mão bính thìn kỷ sửu ất sửu

Đến vận quý sửu, lưu niên tân mùi; năm này bắt đầu buôn bán kiếm tiền, trước kia vẫn là kẻ nghèo hèn. Đến năm bính tý hợp mộ, ngưng buôn bán kinh doanh.

Xung xuất là gì?

Chỉ có 2 loại:

1. Lưu niên xung chi năm, xung chi giờ gọi là xung xuất, thông thưởng biểu hiện đi xa. Nguyên nhân năm là tổ tiên, biểu hiện rời xa tổ tiên. Giờ là môn hộ (gia đình), chứng tỏ xuất ngoại. Đương nhiên đây chỉ là 1 thông tin đi xa, không phải tất cả mọi người đều như vậy.

2. Dụng thần hoặc kỵ thần nhập mộ, phùng lưu niên xung dụng thần hoặc kỵ thần thì gọi là xung khai, thần bị xung khai sẽ ảnh hưởng đến mệnh cục hoặc phát sinh chuyện liên quan đến thần đó.

Ví dụ:

Bính tuất ất mùi tân sửu đinh dậu

Mệnh này năm 19 tuổi năm giáp thìn, vận đinh dậu đi xa làm việc, nguyên nhân thìn xung chi năm tuất, chủ ly hương, thìn dậu hợp chủ có việc làm.

Ví dụ:

Đinh mùi nhâm tý đinh tị tân hợi

Đến vận canh tuất, dụng thần tị hỏa nhập mộ tuất; năm quý hợi xung xuất tị hỏa, thi đậu cao trung, mà năm nhâm tuất thi rớt.

Xung khử là gì?

Bình thường thái tuế xung suy thần trong bát tự gọi là xung khử, xung khử chỉ là thần này rời khỏi mệnh chủ, mà không chết đi. Như vợ chồng ly dị, anh em bỏ nhà đi, cha mẹ ly dị.

Xung phá là gì?

Thái tuế xung thần cực suy trong bát tự gọi là xung phá, bị xung phá thì thần đó không còn sanh cơ, hoặc không có nguyên thần hoặc nguyên thần bị phá tan, hoặc phùng đại vận mà bát tự khắc hại, hoặc cô nhược không chỗ dựa. Thần nào bị xung phá thì thần đó gặp đại hung, có thể mất mạng.

Ví dụ. Khôn tạo

Ất tị bính tuất bính thân bính thân

Đến vận canh dần, phụ tinh thân kim bị xung phá, chủ mất mạng, nguyên nhân thân kim không có nguyên thần (táo thổ tuất không sanh kim) toàn cục khắc thân kim, phùng xung nhất định bị phá. Mùa xuân năm kỷ mão cha bị ung thư.

Tổng quát mà nói, trong mệnh phùng xung chỉ có 2 trường hợp hung là:

1. Xung hung.
2. Xung phá.

Những loại xung còn lại chỉ ứng nghiệm sự việc xảy ra, không hung.
 
N

Người Lái Đò

Guest
Ví dụ 1. Đào động chi tiên
Khôn tạo (Lâm tiểu thư). Dân quốc năm 46 (năm 1957), sanh vào ngày 4/10 giờ thìn.
Đinh dậu nhâm tý tân dậu nhâm thìn
Đại vận: Quý sửu (9)/ giáp dần (19)/ ất mão (29)/ bính thìn (39)/ đinh tị (49)/ mậu ngọ (59)
Được biết Lâm tiểu thư chưa lập gia đình, trước đây đã từng làm nghề may trang phục. Hỏi về sự nghiệp, hôn nhân.
-Lâm tiểu thư, trong mệnh có 2 đào hoa, thích hợp làm về may trang phục, kể cả về trang điểm cũng tốt. Nếu kết hôn sớm, sợ rằng năm 31 tuổi thì bị ly hôn. Sau năm 40 tuổi, vận trình khá tốt. Chỗ này là nhật chủ tân kim sanh vào trọng đông tháng tý, thủy vượng tiết khí rất mạnh, cần bính hỏa trừ hàn điều hậu.
Nhật nguyên tân kim hồng diễm tại dậu, trụ tháng nhâm tý cũng đào hoa tại dậu, chi giờ thìn cũng đào hoa tại dậu. toàn là hồng diễm đào hoa.
May trang phục cùng trang điểm đều là nghề nghiệp làm về hóa trang, mà ngũ hành thuộc mộc, thuộc hỏa, trong mệnh lại có đới đào hoa nên là người khéo tay. Hơn nữa, Lâm tiểu thư sanh vào tháng tý, kim hàn thủy lạnh, cần có mộc hỏa tài quan điều hậu.

Nếu bàn về hôn nhân, bản mệnh thương quan nhâm thủy thấu đắc lệnh tháng, tý thìn bán hợp. Trụ năm, trụ ngày 2 dậu kim, kim sanh thủy vượng, thương quan tinh cực vượng. Cổ vân về nữ mệnh “thương quan thái vượng nếu vô tài, nhất đối uyên ương lưỡng sách khai”, bởi vậy cũng biết bát tự của Lâm tiểu thư có triệu chứng bất lợi hôn nhân. Tốt nhất nên kết hôn muộn, nếu kết hôn sớm sẽ có chia ly, đến năm 31 tuổi lưu niên đinh mão, vừa lúc trụ ngày tân dậu xung khắc, phu tinh phu cung bị tổn hại, năm này vợ chồng sẽ chia ly.
Năm 39 tuổi trọng xuân nhập vận bính hỏa, tuy nói “Thủy lãnh kim hàn hỉ viêm nhiệt”, bính hỏa có thể trừ hàn, nhưng bính hỏa tọa thìn khố hư phù vô căn, như phù vân ế nhật khó thể hiệu dụng. Chủ yếu nói vận bính hỏa có thể bắt đầu chuyển vận,
-Năm 42 tuổi lưu niên mậu dần, vận tài không tệ.
Lúc này đang ở đại vận bính thìn, bính hỏa trường sanh tại dần, can mậu thổ có thể chế thủy, mà giáp mộc tài tinh lâm quan tại dần, tài quan đều tốt.
-Nguyên nhân là mệnh cục thủy đa, thực thương vượng, phải có mậu thổ, có tài, mới luận thủy tốt.
Hiện nay năm bính tý, sang năm đinh sửu, chỉ là điều hậu mà thôi; hiện hành đại vận bính thìn không thấy tài tinh, không thể nói lợi về tiền bạc. Nếu cần lợi về tài, phải đợi năm 49 tuổi tại đại vận đinh tị.
Bát tự Lâm tiểu thư mệnh cục thủy thế cực vượng, hoành lưu phiếm lạm, nhưng không có mậu thổ nên rất hại. Nếu không có tài tinh, nhất định quan tinh sẽ bị khắc tuyệt, đối với nữ mệnh có thể nói khó bảo hộ phu tinh.
Mà năm bính tý, đinh sửu, tuy thấu thiên can hỏa điều hậu, nhưng hỏa tại nguyên cục cùng đại vận đều vô căn, mà chi năm tý, sửu cũng là phương bắc thủy địa. nên lực bính đinh hỏa không đủ.
Đến đại vận bính thìn, bính hỏa chánh quan cho nên có thể điều hậu, nhưng mệnh cục tài tinh không hiện, nên phản lại thành thương quan khắc quan, nếu Lâm tiểu thư kết hôn sớm, dám chắc đối với chồng bất lợi, không có lợi về tiền bạc.
Mà cuối năm 49 tuổi nhập vận đinh tị, chính là vận thất sát, nếu luận về điều hậu, tân kim hỉ bính hỏa hơn đinh hỏa, nhưng đinh hỏa không có giáp mộc sanh phù thì cũng không lợi.
Cổ vân “Thất lợi khó dụng”, huống hồ đinh hỏa bị nhâm thủy hợp. làm sao có thể luận là lợi về tiền bạc đây?
-Người mệnh cục thực thương cường vượng, hôn nhân bất lợi, nếu kết hôn, có thể luận năm 39 tuổi đến 48 tuổi hôn nhân không thuận.
Bích uyên phú vân: “Nam mệnh thương quan sẽ khắc con trai, nữ mệnh thương quan nhất định khắc chồng”
Bát tự Lâm tiểu thư thương quan song thấu lại đắc lệnh, tất nhiên khắc chồng. Mà năm 39 tuổi đến năm 48 tuổi ở vận bính thìn, chánh quan thấu lộ trên can, mà thương quan vượng thấu can, lại không có tài tinh lộ trên can để thông quan, nhất định thương quan sẽ không bỏ qua bính hỏa chánh quan. Chi đại vận thìn thổ chính là thương quan chi khố, ngộ khố càng hung, lại cùng chi giờ thìn tự hình, làm sao có hôn nhân đẹp được.
-Lâm tiểu thư, dựa vào mệnh cục, cũng biết là người rất xinh đẹp, nói năng lương thiện, nhân duyên tương đối không tệ, có rất nhiều đàn ông theo đuổi, nhưng cá tính hơi kiêu ngạo một chút.
Vị kính luận văn: “Kim năng tú lệ, đào động chi tiên”. Nữ mệnh nhật nguyên tân kim, đắc phương tây tú khí, cần lấy hỏa để thành chất, nếu có hỏa sẽ không có khiếm khuyết, tất nhiên đắc tượng mỹ nữ dung mạo mỹ lệ. Bát tự mặc dù đinh hỏa hiện không vượng, nhưng đắc 2 vận giáp dần, ất mão sanh phù, cho dù không cường cũng tính là nhu hòa.

Huống hồ bát tự toàn hồng diễm, đào hoa, ứng lý dung mạo sẽ tu hoa bế nguyệt. Thực thương đắc lệnh tất nhiên sẽ biết ăn nói, giao tế cũng không kém, chỉ là ấn tinh bạc nhược, chẳng những kiêu ngạo mà còn có thể nói là phụ nữ không đáng tin tưởng.

-Về tiền vận, năm 31 tuổi lưu niên vận đều tốt, phải biết sẽ có lợi tiền bạc. Năm 38 tuổi cũng là 1 năm không tệ. Nhưng năm 39 tuổi vận trình kém tốt. Từ năm 39 tuổi đến năm 48 tuổi tuy vận chánh quan nhưng không có tài tinh, cho nên vẫn có khuyết hãm.

Đường lão sư chỉ nói năm nào, tuyệt nhiên có giảng về can chi lưu niên. Năm 30 tuổi lưu niên bính dần, năm 31 tuổi lưu niên đinh mão, năm 38 tuổi lưu niên giáp tuất đều thuộc mộc, hỏa tài quan tức hỉ dụng thần, có nhiều ích lợi. Năm 39 tuổi lưu niên ất hợi chính là luận về tài, do mộc phù thủy phiếm, không thể sanh hỏa. Mà năm này vào mùa xuân nhập vận bính hỏa, phùng năm hợi là tuyệt địa, chỉ tăng thêm sự phiền não mà thôi.

-Năm nay bính tý, về phương diện tình cảm sẽ có 2 người nam theo đuổi, nhưng cũng thất bại mà thôi.
Tuế vận 2 bính hợp 1 tân, nhưng nguyên do đố hợp vô tình phản lại là cừu, cũng biết tình cảm trắc trở, phập phồng bất định.
-Sau năm 44 tuổi, về hôn nhân có thể làm vợ kế hoặc vợ bé. Đối với phương diện thân thể, tân kim sanh tháng tý tiết khí nhiều, cẩn thận bệnh phổi.
Bản mệnh kim sanh thủy vượng, dung mạo mỹ lệ, đoán chắc nhiều đàn ông theo đuổi. Theo mệnh lý, nguyên nhân chính là thương quan thái vượng tối kỵ, nguyên cục năm thấu đinh hỏa thất sát, bị can tháng nhâm thủy thương quan hợp mất, không có tài tinh chuyển hóa sanh sát, dễ biết đối với đàn ông theo đuổi không màn đến. Mặc dù năm 19 tuổi, nhập vận giáp dần, ất mão tài tinh, trợ giúp quan sát. Chỉ hiềm mệnh cục cuồn cuộn thủy, hỏa khiếm khuyết, chung quy thủy đa mộc phiêu, không thể sanh hỏa.

Hoặc nguyên do quá kiêu ngạo, hoặc nguyên nhân tình cảm dao động bất định mà phí hoài duyên phận. Có thật sau năm 44 tuổi kết hôn, đúng như Đường lão sư nói làm vợ kế hoặc vợ nhỏ? Thật không dám vậy. Nguyên nhân là tử bình bát tự chỉ là dự đoán, có thể đoán 1 chút về vận mệnh, mà chủ vận mệnh vẫn do mình nắm giữ. Không người nào dám nói là chắc chắn.
Ở ví dụ 1. Đường lão sư đoán về Lâm tiểu thư, ông ta không nói đến cách cục của cô này. Đây là cách "Bán lộc đào hoa" rất xấu đối với phụ nữ. Phụ nữ mà có cách này thì chắc chắn sẽ ăn ở, ngủ với rất nhiều đàn ông (có thể nói gọn là làm vợ bé nhiều người). Bán lộc có bán nội, bán ngoại. Bán nội thì quan hệ với nhiều người, nhưng là những người ít nhiều có quan hệ tình cảm sâu đậm. Còn bán ngoại thì khỏi phải nói, chỉ ngủ với đàn ông vì tiền thôi!

Cô Lâm tiểu thư này thuộc cách bán ngoại, nên biết chắc cô này nhân cách không tử tế gì Tôi tự hỏi Đường lão sư có biết cách cục này hay biết nhưng vì lịch sự không nói ra.

Ví dụ 2. Tầm quan trọng của “Nguyên lưu”
Khôn tạo. Dân quốc năm 83 (năm 1994), sanh vào ngày 14/4 giờ ngọ.
Giáp tuất kỷ tị canh tuất nhâm ngọ
Đại vận: Mậu thìn (7)/ đinh mão (17)/ bính dần (27)/ ất sửu (37)/ giáp tý (47)/ quý hợi (57)
Khẩu ứng giữa Đường lão sư và Vương thái thái về con gái Vương thái thái. Hỏi về sức khỏe cùng vận trình tương lai.
-Con gái sanh vào ngày canh tuất chính là đới khôi cương, theo kinh nghiệm luận mệnh thì sanh ngày khôi cương nhất định dung mạo con gái rất đẹp. Bát tự mệnh cục lộ nhâm thủy thực thần, thực thần là văn xương tinh, tài hoa không tệ, tương lai nhất định là cao thủ về kinh doanh buôn bán, cô gái này tương lai sẽ là phúc ấm của cha mẹ, bản thân từ năm 37 tuổi đến 57 tuổi sự nghiệp rất phát triển. Nhưng trước năm 36 tuổi nguyên nhân hành đại vận không hợp bản mệnh, cho nên rất khó đột phá. (Đường lão sư thuyết)
Chúng ta thân là cha mẹ, không dám cầu con cái là phúc ấm, chỉ hy vọng con gái bình an, kiện khang, không biết sức khỏe con gái như thế nào? (Vương thái thái hỏi).
-Luận về sức khỏe, bát tự quan sát hỗn tạp, mệnh lý quan sát công kích nhật nguyên, lực sát thương rất mạnh, hơn nữa con gái trước năm 16 tuổi nhập đại vận thìn, thìn là lưu hà mà thiên la địa võng, cho nên dễ phát sinh việc bất ngờ, máu huyết, đặc biệt cần chú ý đến việc té ngã tổn thương. Bình thường sức khỏe không tốt, ban đêm ngủ không yên, dễ bị viêm đường ruột, loãng xương. (Đường lão sư thuyết)
Con gái không tốt lắm về sức khỏe, không biết có phương pháp gì để cải thiện. (Vương thái thái hỏi liền).
-Có thể dùng dương trạch phong thủy từ tính bổ trợ, giường ngủ tốt nhất đặt ở phương đoài hoặc phương càn bổ trợ nguyên thần, sức khỏe sẽ có cải thiện. Nguyên nhân lệnh ái năm nay mới 4 tuổi, đối với mệnh của con gái, chúng ta luận mệnh đặc biệt quan tâm đến sức khỏe, kế đến mới là hôn nhân. (Đường lão sư thuyết)
Sách cổ viết: “Khôi cương có 4 ngày chính là nhâm thìn, canh tuất, mậu tuất, canh thìn, chủ tính cách thông minh, văn chương chấn phát, lâm sự quá quyết, duy chỉ háo sát”.
Trụ ngày là nhâm thìn, canh tuất, mậu tuất, canh thìn là mệnh khôi cương, nếu là trụ giờ cũng là khôi cương, gọi là “Đạp tinh khôi cương”.
Nếu sanh vào ngày khôi cương mà luận là tính cách thông minh, văn chương chấn phát tựa hồ khiên cưỡng, phải dựa vào mệnh cục phối hợp luận đoán.
Nhưng mệnh cục nếu thật sự là đạp tinh khôi cương nhất định là người cương liệt chính trực, ghét ác như cừu, ăn nói mạnh miệng, giọng nói rất to, không chịu nhịn nhục.
Tục ngữ viết: “Người đới khôi cương, hát ủy mạ diêm vương”, chính là hình dung khôi
cương tính rất cương liệt.
Vương tiểu muội sanh ngày canh tuất, trụ giờ nhâm ngọ không phải là đạp tinh khôi cương, nên cho gọi khôi cương không đúng, cho nên không thể lấy đặc tính của đạp tinh khôi cương mà luận đoán.
Đường lão sư dựa vào kinh nghiệm luận sanh ngày khôi cương, dung mạo cô gái nhất định mỹ lệ, độ chuẩn xác như thế nào đây?
Mệnh cục Vương tiểu muội trụ giờ phùng mộc dục đào hoa, tự tọa hồng diễm, chi năm cũng là hồng diễm, nên là “mỹ nhân bại hoại”.
Nhật nguyên bát tự Vương tiểu muội là canh ki, canh kim sanh sau tiết tiểu mãn 3 ngày, “Tiểu mãn viêm minh bính hỏa thịnh”, đúng vậy bính hỏa nắm lệnh đương quyền, canh kim tuy trường sanh tại tị, nhưng kim bị hỏa khắc. Chi giờ ngọ hỏa, trụ năm trụ giờ có địa chi tuất thổ không nhuận kim sanh kim; phản lại càng tăng táo nhiệt.
Phú vân ngũ hành sanh khắc: “Thành tường bất sản chân kim, kiếm kích thành công ngộ hỏa hương mà phản hoại”. Canh kim trong trường hợp này phùng hỏa viêm thổ táo, cấp có thủy dưỡng điều hậu, may mắn can giờ lộ nhâm thủy, đáng tiếc nhâm thủy lại hư phù vô căn, nhâm thủy lâm tuyệt địa tại tháng tị. Can năm giáp mộc tiết khí nhâm thủy, kỷ thổ trọc thủy, nhâm thủy vô lực, vô công.
Phú Bích Uyên viết: “Canh tân sanh tại mùa hè, diệu hồ nhâm quý đắc cục”. Tức là sanh vào mùa hã điều hậu rất quan trọng.
Tích thiên tủy luận nguyên lưu viết: “Hà xử khởi căn nguyên, lưu đáo hà phương trụ, ki quát thử trung cầu, tri lai diệc tri khứ”. Nguyên lưu chính là tứ trụ sanh hóa không ngừng, ngũ hành chu lưu không nghẽn. Trong mệnh cục ngũ hành, tổ tông là nguyên đầu, thuận tự tương sanh, chỗ này nguyên đầu chảy đến phương nào thì dừng lại, nếu dừng lại tại dụng thần thì mệnh cục ngũ hành thuận sướng, thủy kỳ sở thủy, chung kỳ sở chung, tình hòa khí hiệp, bảo hộ cho nhau, “Can chi thuận toại mà xương”. Nếu chưa lưu chuyển đến nơi chỗ dụng thần, mà tại trung gian có cách trở, chỗ cách trở là bệnh; nếu không bị cách trở, mà là đạo tiết dụng thần, thì chỗ đạo tiết dụng thần cũng là hung thần.
Vương tiểu muội mệnh cục rất cần thủy điều hậu, trong mệnh cục về ngũ hành thì hỏa cực vượng, lấy hỏa là nguyên lưu. Khởi điểm có hỏa sanh thổ, theo lý thuyết về nguyên lưu thì ngũ hành kế tiếp phải là kim mới thuận sanh hỏa_thổ_kim đến chỗ dụng thần thủy, đáng tiếc trong cục kim hư nhược vô khí lại ẩn tàng không hiện, kim tàng trong tuất thổ dòn dễ gãy, thiếu kim sanh thủy tức là mệnh cục có bệnh, nguyên nhân tại hỏa thổ là hung thần. Ngũ hành mộc lại đạo tiết dụng thần, là 1 hung thần khác. Mệnh cục dụng thần thiếu nguyên đầu (dụng thần thủy không có kim sanh), lại bị đạo tiết, chính là “thiên địa quai bội hỗn loạn”. Cho nên, mệnh cục Vương tiểu mục, cách cục không đẹp, nhưng bát tự cùng vận cục có ảnh hưởng, đặc biệt là lưu niên, bởi vậy cần gặp tuế vận hành kim thủy, thì có thể xương cát thuận toại (mới hanh thông cát lành).
Sơ vận mậu thìn, chi vận thìn chính là lưu hà của nhật chủ (thìn là thủy khố), nam phạm lưu hà dễ bất ngờ chết tại đất khách quê người, nữ phạm lưu hà dễ bị tai nạn băng huyết. Thìn là thiên la, tuất là địa vòng, nam sợ thiên la, nữ sợ địa võng.
Thư vân: “Long xà (rồng rắn) hỗn tạp, đương phòng phụ nữ ưu nguy; trư khuyển (heo chó) xâm lăng, mỗi lự trượng phu ách nan”. Đại ý thiên la, địa võng nhập mệnh, vận mệnh tuế vận hình thành thìn tị hội tuất hợi tức phạm thiên la địa võng, là vận trì trệ nhiều bệnh tật, tai họa lao ngục, trong đó đặc biệt sanh vào năm mà nạp âm là hỏa (năm giáp thìn, giáp tuất) hoặc thuộc thổ (năm bính thìn, bính tuất), nam nữ sanh vào những năm này dễ gặp tai họa phát sinh.
Vương tiểu muội sanh năm giáp tuất, nạp âm của năm sanh thuộc hỏa, sanh vào tháng tị, trong vận thìn có năm đinh hợi, tức hình thành thìn tị tuất hợi thiên la địa võng, dễ dàng bị gặp tai họa huyết quang (đổ máu) bất ngờ.
Chỗ này chính là Đường lão sư căn cứ vào thần sát mà đoán, nếu chúng ta không dựa vào thần sát, liệu chúng ta có thể luận được hiện tượng này không? Chúng ta căn cứ vào ngũ hành sanh khắc mà luận, rõ ràng có thể luận được vậy. Như phân tích mệnh lý ở trên, vận mậu thìn cùng trụ năm giáp tuất là can chi thiên khắc địa xung, trụ năm đại biểu thời đoạn trước 16 tuổi, thìn tuất xung thì thổ vượng, quá tàng trong thìn sẽ bị tổn thương, thổ dày thì thì cần mộc khắc, ngược lại còn bị giáp mộc khắc nặng, can vận mậu thổ khắc chế can giờ nhâm thủy, hỉ dụng thần bị khắc thương đến tận cùng. Năm đinh hợi thì tị hợi tương xung, suy thần xung vượng thần làm vượng thần phát, hợi thủy ngược lại bị khắc, đương nhiên gặp tai họa huyết quang.
Vận đinh mão, đinh nhâm hợp, mão tuất hợp hóa hỏa, nhâm thủy bị đạo tiết. Vận bính dần, địa chi dần ngọ tuất tam hợp hỏa cục, thiên can hình thành giáp mộc sanh bính hỏa, bính hỏa lại sanh kỷ thổ, vượng thổ khắc nhâm thủy.
Nên vận đinh mão, bính dần cường sát công thân, triệu chứng nhiều bệnh tật, việc này không có cách tránh được tai họa, bệnh tật; nguyên nhân không ngoài hỉ dụng thần nhâm thủy thiếu nguyên đầu, khiến cho nhâm thủy không thể chu lưu, bị tắc nghẽn, khiến cho bát tự bất đi điều hậu. Sau năm 36 tuổi nhập vận phương bắc thủy địa, phối hợp lưu niên sẽ ứng với phát công danh sự nghiệp.
Đường lão sư luận Vương tiểu muội có thể là “Phúc ấm của cha mẹ về tiền bạc” quả thật là lời “thiện ý hoang ngôn”. Con cái được cha mẹ nuôi dường, về lý thì cha mẹ là phúc ấm của con cái không thể nói ngược được.
Giáp mộc thiên tài là phụ tinh (thiên can đắc lệnh thì cần lộ, thiên can thất lệnh rất mừng ám tàng). Tại mệnh cục thì hỏa nhiều mộc cháy khô, lại phùng vận mộc hỏa táo khô, hình thành tượng “Nam mộc phi hôi nhi thoát thể”, làm sao có thể nói là cát lành?
Kỷ thổ chánh ấn là mẫn thân, mùa hạ thổ tiêu, phùng vận hỏa vượng, càng khô tái, cũng khó nói cát lành. Cho nên tựu chung về mệnh lý mà nói, Vương tiểu muội tuyệt nhiền không phải là mệnh “phúc ấm của cha mẹ”.
Nhưng luận mệnh lý chỗ này cũng không thể nói thật cho cha mẹ đứa trẻ biết, nguyên nhân là “thiết khẩu trực đoạn (ăn ngay nói thẳng)” có thể làm hại đến đứa bé, khiến cho đứa bé vĩnh viễn bị “Cha bất đông, mẹ bất ái (cha mẹ không yêu thương)”.
Tác giả từng gặp qua trường hợp: Người cha bị tai nạn xe lửa, không rõ nguyên nhân, hỏi thầy thì thầy nói rằng đứa con có bát tự khắc cha, nên cần giao cho người khác nuôi dưỡng. Tang chồng làm đau thương người mẹ, lại phải giao con cho người khác nuôi dưỡng, làm sao chịu nổi đau này? Luận kiểu đó quả thật “tạo nghiệt”, dù luận có đúng thì có ích lợi gì?
Về mệnh cục vận trình tài tinh bị tổn hại, tình cảm với cha thiển bạc (kém tốt), nhưng tổn hại thiển bạc cũng có nghĩa là “chết”, có thể là “tụ thiểu ly đa” hay nói rõ hơn là khắc cha, làm sao có thể tàn nhẫn nói ra đây!
Cho nên tác giả có thể giải thích Đường lão sư: “thiện ý hoang ngôn” là như vậy. Cho nên Vương tiểu muội vận trình trở ngại đình trệ, nhiều bệnh tật, nhưng vẫn có thể an hưởng cha mẹ, gia đình yêu thương.
Luận mệnh có thể quý ở chỗ, không những ở chỗ “chính xác” cùng “không chính xác”, vận dụng mệnh lý pháp tắc khai đại nhân sinh, giải ưu, trừ nghi, tùy theo thời mà xem tâm lý, lòng người.

Ví dụ 3. Vợ chồng nhân duyên túc thế lai.Càn tạo. Dân quốc năm 57 (năm 1968), sanh vào ngày 9/8 giờ sửu.

Mậu thân nhâm tuất quý hợi quý sửu

Đại vận: Quý hợi (7)/ giáp tý (17)/ ất sửu (27)/ bính dần (37)/ đinh mão (47)/ mậu thìn (57)
Khẩu ứng xảy ra tại Đài Bắc. Nguyên con trai Vương thái thái đã lớn tuổi hãy còn chưa lập gia đình, hỏi về hôn nhân? Người vợ tương lai có phải là người hiền thục thông minh? Có phải là người vượng phu? Vương thái thái có 3 người con trai. Lão đại, lão nhị đều đã lập gia đình sanh con.
-Bát tự con trai Vương thái thái nhật chủ thuộc thủy. Mệnh cục tài tinh quá nhược, cho nên hôn nhân khá không thuận lợi. sau này sẽ gặp người vợ là phúc ấm, có thể vào năm mậu dần kết hôn, năm 31 tuổi năm mậu dần có thể kết hôn, vợ là người khá chịu khó cần mẫn. (Đường lão sư đoán)
Đường lão sư trực tiếp chỉ ra Vương tiên sinh sẽ kết hôn năm 31 tuổi.
Vương thái thái: “Nếu năm 19 tuổi kết hôn có tốt không? Có phải nam mệnh vào năm 19 tuổi đều không nên kết hôn?
-Đường lão sư: “Truyền thuyết nam mệnh không nên kết hôn năm 19 tuổi là không có căn cứ”. Nam nữ có duyên nợ đều có thể kết hôn, về mệnh lý mà nói, ngũ hành nên tương hợp, cung phu thê không hình xung đều là thích hợp kết hôn. Nếu thuyết nói vào năm 19 tuổi không nên kết hôn, toàn thể nam nhân trên thế giới đều phải tránh chuyện này sao? Đó là truyền thuyết không hợp lý. (Đường lão sư trả lời).
Tích thiên tủy viết: “Phu thê nhân duyên túc thế lai, hỉ thần hữu ý bảng thiên tài”. Phương pháp tử bình:
Nam mệnh lấy tài tinh là vợ, nữ mệnh lấy quan sát tinh làm chồng. Vợ chồng có thể kết hợp lập gia đình, sanh sống chung 1 nhà, chính là nghiệp lực kiếp trước chú định, hôn nhân có đẹp hay không cần xem tài tinh cùng hỉ dụng thần trong bát tự. Về nam mệnh mà nói, tài là hỉ thần, đại khi sẽ có vợ hiền. Nhưng cũng không được quên thê cung, chi ngày là hỉ hay kỵ thần, nếu tài tinh cùng thê cung đều là hỉ dụng thần thì sẽ cưới được vợ hiền tài. Nhật chi là hỉ dụng thần, thì tố chất người vợ khá tốt; kế đến xem vợ chồng tình cảm đối xử có hòa hợp hay không, cần phối hợp xem thê tinh cùng thê cung có bị hình xung khác hại mà luận đoán. Nữ mệnh, hôn nhân có hạnh phúc hay không thì lấy quan sát tinh cùng phu cung mà luận tương tự nam mệnh.

Lúc kết hôn đại khái theo phương pháp sau:
1-Mệnh đố hợp dễ kết hôn sớm, mà tình cảm cũng tốt.
2-Nguyên mệnh cục vốn có tam hội cục hoặc tam hợp cục sẽ có khuynh hướng kết hôn sớm.
3-Nam mệnh thân cường tài vượng, không có tỉ kiếp lộ ra trên can, đến vận tài dễ kết hôn.
4-Nam mệnh nhiều tỉ kiếp, thiếu tài tinh (hoặc tài tinh nhược), kế đến đại vận gặp vận tỉ kiếp kỵ thần, dễ kết hôn muộn.
5-Nữ mệnh nhiều thực thương, thiếu quan sát tinh (hoặc quan sát nhược), kế đến đại vận gặp vận thực thương kỵ thần, dễ kết hôn muộn.
6- Can chi tuế vận cùng can chi trụ ngày, lục hợp hoặc tam hợp, tại đại vận hoặc lưu niên này xác suất dễ kết hôn nhất.
Vương tiên sinh, bát tự có nhật nguyên thuộc thủy, sanh sau tiết hàn lộ 12 ngày, mậu thổ nắm lệnh, đinh hỏa đương quyền. Nhật nguyên quý thủy tuy không nắm lệnh nhưng nhật nguyên tọa hợi thủy, chi năm thân kim sanh phù, lại có can tháng nhâm thủy kề sát + can giờ quý thủy bang phù.
Túy tỉnh tử viết: “Quý thủy ứng phi vũ lộ lâm, căn thông hợi tý tức giang hà”(tức quý thủy có hợi tý thông căn thì thành vượng). Mệnh cục Vương tiên sinh thuộc cách cục này. Ở đây dụng thần như thế nào? Tuy nói “cường thủy đắc mộc phương tiết kỳ thế”, nhưng thủy đa mộc phiếm, có thấy mộc cũng vô ích; cần lấy hỏa làm dụng thần, mệnh cục không có mộc thông quan, nên phạm vào cách “suy thần xung vượng thần, tất vượng thần phát” là tối kỵ. Thủy hỏa giao chiến, hỏa bại là chắc chắn. Bởi vậy chỉ có trước hết dụng táo thổ ngăn thủy thế, kế đến dụng hỏa làm hỉ thần, sanh phù táo thổ, mới có thể nói cát lành.
Nguyên do những nội dung đã phân tích ở trên, chúng ta có thể đoán được tình trạng hôn nhân của Vương tiên sinh. Tài tinh là hỉ thần, nên vợ trợ giúp rất tốt cho sự nghiệp (quan tinh), nhất định cần dựa vào người vợ mưu đồ (tài sanh quan sát); thê tinh là kỵ thần (hợi thủy là kỵ thần), “chất” của bà vợ không được tốt lắm. Vậy có thể tổng hợp rằng năng lực bà vợ không giỏi, trình độ không cao nên trợ giúp cho chồng cũng có hạn. Vương tiên sinh có thật sự cưới được “người vợ vượng phu”, sẽ cần xem xét thêm hành vận.
Mệnh cục đinh hỏa (tàng trong tuất) mặc dù nắm lệnh, nhưng hỏa không có mộc sanh thì cuối cùng cũng không sáng; ngược lại nếu đinh hỏa tài tinh lộ ra khí nhược không yên, cần phải đợi đến vận bính dần thì đinh hỏa mới được sanh phù, sẽ cháy sáng rực, vận này mới chính thức cưới được “bà vợ vượng phu (thê phúc ấm)”. Về thời điểm kết hôn, mệnh cục tỉ kiếp cường vượng, tài tinh nhược, kế đến đại vận tỉ kiếp giáp tý, ất sửu là vận kỵ thần, theo thứ tự sắp xếp ở trên vào trường hợp 4, nên đoán Vương tiên sinh dễ kết hôn muộn.
Vương tiên sinh năm nay 19 tuổi, chưa kết hôn, tất cần chờ đợi lưu niên tài tinh cường vượng, mới có thể kết hôn. Đường lão sư luận vào năm mậu dần năm 31 tuổi sẽ kết hôn, là hết sức hợp lý. Năm mậu dần thái tuế can chi cùng trụ ngày thiên hợp địa hợp, dần cung tài, quan kết tàng, quan tinh lộ ra chế tỉ kiếp; tranh khắc tình địch giảm đi, đương nhiên khả năng kết hôn rất cao. Nếu vào năm mậu dần kết hôn, tài tinh phùng dần mộc trường sanh. Kim sưu tủy luận viết: “tài tinh tọa tứ mã, thê hiền vô xử bất hân hân (tức sẽ cưới vợ hiền)”. Đợi đến năm này có thể cưới được vợ hiền.
Đối với truyền thuyết nam mệnh vào năm 19 tuổi không thể kết hôn, tác giả tán đồng với luận giải của Đường lão sư. Hôn nhân tốt xấu quyết định tại bát tự mệnh cục cùng vận hành có phù hợp hay không, tuyệt đối không quyết định bởi ma lực của truyền thuyết linh tinh.
Vương thái thái hỏi: Về sự nghiệp, sức khỏe cần phải chú ý những điểm nào?
-Đường lão sư: “Bát tự tài tinh quá nhược, tỉ kiếp phá tài lại vượng, tốt nhất theo lương bổng ở trên ban cho, thì sẽ khá yên ổn. Nếu theo thương quan hoặc thiên tài mà đầu tư nhất định sẽ thất bại. Nếu thật sự cần theo thương quan (tức đầu tư kinh doanh buôn bán), cũng phải đợi đến sau năm 37 tuổi, sẽ gặp thành công lớn. Về phương diện sức khỏe, cần chú ý đến đường ruột, cùng với bệnh thận.

Đường lão sư đoán Vương tiên sinh cần đợi đến sau năm 37 tuổi mới có thể lập nghiệp. Cũng đã nhắc nhở Vương thái thái cần đặc biệt quan tâm đến sức khỏe đứa nhỏ. Có sức khỏe mới có thể có tiền, cần phải cần kiệm, tuy không đại phú nhưng cũng có thể biết sẽ giàu. Mệnh vận tuy đã có chủ định trước, nhưng cũng cần phải thuận mệnh mà sống.

Mặc dù tác giả hết sức bội phục Đường lão sư. Nhưng Đường lão sư có đoạn luận như sau “Lệnh lang năm nay (năm bính tý) tài tinh hiển lộ rõ, có thể thu được tài lợi”. Chỗ này tác giả không đồng ý, Nguyên nhân vận ất sửu, năm bính tý; ta thấy mệnh vận lưu niên thành tam hội thủy cục hợi tý sửu, bính hỏa tài tinh phùng quý thủy, mậu thổ phùng thủy đa, không có lực chế kiếp, là năm rất dễ gặp phá tài, làm sao có thể đắc tài lợi đây?
Ví dụ 4. Thoát thai yếu hỏa
Càn tạo. Dân quốc năm 56 (năm 1967), ngày 4 tháng 9 giờ dậu. Bát tự
Đinh mùi kỷ dậu giáp thìn quý dậu
Đại vận: Mậu thân (11)/ đinh mùi (21)/ bính ngọ (31)/ ất tị (41)/ giáp thìn (51)/ quý mão (61)
Khẩu ứng diễn ra tại gia trang của Trang tiên sinh. Hỏi về sự nghiệp cùng sức khỏe.
-Trước tiên Đường lão sư từ bát tự ngũ hành, phân tích hỉ dụng thần, mệnh cách: “Giáp mộc sanh tháng tám kim thần đắc lệnh, phải biết dụng hỏa khắc kim. Mệnh cục giáp kỷ hợp tài tinh. Theo ta mệnh cách không kém, thương quan sanh tài” (Đường lão sư thuyết)
Tích thiên tủy luận về giáp mộc: “Giáp mộc tham thiên, thoát thai yếu hỏa”. Thoát thai yếu hỏa là nói sơ xuân mộc cần hỏa mới phát phú vinh. Nhưng giáp mộc trường sanh tại hợi, thuận hành đến tháng dậu là thai vị, cho nên thoát thai yếu hỏa cũng có thể nói “Thu thiên túc sát chi khí thậm cường, phản hỉ hỏa lai chế kim noãn mộc” (ý là giáp mộc mùa thu kim vượng sát khí nặng, mừng có hỏa chế kim).
Ngoài ra theo tam mệnh thông hội: Mộc có thể chia ra là sanh mộc, tử mộc. Sanh mộc kiến kim tự thương, tử mộc kiến hỏa tự thiêu, sanh mộc đắc hỏa mà tú khí, tử mộc đắc kim là thành.
Mệnh này nhật nguyên “Giáp thìn” là sanh mộc, sanh vào mù thu tối kỵ kim trọng. Cho nên Đường lão sư nói thu mộc “dụng hỏa chế kim”. Tác giả cũng có cảm tưởng như vậy.
Vậy phân biệt sanh mộc, tử mộc như thế nào?
Căn cứ “Tam mệnh thông hội”: Giáp tuất, ất hợi là mộc chi nguyên. Giáp dần, ất mão là mộc chi hương. Giáp thìn, ất tị là mộc chi sanh. Chỗ này đều thuộc hoạt mộc (sanh mộc).
Giáp thân, ất dậu là mộc bị khắc. Giáp ngọ, ất mùi là mộc bị chết. Giáp tý, ất sửu là kim khắc mộc, chỗ này đều thuộc tử mộc.
Theo sự phân chia sanh mộc, tử mộc tại “Tam mệnh thông hội”, tác giả nhận thấy có điểm không hợp lý, như “Ất tị” ất mộc tọa mộc dục, hỏa lâm quan, hỏa vượng chiếm ưu thế, làm sao có thể nói là “Mộc chi sanh”?
-“Từ 31 tuổi đến đến 34 tuổi đại vận bính ngọ, kiếm tiền cầu tài ở bên ngoài, sẽ bị tai họa bất ngờ, cũng sẽ thường bị mất ngủ” (Đường lão sư thuyết).
Bính ngọ là vận thực thương, thực thương sanh tài. Về lý dục vọng kiếm tiền rất mạnh, thậm chí vận này bản thân muốn lập nghiệp. Bản mệnh nhật nguyên sanh vào cuối thu phân, kim trọng là kỵ thần, dụng hỏa chế kim không tệ, nhưng từ đầu đến cuối vẫn là thân nhược, không chịu nổi khắc tiết, huống hồ chi vận ngọ hỏa thương quan phá trụ tháng chánh quan, tổng hợp lại không có cách nào khởi được. Đề cương vừa bị khắc vừa bị tổn, đối với cách cục cực kỳ bất lợi. Thậm chí do thân nhược không chịu nổi tiết mà mắc chứng bệnh mất ngủ.
-“Sau 41 tuổi khởi vận ất tị mới khá thuận lợi” (Đường lão sư thuyết).
Bản mệnh đến vận tỉ kiếp trợ thân nên không tệ, chỉ tiếc đại vận quan trọng ở chi hơn can. Hơn nữa, tị là đất trường sinh của kim, cùng nguyên cục tị dậu bán hợp kim cục, tăng khí thế kim, làm sao gặp thuận lợi đây? Tác giả có điểm hoài nghi chỗ này.
-“Gặp lưu niên đinh mão có tai họa bất ngờ, đến năm 33 tuổi lưu niên kỷ mão cũng phải cẩn thận” (Đường lão sư thuyết).
Lưu niên đinh mão cùng đề cương dậu trong mệnh cục tương xung, đương nhiên sẽ có bất lợi, sẽ có 2 trường hợp bất lợi:
Thứ nhất: Nguyên nhân xung đề cương tháng là cung phụ mẫu. Sách cổ viết: “Xung phá đề cương, đa khuy phụ mẫu”. Bậc trưởng bối dễ gặp bệnh, tai họa.
Thứ hai: Mão xung dậu, kim mộc tương chiến, bản thân cơ thể dễ bị thương hại. Nội tạng mộc thuộc về bệnh gan.
Căn cứ lưu niên đinh mão có tai họa bất ngờ, lại đoán lưu niên kỷ mão cũng phát sinh ta họa là dự đoán phù hợp mệnh lý. Lưu niên kỷ mão cùng trụ giờ quý dậu thiên khắc địa xung, quý thủy chánh ấn kề sát nhật nguyên bị kỷ thổ khắc chế, mất đi bảo hộ tất nhiên tai họa bệnh tật sẽ trực tiếp công thân. Cũng may Trang tiên sinh hiện nay chỉ mới 31 tuổi, vẫn còn đang ở trụ tháng (chỗ này đại ý là: thanh niên là trụ tháng, trung niên là trụ ngày, tuổi già là trụ giờ). Tác giả nhận định khó mà ảnh hưởng đến tánh mạng. Đáng tiếc không trực tiếp được Trang tiên sinh hồi đáp.
-“Gặp lưu niên tân mùi, cũng bị tiểu nhân hại” (Đường lão sư thuyết).
Ngày xưa thông thường thất sát là tiểu nhân, nhưng không thể câu nệ. Ví như thân vượng phùng tỉ kiếp ắt tỉ kiếp cũng là tiểu nhân. Mà bản mệnh giáp mộc sanh mùa thu kỵ kim trọng. Lưu niên tân mùi, tân kim là chánh quan cũng là thất sát, do thân nhược quan nhiều biến thành sát, mà tân kim đắc lộc tại hai dậu, lực công nhật chủ càng mạnh. Huống hồ lưu niên mùi thổ cùng mùi trong mệnh cục, vận mùi, 3 mùi phục ngâm. Có chuyện xấu. Theo Kim sưu tủy viết: “Tam khâu ngũ hành, thìn tuất sửu mùi, nếu trọng kiến, cốt nhục hình bi, phụ mẫu bất túc, huynh đệ di nghi, thân thích tình sơ, canh khuy thê tử” (chỗ này đại ý nếu niên, vận gặp phục ngâm thìn tuất sửu mùi, thân thân sẽ hình tang hao táng).
Theo tác giả năm này không những bị tiểu nhân hại, mà thân nhân cũng gặp chuyện. Ứng xảy ra cho người nào? Mời đọc giả từ cung vị của bát tự mà tìm ra.
-“Về phương diện sức khỏe thân thể, gân cốt, tim không tốt, bị khí suyễn” (Đường lão sư thuyết).
Phương pháp luận về sức khỏe thân thể, tại Uyên hải tử bình có viết: “Về bệnh tật, chủ yếu ở chỗ tinh thần khí huyết. Bát tự can chi, ngũ hành sanh khắc, ngũ hành can chi thái vượng không cân bằng đều bị bệnh”.
Bản mệnh kim vượng là kỵ thần, kim thương khắc mộc, tiết thổ, sanh thủy, cho nên gân cốt, tim khá kém, mà tân kim nạp giáp tại tốn quái, là tốn vi phong, chủ cơ quan hô hấp, nếu ngũ hành can chi quá vượng cũng không tốt, đều bị bệnh. Dậu kim thái vượng, đương nhiên hô hấp sẽ có vấn đề. Bị bệnh suyễn là không nghi ngờ gì.
-“Chánh quan tọa lưu hà cũng là người sức khỏe kém, nhiều bệnh” (Đường lão sư thuyết).
Nhật nguyên giáp mộc lưu hà tại dậu, nên trụ tháng, trụ giờ đều có lưu hà. Theo sách: Lưu hà nam chủ chết nơi đất khách quê người, nữ chết hậu sản.
Thật ra, không thể cứ thấy mệnh có lưu hà là đoán sẽ gặp những chuyện xấu như vậy. Còn cần phải xem có “huyết nhận”, “Huyết chi”, hoặc “Thiên ấn” hay không mới định được. Do tác giả đối với mệnh lý quan tro5nh ở ngũ hành, sanh khắc lục thần, đối với thần sát vẫn còn nghi ngờ, cho nên dụng pháp về thần sát của Đường lão sư không dám bàn.
-“Nguyên nhân mất ngủ chính là giáp mộc sanh tháng tám dụng hỏa khắc kim, hiện đang vận thương quan không chịu nổi bị tiết quá mức” (Đường lão sư thuyết).

Ví dụ 5. Hỏa sí thừa long
Khôn tạo. Dân quốc năm thứ 55 (1966) ngày 8/7 giờ dần. Bát tự
Bính ngọ đinh dậu giáp tuất bính dần
Đại vận: Bính thân (2)/ ất mùi (12)/ giáp ngọ (22)/ quý tị (32)/ nhâm thìn (42)/ tân mão (52)
Mệnh này là Lâm tiểu thư ở tại miền Nam Đài Loan, hiện nay năm bính tý 31 tuổi đang làm tại cơ quan nhà nước, hỏi về hôn nhân, tài vận, nhờ Đường lão sư xem mệnh. Cô ta cung cấp thông tin: Đã kết hôn hơn 1 năm, không có con, từng hư thai, chồng làm về buôn bán. Đường lão sư sau khi xem bát tự, giải như sau:
-“Bát tự Lâm tiểu thư xem qua dễ dàng nhận thấy cô tài hoa không kém. Nhưng cá tính quật cường, có điểm kiêu ngạo, thường tạo áp lực cực lớn lên ông chồng.
Bát tự nhật chủ giáp mộc, mặc dù sanh tháng bảy, nhưng luận theo tiết khí đã nhập tháng tám, hỏa khí đang thối, mộc khí suy bại, giáp mộc mặc dù có giờ dần là lộc, nhưng phu cung thiên tài, vẫn thuộc thân nhược, cho nên cũng cần có thủy sanh mộc, dụng ấn hóa quan quỷ trợ thân mới tốt.

Nguyên nhân bát tự không có thủy, cho nên thân thể dễ có bệnh về thận. Buổi tối thường mộng mị, ngủ không ngon. Nếu có hiện tượng hư thai, phải biết là ở năm quý dậu, nguyên do năm đó cường thủy khắc hỏa, tử tức tinh bị tổn thương, mới hư thai” (Đường lão sư thuyết).
-Lâm tiểu thư đáp: Không phải. Tôi mới kết hôn hơn một năm, năm ngoái ất hợi hư thai. Không biết làm sao mới có thai lại?
-“Nếu là năm ất hợi hư thai, nhất định là ở tháng 8. Nguyên nhân năm ất hợi tại đại vận quý tị, quý thủy cường khắc đinh hỏa, thương quan bị khắc, về phương diện con cái không thuận lợi. Dựa vào bát tự luận có thể có 2 con trai, 2 con gái. Sau tháng 9 năm bính tý này rất dễ có thai. Năm đinh sửu, con cái sẽ tốt, không gặp vấn đề gì. Chậm nhất năm mậu dần nhất định sẽ có 1 đứa con, phải kiên nhẫn.
Cơ bản chính là từ vận quý tị, nguyên nhân là tử tức cung dần tị tương hình, hình thì bị ngoại lực tổn thương hại, động đến dao kéo, năm ất hợi lại có tị hợi xung, cho nên bị hư thai là hợp mệnh lý. Có hình lại có xung, dễ dàng có mổ xẻ, nếu là hư thai, xem như việc lớn hóa nhỏ” (Đường lão sư thuyết).
-Lâm tiểu thư hỏi: Tài vận cùng hôn nhân, tương lai sẽ như thế nào?
-“Chủ yếu bát tự cần gặp vận thủy mộc sẽ khá tốt. Nguyên nhân là thân thể nhược cần bang trợ nhật nguyên. Hiện tại đang ở quý vận, lưu niên ất hợi, bính tý thủy rất vưỡng, phải biết không tệ. Về tình cảm vợ chồng, nguyên nhân bát tự thực thương hỗn tạp, cá tính không chịu nhường nhịn, cho nên tình cảm vợ chồng không tốt, theo vận mà luận sau 41 tuổi xung phu cung, tình cảm sóng gió, phong ba lắm, phải cẩn thận đề phòng. Ta chỉ nói đến đó thôi”. (Đường lão sư thuyết).
-Lâm tiểu thư đáp: Cám ơn! Cám ơn!
Sau khi xem đoạn đối thoại trên, không biết độc giả có cảm tưởng gì? Tin tưởng đọc giả không khó phát hiện nội dung đối thoại có nhiều uẩn khúc, ngộ nhận. Ta (Thẩm Triều Hợp) tuyệt đối không bơi móc, tấm lòng thuần túy tham khảo cầu học mệnh lý. Biết rõ trong luận mệnh khó tránh khỏi có ngộ nhận, nhưng về quan điểm phải triệt để tìm ra chân lý để tránh dẫm vào sai lầm ngộ nhận.
Lâm tiểu tư, bát tự nhật nguyên thuộc giáp mộc, sanh sau tiết bạch lộ 4 ngày, chính là tân kim nắm lệnh đương quyền. Sát tinh đương quyền thì dụng thực thần chế sát hoặc lấy ấn hóa sát, nhưng nhìn toàn cục, địa chi dần ngọ tuất tam hợp hỏa cục, dẫn thấu can năm, tháng, giờ thiên can bính đinh hỏa. Trong cơ sở lý luận bát tự, địa chi tam hợp thành lập thì bất luận thứ tự cùng vị trí, chỉ cần ba chữ có đủ thì có thể hợp thành cục. Nếu thêm một chữ nào đó thì sẽ gia tăng lực lượng. Nếu hợp cục lại có thiên can dẫn thấu, thế sẽ rất vượng, thành tượng mộc bị hỏa phần (hỏa thiêu đốt sạch mộc). Bát tự Lâm tiểu thư, rõ ràng thành tượng mộc bị hỏa phần. Mộc tiết hết tinh anh, hỏa thế hùng hùng, không thể hưởng. Kim đắc lệnh phản lại sợ rằng bị hỏa tiêu diệt. Tình huống này quan trọng nhất cần điều hậu. Lấy thìn sửu hối hỏa sanh kim là tốt nhất. Trong khi đó Đường lão sư nói thân nhược lấy thủy mộc trợ thân là dụng thần, quả thật không ổn. Dụng mộc, mộc tòng hỏa thế, hỏa thế càng vượng, dụng thủy nhuận thì lại sợ “Suy thần xung vượng thần, vượng thần phát”, nước nhỏ giọt làm sao có thể ngăn được khát, chỉ sợ rằng lợi bất cập hại. Trong Tích Thiên Tủy luận giáp mộc rằng: “Giáp mộc tham thiên … hỏa sí thừa long …”, Long tức thìn thổ, sửu thấp thổ. Không nói nhâm, quý, hợi, tý thủy, không ngoài sợ “phạm vượng”.
Luận về cá tính, chỉ cần lấy thập thần vượng suy mà thôi, chú ý thiên can là ngoại, địa chi là nội, đó là nguyên tắc. Mệnh cục Lâm tiểu thư, thực thương tinh cường vượng, thực nhiều biến thành thương, nên có thể lấy đặc tính thương quan mà luận. Uyên Hải tử bình viết: “Thương quan thương tận, đa nghệ đa năng, khiến tâm cao khí ngạo, xảo trá, làm về võ chức quyền cao, quyền cao cốt thuận, mắt to mi thô”. Tinh minh tài năng, tâm tính háo cường, làm người rất thực tế, công lợi chủ nghĩa, thích nắm quyền, tâm cơ rất giỏi.
Thái độ đối với chồng, tại Kim Sưu Tủy miêu tả càng thấu triệt như sau: “Nữ mệnh nếu có thương quan tọa quan sẽ thóa mạ chồng, sớm tối cằn nhằn không dứt”. Cho nên tạo áp lực lên chồng rất lớn.
Nữ mệnh thực thương tinh cường vượng, có phải nhất định có cá tính như miêu tả ở trên không? Trong quá trình dạy học mệnh lý, ta từng có một nữ học viên tại Đài Bắc tên Phan Tính, học khóa nâng cao, cô này là một thực chứng. Trong mệnh cô ta tuy thương quan tinh cường vưỡng, nhưng không có cá tính như Kim Sưu Tủy miêu tả. Cô ta hỏi có liên quan đến hành vận ấn hay không? Chính xác là hành vận có tác động đến cá tính nguyên cục, hành vận cường mà hữu lực thì ấn tinh có thể chế hóa tính càn rỡ của thương quan, nên mất cương cường mà biến thành ôn nhu. Lâm tiểu thư gặp vận giáp ngọ, quý tị nơi chỗ thương quan cường vượng, thái độ đối với chồng có thể tưởng tượng như thế nào rồi.
Luận về con cái. Vị Kính Luận viết: “Kim thanh thủy lãnh, nhật tỏa loan đài; thổ táo hỏa viêm, dạ hàn khâm trướng”

Kim thanh thủy lãnh hoặc thổ táo hảo viêm đều chỉ bát tự nữ mệnh điều hậu không tốt, mất đi trung hòa. Mà bị liệt vào tượng hàn thấp hoặc táo nhiệt nghiêm trọng, gọi là thiên khô chi tượng, là “trọc” mệnh. Ắt dễ gặp cốt nhục vô tình, cô đơn không nơi nương tựa. Không những hôn nhân không tốt, thậm chí con cái cũng duyên bạc. Mệnh cục Lâm tiểu thư, không thấy thủy, mà còn tượng hỏa hư không thật, dễ dàng có bệnh về đường tiết niệu, bệnh về phụ khoa, ảnh hưởng quan hệ vợ chồng, thậm chí ảnh hưởng đến sanh sản.
Năm ất hợi 31 tuổi, đang vận giáp ngọ, Đường lão sư luận quý tị vận là không đúng.
Vận giáp ngọ, năm ất hợi, mệnh vận địa chi dần ngọ tuất tam hợp hỏa cục. Chi vận hỏa gia tăng lực thương quan, dần hợi hợp mộc, dẫn hóa can vận giáp mộc cùng can lưu niên ất mộc, hợi thủy sanh tiết mộc, bị thương tổn nghiêm trọng. Thủy có thể là bệnh phụ nữ, dần mộc chính là tử tức cung, chúng ta có thể luận là: “Nguyên do chuyện con cái, dẫn phát bệnh phụ nữ”. Năm bính tý vẫn đang hành vận giáp ngọ, tý ngọ xung, không giải được khát, ngược lại dễ dàng dẫn đến tai họa. Mùa đông năm đinh sửu, chính thức vận quý tị, kim vượng sanh thủy, mệnh cục đắc điều hậu, mới chính là thời cơ tốt nhất. Nếu quả thật năm đinh sửu có thai, năm mậu dần sẽ phải hết sức cẩn thận, nguyên nhân mễnh vận lưu niên địa chi không phải tị dậu sửu kim cục mà là dần ngọ tuất hỏa cục. Tử tức cung phục ngâm, thiên can mậu hợp quý, quý thủy lưu niên bị tổn thương nghiêm trọng, có thể không cẩn thận sao!
Luận về tình cảm vợ chồng, ta nhận định không cần đến vận nhâm thìn địa chi xung phu cung tuất thổ, mới luận nhân duyên vợ chồng gặp phong ba. Sự thật vận quý tị đã tàng hung cơ, nguyên nhân là mệnh cục bản thân có cường hỏa khắc kim, tượng thương quan kiến quan, đại vận tị hỏa cùng dậu quan tinh bán hợp, quan tinh bị dẫn động, lúc bị xung khắc thì nguy tai. Kết cục nghiêm trọng như vậy chủ yếu do bản thân mệnh cục can chi ngũ hành phối hợp quá xấu.

Ví dụ 6. Đặc tính tòng tài cách
Càn tạo. Dân quốc năm thứ 56 (năm 1967) ngày 10/6 giờ dần. Bát tự:
Đinh mùi đinh mùi nhâm ngọ nhâm dần
Đại vận : Bính ngọ (4)/ ất tị (14)/ giáp thìn (24)/ quý mão (34)/ nhâm dần (44)/ tân sửu (54)
Khẩu ứng diễn ra tại phía nam tỉnh Quảng Đông, Ngô tiểu thư quan tâm đến ca ca của cô ta, hỏi về sự nghiệp, sức khỏe, hôn nhân của ca ca. Lúc này Ngô tiên sinh 31 tuổi (năm đinh sửu) đã kết hôn.
- “Mệnh cục lệnh huynh nguyên thần cực nhược, nguyên mệnh thuộc nhâm thủy, sanh vào tháng mùi nhâm thủy đã quá khô, năm tháng tài tinh lộ ra, thuộc bát tự “Chánh tài cách” tài đa thân nhược, thân nhược ắt không thể đảm nhận tài, thái độ đối với mọi sự lười biếng, không tích cực.
Xét vận đã qua, năm nhâm thân 26 tuổi, năm quý dậu 27 tuổi, năm ất hợi 29 tuổi đều là những năm không kém, sự nghiệp phát triển khá thuận lợi, năm giáp tuất 28 tuổi do địa chi lưu niên tuất cùng chi năm, chi tháng mùi tương hình, sanh ra nhiều trở ngại, thất bại, thân thể gặp nhiều thương tích, bệnh tật. Năm đinh sửu 31 tuổi, sửu mùi xung, ngũ hành cách cục phùng xung, dễ bị té ngã, có đổ máu” (Đường lão sư thuyết mệnh cục là tài đa thân nhược).
- Ngô tiểu thư hỏi: Những năm sắp tới sự nghiệp có tiến triển, gia huynh theo nghề nghiệp gì thích hợp? Về sau tài vận có chuyển biến tốt không?
- “Bát tự mệnh cục của lệnh huynh, có thể không luận chánh cách mà có thể luận tòng tài cách, nguyên thần cực nhược. Lệnh tháng chánh quan đại biểu đám đông nhiều người, nhật nguyên nhâm thủy vô căn, gần như tòng tài cách, tòng cách chính là đi theo người khác, cho nên tốt nhất làm nghề phục vụ, làm công ăn lương đếu rất thích hợp, không nên tự mình làm chủ, không thể tự mình lập nghiệp. Nếu làm chủ dễ dàng phá sản. Về phương diện hành vận, nguyên nhân đại vận nhâm quý thủy hỉ thần thiên can hư phù (vận quý mão, nhâm dần), cho nên hành vận không như ý, muốn gặp vận tốt, có thể phải đợi thật lâu” (Đường lão sư thuyết).
- Ngô tiểu thư: Gia huynh cùng tẩu tẩu tình cảm vợ chồng có bách niên giai lão không?
- “Thê cung tọa chánh tài, phải biết vợ rất đẹp, tình cảm rất tốt. Nhưng sự nghiệp người vợ không nổi bật. Tình cảm vợ chồng tại năm bính tý không tốt, hay cãi nhau, nguyên nhân là trụ ngày cùng lưu niên can chi bính tý thiên khắc địa xung” (Đường lão sư thuyết).
- Ngô tiểu thư hỏi: Cuối cùng xin hỏi lão sư, huynh đệ tỉ muội tôi có trợ giúp cho ca ca hay không? Gia huynh nên bố trí nhà cửa như thế nào để tốt hơn?
- “Nhật nguyên cực nhược, tỉ kiếp là hỉ dụng thần, huynh đệ tỉ muội trợ giúp nhiều, nhưng ngược lại bạn bè không trợ giúp gì, thậm chí còn tốn tiền. Về phương hướng phong thủy nhà cửa cũng không quan trọng. Mệnh vận tuy là cố định, nhưng chúng ta không nên bị vận mệnh bó buộc, phải biết ứng dụng thành thạo dương trạch bổ túc, về phương diện tâm lý, nhất định cần bồi dưỡng tri mệnh, thuận theo thiên mệnh, nếu không sẽ bị kích động nghiêm trọng, tinh thần rất dễ dàng bị sụp đỗ” (Đường lão sư thuyết).
Xem phần Đường lão sư luận, khiến chúng ta phải xem lại mệnh cục Ngô tiên sinh.
Nhật nguyên nhâm thủy sanh tháng mùi, sau tiết tiểu thử 10 ngày, kỷ thổ nắm lệnh, ất mộc đương quyền, nhật nguyên tọa ngọ hỏa tài tinh. Giờ phùng dần mộc, thủy lâm tuyệt địa, chi năm mùi thổ cùng lệnh tháng đồng khí. Năm tháng hai tụ tài tinh song thấu, chỉ có trụ giờ thiên can nhâm thuỷ trợ nhật nguyên, nhưng nhâm thủy vô khí tại địa chi là “Thiên phúc địa không tái”, tượng nhật nguyên nhâm thủy cực khô kiệt.
Nhật nguyên nhâm thủy khô kiệt, cực nhược. Nhật nguyên sanh vào lúc ất mộc đương quyền thì đinh nhâm hợp có hóa mộc hay không? Theo Tích Thiên Tủy viết: Luận hóa khí cách nhất định cần hóa thần thừa vượng nắm lệnh hoặc hóa thần thành phương thành cục. Nhật can khí thế suy kiệt, Mệnh cục thiên can đinh nhâm hợp hóa mộc, sanh vào tháng mùi cũng không phải xuân lệnh, địa chi cũng không có hợi mão mùi tam hợp mộc cục hoặc dần mão thìn tam hội mộc phương. Thiên can 2 đinh tranh hợp 2 nhâm. Cho nên tuy nhật can khí thế suy kiệt cũng không có khả năng thành “Hóa khí cách”.

Vậy thì luận theo cách cục phổ thông “Chánh tài cách” tài đa thân nhược hay là cách cục đặc biệt “Tòng tài cách”?

Theo Tích Thiên Tủy: “Tòng đắc chân giả chích luận tòng. Tòng thần lại có cát cùng hung”. Về tòng, cần phân biệt can dương can âm. Can dương tòng khí không tòng thế, can âm tòng thế vô nghĩa tình.
Nhật nguyên can dương lâm tuyệt địa, cô lập vô khí, không có ấn sanh phù, lại có khắc tiết, mà có thần lâm trường sanh lộc vượng, ắt can dương dễ dàng luận tòng theo thần đó. Can âm nếu không có ấn thụ sanh phù, tuy không có thần nắm lệnh, chỉ thành phương thành cục, kỳ thế cực lớn, ắt can âm dễ dàng luận tòng.

Mệnh cục Ngô tiên sinh, địa chi ngọ mùi hợp hóa hỏa, dần ngọ bán hợp hỏa, can năm can tháng đinh hỏa dẫn thấu, đinh hỏa thông căn lệnh tháng mùi thổ. Tứ ngôn độc bộ viết: “Nhân nguyên tam dụng, thấu vượng vi quý”. Đinh hỏa chánh tài tinh thâm căn cố đế. Tứ trụ không thấy ấn tinh kim sanh phù nhật nguyên, cho nên mệnh cục Ngô tiên sinh thật phù hợp luận “Tòng tài cách”.
Luận “Tòng tài cách” cùng với “Chánh tài cách” tài đa thân nhược làm sao luận giống nhau, khác nhau như thế nào đây? Theo lý tòng tài cách kỵ gặp vận tỉ kiếp ấn thụ sanh phù; mừng gặp vận thực thương, tài vận. Tài đa thân nhược lại mừng gặp vận ti kiếp ấn thụ sanh phù; kỵ gặp vận thực thương tài sát. Đặc biệt thích gặp vận tỉ, kiếp. Vì vậy dụng thần sẽ có nhiều khác biệt.
Ta (Thẩm Triều Hợp) nhận định bát tự này thuộc “Tòng cách”, bất luận tòng cường hay tòng nhược đều thuộc loại mệnh thiên khô, cũng chính là trong mệnh cục ngũ hành mộc, hỏa, thổ, kim, thủy trong đó có 1 hành đặc biệt cường vượng mới thành tòng cách. Nếu trong mệnh cục có 1 hành đặc biệt vượng thì các hành khác tất nhiên sẽ có khuyết tổn, như vậy nhất định là trái với đạo lý “Bát tự lấy trung hóa là quý”, mà thành tượng thiên khô.
Theo Tích Thiên Tủy: “Đạo có thể dụng, không thể luận phiến diện, quan trọng cần phù cần ức. Nhân sinh có tinh thần, không thể thiên lệch, cần tổn đắc tổn cần ích đắc ích”. Chính là nhấn mạnh tầm quan trọng của trung hòa trong bát tự. Cho nên về lý “tòng cách” cũng cần phải cân bằng trung hòa ngũ hành mệnh cục. Ví như về lý tòng tài cách cũng mừng được tỉ kiếp ấn thụ bang phù, vậy thì vì sao gặp vận tỉ kiếp, ấn thụ tại sao lại hung?
Đáp án không ngoài mệnh cục bị phạm điều cấm kỵ “Vượng thần xung suy, suy thần xung vượng, vượng thần phát”. Can chi gàn dỡ, hỗn loạn. Mà bát tự tài đa thân nhược, nhật chủ vốn đã có căn cơ, đến tỉ kiếp ấn địa, can chi dễ dàng thuận toại mà tinh túy cô đọng, cho nên phùng tỉ kiếp ấn thụ mà phát phúc.
Vậy thật sự trong luận mệnh, tòng cách rốt cục có đặc thù gì? Chính là đặc tính “Tòng thần” được phát huy đến mức tột đỉnh. Ví như tòng tài cách, đặc tính tài tinh biểu hiện đặc biệt xuất sắc nổi bật, nhưng tài tinh xuất sắc nổi bật không có nghĩa là những việc khác đều đẹp, tốt như ý. Trong quá trình nghiên cứu mệnh lý, những ví dụ cổ về tòng tài cách đến vận thực thương, tài địa, tức “Thành vi cự phú, an phú tôn vinh” mà không đề cập đến chuyện hung họa. Cho nên chúng ta nghiên cứu mệnh lý không được để sách cổ làm ngộ nhận.
Căn cứ vào những điểm phân tích cách cục (sự thật chỉ là thiển kiến của bút giả, không biết các đọc giả có đồng cảm hay không?) Ngô tiên sinh thì luận là tòng tài cách, ắt đặc tính tài tinh đặc biệt xuất sắc nổi bậc. Cá tính Ngô tiên sinh hướng ngoại mạnh, quan hệ bên ngoài rất tốt, khảng khái hào sảng, tiêu tiền hào phóng, giao tế rất tốt, thích kiếm tiền để du hí, thường là bôn ba vì sự nghiệp mà quên cuộc sống gia đình. Tình cảm với nữ nhân rất tốt, khó tránh dễ bị dính vào sắc dục, thái độ làm việc tích cực, sẽ không làm biếng, nhưng dễ thay đổi, đầu hổ đuôi rắn.

Uyên Hải tử bình viết: “Tài đa phục hành tài vượng chi hương, tất thứ xuất minh linh, khắc phụ mẫu” lại viết: “Khí mệnh tòng tài, chủ kỳ nhân bình sanh cụ nội, vi điền phòng chuế chi nhân, tài đa thê dã, thân vô sở thác, ỷ thê thành lập”. Phụ thân tài vận không tốt, mệnh bạch thủ thành gia, mẫu thân nhiều bệnh. Vợ cá tính quật cường, trong nhà nắm quyền, giao tế không tốt, cùng Ngô tiên sinh cá tính trái ngược, cho nên tình cảm vợ chồng khó hòa hợp, đối với vợ đặc biệt ”tôn trọng”, nhưng bản tính ở bên ngoài “Chỉ thích không yêu vợ”. Huynh đệ tỉ muội tuy có ý giúp đỡ Ngô tiên sinh, nhưng lực bất tòng tâm, bên ngoài càng ít bạn bè.

Năm nhâm thân, quý dậu nghề nghiệp dễ có biến động, làm việc bảo thủ, nên trưởng bối hoặc bạn bè tương trợ, nhưng dễ có tài bất nghĩa. Năm giáp tuất nhiều bệnh tật không nghi ngờ. Năm ất hợi có khác, bên ngoài tốt bên trong xấu. Năm bính tý vợ chồng bất hòa. Đinh sửu dễ có họa đào hoa. Sức khỏe dễ có bệnh thận, bí hệ thống tiết niệu. Về ứng dụng dương trạch bổ trợ bát tự mệnh cục không đủ, ta tán đồng Đường lão sư, bát tự tòng tài cách (hoặc tài đa thân nhược), bí quyết cải biến mệnh vận tốt nhất là “tu thân dưỡng tính”.
Ví dụ 7. Thương quan nhập mộ
Càn tạo: Dân quốc năm 39 (năm 1955), ngày 4/4 giờ mão. Bát tự:
Canh dần tân tị ất sửu kỷ mão
Đại vận: Nhâm ngọ (3)/ quý mùi (13)/ giáp thân (23)/ ất dậu (33)/ bính tuất (43)/ đinh hợi (53)
Mệnh này là Du tiên sinh ở Đài Trung, hiện nay đang sống rất giàu có nhàn nhã. Du phu nhân điện thoại hỏi về sức khỏe, tài vận của chồng.
- “Về phương diện sức khỏe thì thường bệnh đau đầu, răng không tốt, về sau răng bị rụng nhiều, xương cốt cũng không tốt, thường đau nhức phần lưng eo, không nên tiếp sông nước, sợ sẽ có tai họa hung đến tánh mạng” (Đường lão sư thuyết).
Sách viết: “Về bệnh tật, chủ yếu chính là tinh thần khí huyết. Nội nói về tạng phủ, ngoại nói về thân thể. Bát tự can chi, ngũ hành sanh khắc, dụng thương trọng mà đoán”. Từ lời trên chúng ta biết để đoán sức khỏe bệnh tật, chủ yếu dựa vào ngũ hành sanh khắc. Mệnh này sanh tháng 4, sau tiết tiểu mãn, nên hỏa vượng kim tử, đại biểu xương cốt là canh, tân không có thủy làm nhuận, tất nhiên răng không tốt. Hơn nữa, trong mệnh cục hình thành kim mộc đối kháng. Sách viết: “Gân cốt đau nhức, nguyên nhân mộc bị kim khắc”. Đường lão sư luận như vậy là phù hợp với lý ngũ hành sanh khắc củng mệnh cục. Ở chỗ “đầu thường bị đau nhức” nguyên nhân chủ yếu tại kỵ thần hỏa.
- “Gan cũng không tốt. Về phương diện sự nghiệp, nguyên nhân mệnh cục có 1 sự nghiệp tinh, tương ứng là dựa vào làm công cho người khác lãnh lương sẽ khá tốt” (Đường lão sư nói tiếp).
Ta không rõ Đường lão sư xác định sự nghiệp tinh là thập thần nào, cứ dự đoán ứng là hỉ dụng thần vậy. Mệnh này nhật nguyên ất mộc sanh vào mùa hạ bính hỏa chói chan, tối kỵ hỏa vượng là bệnh, rất nguy hại, mộc cháy khô, mừng thủy làm nhuận mộc. Bát tự thuộc cách thương quan dụng ấn, chúng ta xem xét chi tiết mệnh cục, chỉ có quý thủy trong nhật chi sửu thổ có thể làm dụng thần. 1 điểm quý thủy, không phải vượng thủy nên khó mà cứu được toàn cục toàn hỏa. Nói cách khác, dụng thần vô lực, huống hồ hiện hành vận bính tuất chính là vận kỵ thần, nhưng nếu bản thân tự lập nghiệp nhất định thất, nhưng đề nghị Du tiên sinh làm công ăn lương thì rất hợp lý. Chỉ là Du tiên sinh hiện nay đang tại vận thương quan sanh tài, tâm cao khí ngạo, rất muốn tự lập, nên việc có nghe theo lời khuyên của Đường lão sư thật khó vậy.
- “Du phu nhân ắt rất khổ cực, phải chăm sóc chồng cùng gia đình” (Đường lão sư thuyết).
Đường lão sư đoán Du phu nhân tựa hồ lấy “Ân” đáp phúc. Chúng ta đều biết, mộc sanh tháng hạ, nếu không có mưa ắt sẽ khô héo, thê cung sửu tàng quý thủy, không chỉ là mưa lành đúng lúc. Chẳng những nhật nguyên ất mộc dựa vào sửu mà sanh trưởng, mà thậm chí tài quan, tỉ kiếp, thực thương cũng nhờ được nhuận trạch mới không bị hại. Đáng tiếc! quý trong sửu phùng mùa hạ thất lệnh, lại bị mộc hỏa kề cận tiết đến tận cùng.
- “Chính là ông chồng tỳ khí quá táo, không chịu trông coi việc trong nhà, chỉ thích lo chuyện bên ngoài, việc trong nhà hoàn toàn dựa vào Du phu nhân chăm sóc” (Đường lão sư thuyết).
Mệnh này nguyên cục tiết khí quá nặng, quan sát thấu can, hiện đang vận bính tuất hỏa thổ, sửu tuất hình, thê cung cùng ấn tinh đều bị hình hại, tỳ khí hỏa bạo, hơn nữa thường tranh cãi với Du phu nhân.
- “Từ 38 tuổi đến 43 tuổi, chân phải của Du tiên sinh nhất định từng bị thương. Từ năm 43 tuổi đến 53 tuổi vận trình không tốt, dễ dàng phạm tại họa pháp luật, hơn nữa về thần kinh cũng thường bị bệnh đau đầu” (Đường lão sư thuyết).
Hiện nay đang ở vận bính tuất, “thương quan kiến quan là họa trăm bề”. Mệnh này vốn mộc sanh mùa hạ, viêm hỏa, tiết hết sạch khí ất mộc, là chân thương quan, vốn tiết mộc là tiết kỳ tinh anh. Hơn nữa canh kim quan sát chế nhật chủ, chỗ này chính là mộc hỏa thương quan sợ kiến quan, dễ dàng bị họa pháp luật. Chân thương quan, phần lớn sợ gặp vận mộ khố.

Sách cổ có viết thương quan kiến quan, ắt gặp tai họa, vậy rốt cục phát sinh tai họa gì đây? Theo Uyên Hải tử bình: “Thương quan kiến quan, tai họa trăm bề, nếu không có tai họa về pháp luật tù tội, thì cũng bệnh tật triền miên, nữ mệnh thì khắc chồng, nam mệnh thì khắc con”.

Thương quan chính là thương tổn chánh quan, nến vận mộ khố, giống như phạm tội, không tuân thủ luật pháp mà bị bắt ngồi tù, nhất định rất khổ. Dựa vào ngũ hành lục thần phân tích, nguyên cục thương quan đắc lệnh, tiết khí quá mức, nếu gặp vận thương quan, ắt càng tiết tinh thần càng kém, mộ khố tuất chính là tài khố của mộc, vốn là mộc khô tiêu, nếu gặp hành vận táo thổ, càng tiết mộc khí, tất nhiên khó tránh được tai họa.

- “Cũng phải cẩn thận về gan, đề phòng sẽ bị bệnh” (Đường lão sư thuyết).
Mộc thuộc về gan, mộc bị canh tân, thân dậu kim khắc, dễ có bệnh về gan. Hiện đang vận bính tuất, bị khắc tiết quá mức, nếu lại rượu chè hoặc bệnh lao, ắt rất dễ dàng nhiễm bệnh về gan.

“Năm 41 tuổi, 42 tuổi, lưu niên bất lợi, sự nghiệp thất bại” (Đường lão sư thuyết).

41 tuổi năm canh ngọ, 42 tuổi năm tân mùi, đều là lưu niên khắc tiết. Đặc biệt năm tân mùi, xung khắc trụ ngày, sự nghiệp thất bại mà thôi. Đáng tiếc! Du phu nhân không hồi âm về việc này có chính xác hay không.
- “43 tuổi, 44 tuổi 2 năm này khá bình yên, nhưng vẫn có tiểu nhân ám hại” (Đường lão sư thuyết).
43 tuổi, 44 tuổi lưu niên nhâm thân, quý dậu, đều là kim thủy liên hoàn. Can nhâm, quý đều thuộc thủy, giống như nắng hạn gặp mưa rào, chỉ là dậu kim cùng tị sửu trong nguyên cục tam hợp tị dậu sửu kim cục. Chỗ này không tốt chẳng phải là ngũ hành sanh khắc mà phú có nói: “Hoạt mộc sợ kim phá căn” đó sao?
2 năm này cũng không sáng sủa lắm. Không biết Du phu nhân hồi âm như thế nào. Thật sự lưu niên nhâm thân, quý dậu cùng nguyên cục xung khắc, nhất là năm 44 tuổi lưu niên quý dậu, chẳng những chi vận phục ngâm lại thêm tự hình. Mà sự nghiệp cung phạm tuế quân, công việc có thể yên ổn, không gặp tai họa cũng là may mắn lắm rồi.
- “Năm bính tý 47 tuổi, có làm việc gì cũng rất dễ gặp thất bại. Du tiên sinh cả đời mặc dù rất chuyên tâm, cần mẫn, nhưng bản thân gặp nhiều tiểu nhân” (Đường lão sư thuyết).
Đường lão sư luận đến đây, coi như là tổng luận, một kết luận về vận mệnh của Du tiên sinh, thật sự dường như Đường lão sư nói về vận mệnh có sai nhiều? Nếu tham khảo từ góc độ mệnh lý, bản mệnh kết cấu khắc tiết quá mức, ất mộc sanh vào mùa hạ hỏa đương lệnh, chính là bát tự chân thương quan dụng ấn. Nguyên cục dụng thần vô lực, vận trình lại gặp hỏa địa, không thể tương trợ hỉ dụng thần thủy mộc, dễ biết thời vận cả đời không cát, hiện hành đang ở vận thương quan nhập khố, khó tránh bị liên lụy đến tai họa về tài. Đến khi nào khô mộc mới phùng xuân, Đường lão sư cũng không nói. Bút giả (Thẩm Triều Hợp) dự đoán đến vận 53 tuổi đinh hợi mới có thể an thân lập nghiệp, song đó là vận thứ 6 của cuộc đời, thật sự là cuối đời mới thấy ánh mặt trời, nhưng chỉ là hoàng hôn, khiến cho kẻ khác không khỏi thương cảm.
__________________
8.Bình đầu sát nam mệnh
Càn tạo: Dân quốc năm thứ 32 (1943), AL ngày 25/9 giờ dần. Bát tự:
Quý mùi nhâm tuất giáp dần bính dần

Đại vận: Tân dậu (6)/ canh thân (16)/ kỷ mùi (26)/ mậu ngọ (36)/ đinh tị (46)/ bính thìn (56)/ ất mão (66)
Khẩu ứng diễn ra giữa Tăng tiên sinh, công chức chính phủ với Đường lão sư. Khẩu ứng diễn ra tại Tăng gia trang ở Đài Bắc, hỏi về gia đạo.
- “Tăng tiên sinh, ông rất tài hoa, 46 tuổi nhập vận đinh tị, tiền đồ bắt đầu chuyển biến tốt. Trong mệnh có quý nhân, kiếm tiền khá dễ dàng, cả đời đều có quý nhân giúp đỡ. Nhưng nguyên nhân nhật can tọa bình đầu sát, sức khỏe bà vợ hơi kém 1 chút. Năm 55 tuổi (năm đinh sửu) phải chú ý về bao tử, đường ruột, nguy cơ bị bệnh ung thư rất nguy hiểm. Cho nên ăn uống phải chừng mực, cẩn thận” (Đường lão sư thuyết).
Trụ giờ thấu bính hỏa thực thần, nếu mệnh cục lấy thực thương là hỉ dụng thần, thì người này chẳng những khả năng lĩnh ngộ cực cao, mà còn rất tài hoa. Mệnh này vốn sanh vào quý thu, mậu thổ đương quyền, tài tinh đắc lệnh, cần phải thân vượng mới để thể đắc tài. Bản mệnh giáp mộc tọa dần là tọa lộc, lại phùng giờ dần là quy lộc, lại đắc chi năm mùi khố. Tử bình chân thuyên viết: “Nhật can bất luận lệnh tháng hưu tù, chỉ cần tứ trụ hữu căn, liền có thể đảm nhận tài quan thực thần thương quan thất sát. Trường sanh, lộc nhận thì căn vượng. Mộ khí dư khí thì căn khinh. Đắc 01 can tỉ kiếp sanh trợ không bằng đắc 01 chi mộ khố. Đắc 03 can tỉ kiếp sanh trợ cũng không bằng đắc 01 chi trường sanh lộc nhận”. Bởi vậy dễ biết mệnh này địa chi đắc song lộc cùng một mộ khố, nên nhật can có thể tính là cường vượng.
Nếu thân vượng thì nên tiết nên khắc, vậy cuối cùng dụng quan sát khắc chế hay dụng thực thương tiết tú? Đầu tiên chúng cần xét “Tiết khí thâm thiển”. Bản mệnh sanh sau khí sương giáng, chính là thủy vượng tiến khí, kỵ thủy trọng mộc phiêu, mà nguyên cục có nhâm, quý thủy thấu tại can năm, can tháng. Nếu dụng kim tăng khí thủy, mộc vô ích. Hỉ dụng thần hỏa, thổ tiết vượng mộc, thực thương sanh tài về lý là phù hợp với ngũ hành sanh khắc. Cho nên ta đồng tình với Đường lão sư nói vận đinh tị là vận cát. Nhưng không phải mới bắt đầu, phải biết vận kỷ mùi ắt vận mệnh Tăng tiên sinh đã bắt đầu chuyển biến tốt.
“Bình đầu sát” có 06 trụ: Tức giáp tý, giáp thìn, giáp dần, bính thìn, bính tuất, bính dần. Theo truyền thống thì đây thuộc mệnh tăng đạo. Vậy có phải do mệnh này trụ ngày là bình đầu sát mà sức khỏe bà vợ khá kém hay không? Đối với dụng pháp thần sát, ta không dám bình luận. Song! Có thể khẳng định Tăng tiên sinh lúc mới kết hôn thì sức khỏe bà vợ cũng đúng là rất kém. Nguyên nhân theo tứ ngôn độc bộ viết: “Can chi đồng khí, tổn tài thương thê”. Nhưng đến năm 36 tuổi vận mậu ngọ, là vận sanh tài, thì sức khỏe bà vợ không đến nỗi kém.
Đến năm 55 tuổi năm đinh sửu, Tăng tiên sinh sẽ có nguy cơ ung thư về dạ dày, đường ruột. Theo Đường lão sư nhận định thì mệnh cục cùng lưu niên sửu, tuất, mùi tam hình phùng xung, có nguy cơ bị ung thư.
-“Trước 26 tuổi vận trình không tốt, sau 26 tuổi thì có chuyển biến tốt. Nguyên nhân thê cung đới cô loan sát, sức khỏe bà vợ từ 39 tuổi bắt đầu đi xuống. Dân quốc năm thứ 85 năm bính tý, năm thứ 86 năm đinh sửu, năm thứ 87 năm mậu dần, năm thứ 88 năm kỷ mão, tuế vận đều không tệ, nguyên nhân là mệnh cục gặp tuế vận hỏa thổ” (Đường lão sư thuyết).
Mệnh này sau 26 tuổi tuổi nhập vận kỷ mùi, giống như đã nói ở trên, là cát vận. Mà trụ ngày giáp dần chính là ngày mộc hổ, là cô loan sát, theo lời xưa: “Mộc hỏa phùng xà đại bất tường, kim trư hà tất cường sương cuồng, thổ hầu mộc hổ phu hà tại, thời đối cô loan vũ nhất tràng” biểu hiện nam khắc vợ, nữ khắc chồng. Vốn trụ ngày can chi đồng khí là tổn tài thương thê, hiện tại lại thêm cô loan sát, cùng vốn là bình đầu sát thì có thể khẳng định Đường lão sư luận đúng. Nhưng là sau 36 tuổi bắt đầu nhập vận vượng tài, thì nguyên nhân tại 1 cô loan sát mà có thể nói sức khỏe bà vợ kém được sao? Đáng tiếc ta không thể liên lạc với Tăng tiên sinh đề xác nhận Đường lão sư đoán có chính xác, không cách nào kiểm chứng được.
-“Mệnh cục trụ ngày đới cô loan sát cùng bình đầu sát, đồng thời trụ giờ bính dần cũng là bình đầu sát, bát tự kết cấu như vậy, thì phối ngẫu sẽ nguy cơ phát sinh bệnh tật, cho nên khắc vợ rất nặng. Về sau thì thần kinh bà vợ sẽ bất thường. Từ năm 46 tuổi đến năm 56 tuổi dần tị hình, hình đến phu thê cung, bất lợi cho bà vợ”. (Đường lão sư thuyết).
Mệnh cục vừa có bình đầu sát lại có cô loan sát, dụng pháp thần sát thì phối ngẫu đều có nguy cơ bệnh nặng. Ta đối với điểm này không dám bình luận. Riêng điểm dần tị hình, hình đến sức khỏe bà vợ, điểm này chưa hẳn đã đúng. Nguyên nhân tị là đất lộc nhận của tài tinh; dần tị hình hoặc có tổn hại đến gia đình lục thân mẹ vợ, hoặc tình cảm vợ chồng dễ có va chạm.
-“Bát tự tọa bình đầu sát đới cô loan, sức khỏe thê tử kém. Tháng tuất kim thủy tiến khí, trong tứ trụ năm tháng đới thủy, đến vận hỏa còn có thể, chỉ tiếc Tăng tiên sinh là công chức nhà nước, nếu không tại những vận này nhất định có thể phát triển sự nghiệp rực rỡ. Từ năm 56 tuổi nhập vận bính thìn, chẳng những xung đề cương tháng mà còn phạm thiên la địa võng, về sức khỏe phải hết sức cẩn thận”. (Đường lão sư kết luận dặn dò).
Từ những phân tích trên chúng ta có thể biết, Đường lão sư luận mệnh này dựa vào mấu chốt cô loan sát cùng bình đầu sát, chỉ nói về sức khỏe bà vợ, mà quên nói về “Tài, lộc, con cái”. Đặc biệt Tăng tiên sinh đã hơn 50 tuổi, lời xưa: “Tích cốc phòng cơ, dưỡng nhi phòng lão”. Đối với người già thì con cái, tiền bạc là quan trọng nhất nên họ muốn hiểu rõ. Trong khi Đường lão sư chỉ luận những việc không vào trọng tâm, e rằng khó tránh làm cho kẻ khác thất vọng.
Tục ngữ viết: “Nhất mệnh, nhị vận, tam phong thủy, tứ tích đức, ngũ độc thư”. Sức khỏe của 1 người, hoàn cảnh gia đình tuy nói là tiền vận đã định trước, nhưng bản thân biết cố gắng tu thân tích đức, thì vẫn có thể cải biến được 1 phần hậu vận.
Có thể Đường lão sư căn cứ “bình đầu sát”, “cô loan sát” để luận đoán sức khỏe Tăng phu nhân có bao nhiêu bệnh, nặng như thế nào, là kinh nghiệm để học hỏi. Nhưng đối với an bài của tạo hóa mà nói thì có cần phải nói ra những điều này. Nếu Tăng tiên sinh xem mệnh mục đích chính là “tri mệnh”, hiện tại để nói đến tình trạng sức khỏe của Tăng phu nhân thì Đường lão sư chỉ cần nói “so ra khá kém” là đủ, sau đó chỉ cần khuyên chú trọng dưỡng sanh chi đạo, giữ gìn đức hạnh, như vậy tự có thể giảm thiểu được những khốn ách cùng trở ngại. Kinh dịch có viết: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Thiên thể vận hành không ngừng, theo đó mà mệnh vận của con người cũng biến hóa từng ngày vậy.

9.Nữ mệnh tài vượng sanh quan, phu quyền tất đoạt
Khôn tạo: Dân quốc năm thứ 54 (năm 1965), AL ngày 21/10 giờ dần. Bát tự
Ất tị đinh hợi tân mùi canh dần
Đại vận: Mậu tý (9)/ kỷ sửu (19)/ canh dần (29)/ tân mão (39)/ nhâm thìn (49)/ quý tị (59)
Mệnh này là Ngô tiểu thư sống tại Đài Bắc, từ người giúp việc của tiểu thư biết được cô ta lấy chồng năm 24 tuổi năm mậu thìn, đã có 3 đứa con. Hỏi về sức khỏe, sự ngiệp.
-“Ngô tiểu thư, do bổn mạng thuộc tân kim, sanh vào tháng hợi, chính là kim thủy thương quan cách, nhất định khả năng ca hát, ăn nói nhất định rất giỏi, tài hoa không tệ, nhưng do bát tự mệnh cục thủy rất vượng, cho nên chân cẳng dễ bị chuột rút, phổi không tốt. Cần gặp vận mộc hỏa, đại vận hoặc lưu niên mộc hỏa khá thuận lợi. Gặp lưu niên kim thủy không tốt, nguyên nhân là kim hàn thủy lãnh, sức khỏe không tốt. Đặc biệt năm nhâm thân, quý dậu quá kém, sức khỏe càng kém” (Đường lão sư thuyết).

Đường lão sư định mệnh cục Ngô tiểu thư là “Kim hàn thủy lãnh” để từ đó luận tình trạng sức khỏe Ngô tiểu thư, Đáng tiếc đọc giả không được Ngô tiểu thư hồi âm xác nhận, chẳng biết Ngô tiểu thư có thống nhất với luận đoán của Đường lão sư.

Từ cách cục mà nói, Ngô tiểu thư có nhật nguyên thuộc kim, sanh vào mạnh đông tháng hợi, trong hợi tàng bản khí nhâm thủy cùng giáp mộc dư khí; nhâm thủy cùng giáp mộc đều không lộ trên can cho nên định cách cục là nhâm thủy thương quan cách. Nhưng Ngô tiểu thư sanh sau lập đông 6 ngày, dựa theo khí ngũ hành để dụng cường nhược thì tuy là nhâm thủy nắm lệnh, đương quyền nhưng lực lượng giáp mộc cũng không hề kém so với nhâm thủy. Can năm ất mộc thiên tài đắc lệnh tháng đề cương giáp mộc, lại chi giờ dần mộc nên ất mộc cường mà hữu lực, thâm căn cố đế, tài khí hùng hậu. Can tháng đinh hỏa sát tinh thông căn tại nhật chi mùi thổ, đế vượng tại chi năm tị hỏa, chi giờ dần mộc sanh phò, tài vượng sanh sát, lực lượng đinh hỏa sát tinh không kém. Ngược lại nhâm thủy thương quan trong hợi cũng không lộ trên can, tứ ngôn độc bộ viết: “Nhân nguyên tam dụng, thấu vượng là chân”, lực lượng nhâm thủy thương quan tổn hao do tài cùng sát tinh. Mà nhật nguyên tân kim duy chỉ có canh kim trong tị cùng thiên can canh kim trụ giờ bang phù, tuy không phải là thân vượng, nhưng cũng không tính là quá nhược đến nỗi không thể trợ; nguyên nhân là trong mệnh cục có 3 hỏa có thể trừ hàn trợ noãn, vậy có thể luận là “Kim hàn thủy lãnh” được sao? Ta có điểm này bất đồng với nhận định của Đường lão sư.

Tân kim sanh vào mùa đông, hỉ hỏa điều hậu, bởi vậy có thuyết “Kim thủy thương quan nên kiến quan” là vậy. Tân kim tại mùa xuân, hạ, thu, quý tiết. bất luận nhật nguyên cường hoặc nhược đều mừng gặp nhâm thủy gột rửa mà lộ kim. Nhưng trường hợp nhật nguyên thân nhược vào mùa hạ, ắt mừng gặp tỉ kiếp bang phù, hoặc thấp thổ ấn tinh tại địa chi sanh phù, không thích mậu thổ, kỷ thổ thấu can, vì thổ dày sẽ lấp kim vậy.

Cho nên mệnh cục Ngô tiểu thư, giáp trong hợi trường sanh, tài tinh hữu khí, nên dụng tỉ kiếp bang phù, thấp thổ ấn tinh sanh phù cùng nhâm thủy gột rửa. Nhật nguyên hữu khí có thể đảm nhận tài, mới có thể giàu, mà tối kỵ quan sát chế tỉ kiếp cùng táo thổ lấp kim.

Đường lão sư nhận định Ngô tiểu thư nên gặp vận mộc, hỏa. Ta không đồng tình, gặp vận mộc hỏa càng tăng lực sát tinh công thân, nhất định sẽ nhiều tai họa bệnh tật. Kim suy bị hỏa khắc, thì các bộ phận cơ thể như eo chân gân cốt sẽ có bệnh đau nhức hoặc răng dễ hư hoại. Năm nhâm thân, quý dậu ắt địa chi dần mộc bị khắc, chân dễ bị thương tổn, mà không phải nguyên nhân “Kim hành thủy lãnh” khiến cho bị tật bệnh.

-“Cô không nên hợp tác với người khác kinh doanh” (Đường lão sư thuyết).
-“Vậy có thể hợp tác với thân nhân được không?” (Ngô tiểu thư hỏi).
-“Quan trọng phải tham khảo bát tự người hợp tác. Dựa vào bát tự, chồng cô có trợ giúp cho sự nghiệp của cô rất lớn, nhất định cần dựa vào chồng” (Đường lão sư thuyết).
-“Tài vận có tốt không?” (Ngô tiểu thư hỏi).
-“Năm nhâm thân, quý dậu nguyên nhân kim thủy lan tràn, cực kém. Từ năm bính tý 32 tuổi đến năm kỷ mão 35 tuổi, đều không tệ, nguyên nhân lưu niên mộc hỏa thích hợp với mệnh cục của cô” (Đường lão sư thuyết).
Theo lý luận bát tự mệnh học, thân nhược mừng gặp tỉ kiếp trợ thân, thích hợp cùng người hợp tác, dễ dàng được bạn bè, anh chị em bang trợ, nhưng nếu có thể trước tiên cần tham khảo bát tự người hợp tác, là xem gặp vận cát hay hung. Sự nghiệp Ngô tiểu thư, không thể không dựa vào chồng? Ta nhận định là “chưa chắc”. Xét vận canh dần, bản thân sự nghiệp của ông chồng gặp thất bại không ít, dễ gặp tổn tài, hao tài. Vậy có thể trợ giúp Ngô tiểu thư được sao. Nói không chừng bản thân Ngô tiểu thư tại vận kỷ sửu tích lũy mua nhà riêng, cũng đều bị đoạt hết. Nguyên nhân mệnh cục tài vượng sanh sát, gặp vận tài sát vượng địa thì dễ biết. Uyên hải tử bình viết: “Nữ mệnh phùng tài vượng sanh quan, phu quyền tất đoạt”. Nữ mệnh tài vượng sanh quan, mọi việc trong nhà đều nắm quyền, làm chủ. Bản ý là cam tâm tình nguyện vì chồng mà hết sức nổ lực, hỗ trợ giúp đỡ cho chồng. Nói một cách dễ nghe chính là mệnh “Vượng phu”. Sự thật là “Muốn nhờ vào chồng, ngược lại phải gánh thêm việc của chồng”.
-“Hôn nhân cần phải lưu tâm chuyện gì?” (Ngô tiểu thư hỏi).
“Chính do mệnh cục thương quan cách, bản thân cá tính kiêu ngạo, dễ ảnh hướng đến tình cảm vợ chồng. Địa chi trụ năm trụ tháng thương quan kiến quan, trụ tháng lại có thất sát, tỳ khí không tốt, tính tình cần nhẫn nại, nếu không tình cảm vợ chồng dễ tan vỡ. Nếu trước năm 28 tuổi kết hôn, hành vận kỷ sửu, phu thê cung phùng xung, hôn nhân càng dễ gặp tan vỡ. Vận canh dần sau 29 tuổi, dịch mã phùng tài mà đới quý nhân, nữ mệnh bát tự tốt nhất không nên đới quý nhân, đới quý nhân hôn nhân dể gặp chuyện, không thuận lợi. Năm đinh sửu 33 tuổi, vợ chồng dễ xảy ra xung độ, cần phải nhường nhịn nhau. Tổng luận thì tình cảm vợ chồng cần hai người đều phải nhân nhượng, mới có thể hạnh phúc mỹ mãn” (Đường lão sư thuyết).

Hôn nhân là sự nghiệp lâu dài. Đích xác, mệnh vận do bản thân mình nắm giữ. Nếu vợ chồng song phương không thể kính trọng lẫn nhau, yêu thương lẫn nhau, cùng hoài cảm tích phúc đức, thì cho dù bát tự có tốt, cũng khó bảo toàn hôn nhân, khó tránh phải tan vỡ. Nhưng đơn thuần mệnh cục Ngô tiểu thư, hôn nhân sẽ không đến nỗi như Đường lão sư luận. Ngô tiểu thư vào năm 24 tuổi năm mậu thìn kết hôn, sanh 3 đứa con trai, cũng không có ly hôn. Địa chi trụ năm trụ tháng tị hợi xung, là trước khi kết hôn đã từng có 1 thời yêu đương khắc cốt ghi tâm, gọi là luyến khúc không thành. Đoán theo vận mệnh ứng vào năm bính dần 22 tuổi, bính hỏa hợp nhật nguyên tân kim, dần hợi hợp, giải khai tị hợi xung, tị hỏa có thể hợp địa chi vận sửu thổ, chi lưu niên dần mộc cùng chi giờ dần mộc âm thầm tranh hợp sửu thổ, nam nữ 2 bên đều tìm được đối tượng mới, di tình biệt luyến. Kỷ sửu vận, phu thê cung phùng mà luận là hôn nhân sẽ tan vỡ, lý do tựa hồ quá khiên cưỡng.

Tương tự, năm đinh sửu 33 tuổi, mặc dù trụ ngày phản ngâm, vợ chồng hoặc có ý kiến bất đồng, địa chi sửu mùi xung, thổ càng xung càng vượng, ấn vượng ngược lại có thể ức chế thực thương tinh, đối với chồng sẽ không có hành vi trái đạo. Vận canh dần, dần mộc tuy là thiên ất quý nhân của nhật nguyên tân kim, nhưng cũng không thể cố chấp mà luận là hôn nhân dễ tan vỡ. Mệnh thư có viết “quý nhân” cũng không là thiên ất quý nhân, mà là quan sát tinh. Sách xưa viết: “Dịch mã phùng quý nhân, chung cứu lạc phong trần” tức là nói nữ mệnh dịch mã tinh lại là quan sát tinh, nếu tuế vận phùng xung ắt hôn nhân dễ gặp chuyện. Nhất định không có liên quan đến thiên ất quý nhân. Vận can dần, canh kim lâm tuyệt địa, trụ giờ phục ngâm, tài vượng sanh sát, công việc, sự nghiệp nhiều biến đổi, không ổn định. Chồng gặp tổn tài, đầu tư sai lầm, tiền bạc thiếu thốn, đặc biệt năm mậu dần, kỷ mão càng nghiêm trọng, không phải hôn nhân gặp vấn đề.

Ví dụ 10. Xem tiết khí trước rồi mới định suy vượng tài quanKhôn tạo: Dân quốc năm thứ 52 (1963), ngày 23/3 giờ hợi:
Bát tự:
Quý mão bính thìn kỷ sửu ất hợi
Đại vận: Đinh tị (7)/ mậu ngọ (17)/ kỷ mùi (27)/ canh thân (37)/ tân dậu (47)/ nhâm tuất (57)

Mệnh này là Trần nữ sĩ tại Cao Hùng gọi điện thoại nhờ Đường lão sư xem mệnh, nhờ xem về học vấn, thi cử, gia đình, hôn nhân.

"Trần nữ sĩ rất tốt, dựa vào bát tự này mà luận, cô có cá tính cố chấp, cô độc, tâm tính nhỏ mọn tiểu tiết, thích quản chồng, hay cằn nhằn những việc nhỏ nhặt. Nguyên nhân phu cung đới tài khố, lại sanh giờ hợi, giờ hợi cũng là tài, cho nên lao tâm khổ tứ vì chồng" (Trần lão sư thuyết).

Nhưng Trần nữ sĩ không đồng tình lắm, chỉ trả lời uh, ah.

Đường lão sư luận tiếp: "Luận sự nghiệp tài vận, nguyên nhân mệnh cục thân vượng, tài có tiết, đến vận kim thủy hoặc vận thủy mộc đều là vận tốt, có thể nói mệnh cục cực tốt, mệnh cục có tài tinh lại tự tọa tài khố; năm ất hợi 33 tuổi, nguyên nhân có tài tinh, mệnh cục có ấn có quan, cho nên muốn tự lập nghiệp, tại năm ất hợi thủy mộc là lưu niên hỉ dụng thần, tài vận cực tốt. Từ bát tự cũng có thể thấy được, khi cô còn trẻ cùng chồng khó mà hòa hợp, dễ tranh cãi nhau".

Ở trên Đường lão sư xác định mệnh chủ kỷ thổ là "Thân vượng đủ sức đảm nhận tài quan", rồi từ đó mà luận. Sự thật mệnh này nhật nguyên cũng không vượng, chỉ là tài tinh cực vượng, thuộc cách cục "Tài vượng sanh sát", cách cục này cần nhất sanh phù nhật nguyên, đồng thời phải điều hậu mới tốt.

Tại sao nói như vậy? Nguyên nhân mệnh này sanh tháng thìn, sau tiết thanh minh 11 ngày, dựa vào tứ thời bát tiết dụng ca quyết là: "Thanh minh thất nhật ất mộc năng, bát nhật quý thủy quy thìn khố". Ý tứ là: Mệnh chủ kỷ thổ sanh vào tháng thìn, tuy là mậu thổ nắm lệnh, nhưng sau tiết thanh minh 11 ngày thì mậu thổ cũng không nắm lệnh, mà là quý thủy. Chỗ này điểm quan trọng của tiết khí. Cho nên luận mệnh trước tiên cần xem tiết khí thiển thâm, sau đó mới định suy vượng tài quan.

Nếu quý thủy đương quyền, trong cục quý thủy dẫn thấu thiên can tại trụ năm, lại phùng giờ hợi thủy, lực tài tinh vượng; ất mộc sát tinh dư khí tại thìn, thông căn tại chi năm mão mộc, có thìn, sửu, lại đắc cường thủy sanh, sát tinh có thể nói là thâm căn cố đế. Mà kỷ thổ là thấp thổ, sợ nhất ất mộc, mộc vượng ắt kỷ thổ hư, lại phùng cường thủy khiến thổ dễ bị trôi. Nhật nguyên kỷ thổ tuy đắc thìn, sửu bang trợ, nhưng thìn, sửu thổ đều là thấp thổ, cũng không cách nào sanh trợ, nhật nguyên kỷ thổ tượng hư thấp. Bởi vậy, cần dụng can tháng bính hỏa là hỉ dụng thần, bính hỏa còn có thể điều hậu, sanh phù nhật nguyên. Mệnh cục đắc bính hỏa này, tưởng rằng quý, nhưng quý thủy kề cận bính hỏa, mệnh cục từ thanh chuyển thành trọc, dụng thần tổn thương ắt tổn thất quý khí.

Tài sát cường vượng, ắt mệnh chủ là 1 người rất biết điều, theo đó nếu là nữ mệnh thì đối với chồng sẽ không lãi nhãi, không tạo áp lực cho chồng, mà là khẳng khái tình cảm, bản thân hy sinh cho gia đình, cho chồng, nổ lực tâm lực. Cho dù chồng có làm điều gì oán hận, cũng cam tâm, tuyệt đối không có chuyện vô lý mà gây sự với chồng. Điểm này cũng không phải do mệnh chủ tự tọa tài khố hoặc phu cung đới tài khố (sửu thổ không phải là tài khố của nhật nguyên kỷ thổ, thìn thổ mới đúng tài khố), mà là hiển hiện tự nhiên của cách tài vượng sanh sát.

Năm ất hợi muốn lập nghiệp, ứng là tình thế bức bách, phải luận là sự nghiệp của chồng gặp nạn, có tổn hại phá háo liên miên, không thể luận là tài vận rất tốt.

Về phần luận Trần nữ sĩ cùng chồng tình cảm không tốt, nếu hiểu mệnh lý 1 chút có thể thấy rằng, nếu Trần nữ sĩ là 1 người vợ y đức hiền thục, hiền thê lương mẫu; chồng của Trần nữ sĩ hẳn là 1 người cố chấp, quật cường, theo chủ nghĩa cá nhân lợi ích, quan niệm giữa 2 vợ chồng bất đồng.

Trần nữ sĩ thẳng thắn thừa nhận tình cảm vợ chồng không tốt, nhưng điều quan tâm chính của cô là về thân thể sức khỏe, hỏi tiếp Đường lão sư: "Con có bị phá tương (tàn tật) không?"

"Nếu bị tàn tật, ứng là năm 13 tuổi, rất dễ bị tàn tật. Nguyên nhân kỷ thổ sanh tháng 3 ấn tinh lộ ra, nhật nguyên thân vượng nên dễ bị tàn tật" (Đường lão sư thuyết).

Trần nữ sĩ đáp: "Không phải vậy. Tôi từ nhỏ đi đứng đã có vấn đề, hiện tại việc đi lại không thuận lợi, đều phải nhờ vào cây nạn chống đỡ".

Đường lão sư: "Ta căn cứ vào mệnh cục có đới lưu hà mà luận. Về lý, mệnh cô thuộc kim thần cách, kim thần cách sẽ không tàn tật. Người mệnh thân vượng dễ bị chân tay không được hoàn chỉnh, sau khi nhập vận 23 tuổi gặp lộc, tương ứng không tệ, sẽ không tàn tật. Quả thật từ mệnh cục chúng ta không nhìn được đại khuyết hãm như thế”.

Đoạn này Đường lão sư luận có sai sót. Mệnh này cũng không phải là đới lưu hà thần sát, nhật can kỷ thổ, địa chi thấy ngọ mới là đới lưu hà. Cũng không phải là kim thần cách, mệnh nhật can giáp hoặc nhật can kỷ, nếu sanh vào giờ ất sửu, kỷ tị, quý dậu mới thuộc kim thần cách. Mệnh đới lưu hà, nam hẳn chết tại đất khách quê người, nữ hẳn sanh con khó. Người mệnh kim thần cách đa phần tính tình uy mãnh cường liệt, can đảm, háo thắng, thường khiến người khác kính sợ mà xa cách. Nếu mệnh đới lưu hà thì bị tàn tật có thật sự đúng? Kim thần cách thì không tàn tật? Chỗ này thuộc phần luận về thần sát, độ chính xác như thế nào? Lấy câu nói của Dã Hạc lão nhân về bốc dịch để minh chứng: Đoán về cát hung dụng thần sát rất đa đoan, không bằng dụng về ngũ hành sanh khắc chế hóa.

"Thân vượng dễ bị chân tay không được hoàn chỉnh", ta nhận định chưa hẳn. Mệnh thiên khô mới dễ bị tàn tật, hoặc mệnh cục mà xảy ra tình trạng xung chiến cũng dễ bị tàn tật. Thiên khô là gì? Khô giả, vô căn mà mục nát. Nhật chủ khô, không nghèo cũng chết yểu; dụng thần khô, không nghèo cũng mồ côi. Cho nên Tích thiên tủy luận chương tật bệnh: "ngũ hành hòa giả, một đời vô tai", mệnh cục quý ở chỗ sanh tiết hữu tình chế hóa đắc nghi.

Theo mệnh cục Trần nữ sĩ, ứng cách tài vượng sanh sát, lấy lệnh tháng bính hỏa ấn tinh làm dụng thần, mà bính hỏa ấn tinh lại bị quý thủy tài tinh nắm quyền khắc phá, mệnh cục từ "Thanh" chuyển thành "Trọc", cũng tức là từ cách cục "Thành" chuyển thành "Bại". Nhưng mà là "Trọc" mệnh, không phải thiên khô, cho nên không hình thành điều kiện cách cục tàn tật. Bởi vậy, ta tán đồng câu nói của Đường lão sư: "Từ mệnh cục chúng ta không nhìn được đại khuyết hãm như thế."

Trần nữ sĩ tiếp theo đưa ra vấn đề: "Vợ chồng con có thể sống đến răng long đầu bạc?"

Ta tin tưởng đây là điểm then chốt mà Trần nữ sĩ muốn hỏi, nguyên nhân là từ phân tích mệnh lý ở trên chúng ta có thể xác định được kết luận: "Từ năm nhâm thân, quý dậu, ất hợi, đến hiện nay năm bính tý, chồng cô ta đã bị hao phá, khổ ải liên miên".

"Năm giáp tuất 32 tuổi, vợ chồng bất hòa. Nguyên nhân là phu cung cùng thái tuế phạm hình. Mà phu cung của cô đới tài khố, hơn nữa thân vượng sau này nhập vận canh thân, tân dậu tiết thân, hết sức tốt, chuyện sống với chồng đến răng long đầu bạc là không có vấn đề" (Đường lão sư luận tiếp theo).

Câu trả lời này có thể làm cho Trần nữ sĩ yên tâm, nhưng nhập vận canh thân, tân dậu cùng mệnh cục sẽ hình thành "Thương quan kiến quan, là họa trăm điều". Bản thân mình bị tàn tật bẩm sinh, sự nghiệp của chồng càng ngày càng thảm hại thì thật đáng ngại thay! Ta tin tưởng cô này lúc nhỏ mặc dù đi đứng có vấn đề, nhưng tại vận đinh tị, mậu ngọ, sự nghiệp của cha cô ta thịnh vượng, ắt có thể vẫn được chồng cô ta yêu thương, hạnh phúc mỹ mãn. Về phần hôn nhân sau này có còn ấm áp ngọt ngào, quả thật khó nói được.

Cuối cùng Đường lão sư lại nói "Kỷ thổ sanh vào tháng 3, thổ vượng, cho nên lúc nhỏ gặp vận hỏa vượng, vận kỵ thần nên dễ bị tàn tật, nhưng mệnh cục nhìn không ra bị nghiêm trọng đến vậy, hoặc do phong thủy dương trạch phạm sát gây ra"

Nguyên nhân dương trạch phạm sát mà khiến cho bị tàn tật, ta qua nhiều trường hợp thực tế chứng nghiệm thấy rằng cũng rất ứng nghiệm. Đối với mệnh kỷ thổ này, Đường lão sư phán đoán cường nhược mệnh cục, ta nhận định là Đường lão sư đã quên phần tầm quan trọng của tiết khí. Nhưng tình huống xem mệnh qua điện thoại như thế, ta tin tưởng 1 cao thủ xem mệnh cũng khó tránh được.
 
N

Người Lái Đò

Guest
Luận đại vận.

`
Vận tức nói đến sự truyền xả thám mệnh của đời người . Trước tiên dùng tam nguyên tứ trụ , ngũ hành sanh tử , cách cuộc trí hợp để định căn cơ . Sau đó khảo hạch vận khí hiệp theo để định sự cát hung vậy .
Về căn cơ thì như Mộc vận khí mùa Xuân , Xuân mà không Mộc thì bất trược , Mộc không Xuân thì bất vinh . Căn cơ mà thiển bạc thì như loài cỏ nhỏ gặp gió Xuân ngầm phát mà tốt nhưng không thể lâu dài ; còn căn cơ mà hậu tráng thì như loài tùng bách không biến đổi theo thời gian .Trên là luận căn cơ , sau nói về vận khí .
Người xưa dùng đại vận thì cứ 1 thời 10 năm làm một , lấy 3 ngày làm 1 năm là vì sao ? : bởi 1 tháng tối sáng xoay 1 vòng có 30 ngày , đêm ngày 1 vòng có 12 thời , cọng làm vận khí 10 năm . Phàm 3 ngày thì có 36 thời và 360 ngày là 1 năm , trong 1 tháng có 360 giờ , triết trừ tiết khí tổng cộng thì 3600 ngày là một thần tức 10 năm vậy . Người lấy 120 năm là chu thiên , luận phép triết trừ thì dùng sanh tức thật lịch quá số nhựt thời là số tiết khí vậy.
Dương nam âm nữ đại vận thì lấy tiết khí nhựt thời của sau ngày sanh mà làm số rồi thuận hành .
Âm nam dương nữ đại vận thì lấy tiết khí nhựt thời của trước ngày sanh mà làm số rồi nghịnh hành .
Ví dụ Giáp tí dương nam , sanh giờ tỵ ngày 24 tháng 12 . Lập xuân ngày 29 giờ Thân . Lấy ngày vị lai từ giờ Tỵ ngày 24 đến giờ Tỵ ngày 25 tức 1 ngày là thật số , đến giờ Thân ngày 29 tức được 5 ngày 3 giờ ,....( bản gốc thiếu 1 đoạn – nhờ Khoitinh hiệu đính - anhngoc ...).
Lại nói : đại vận là sự biểu lý của Bát tự vậy , dùng thì phải tính sự thiển thâm , thành tuê thì phải so sánh ít nhiều , nhưng 3 ngày mà thành 1 năm , gặp người dư thì là linh , gặp người không đủ thì là tá , chỉ biết linh tá mà không biết sở dỉ linh tá .
Ví như dương mệnh sanh chánh nguyệt mồng 1 giờ sửu chánh 1 khắc , thì đến tiết lập xuân mồng 4 giờ sửu chánh 1 khắc là 1 năm đủ , nếu giờ dần mới tiết lập xuân thì nhiều 1 thời là linh 1 tuần , nếu thiếu 1 thời là tá 1 tuần ; lại lấy hành vận mà luận pháp ; ví như sanh năm Giáp tí tháng giêng mồng 1 giờ tí chánh 1 khắc thì hành vận kể năm Ất sửu tháng giêng mồng 1 giờ tí chánh 1 khắc làm 1 năm , trong lục cá nguyệt thì tiến 6 ngày , vậy mồng 7 giờ tí chánh 1 khắc thì làm 1 năm , chỉ cần kể đủ 12 tháng , lại là bổn niên có vận 4 tháng tức nhiều hơn 1 tháng vậy , phải thối hoàn bổn niên tháng 12 mồng 7 giờ tí chánh 1 khắc là giao vận , sau đây mà toán sau 10 năm thì chuyển 1 vận . Nếu học giả không hiểu khắc sanh mà chỉ biết giờ sanh tức dùng giờ sanh mà trừ giờ trong 6 tiết thì sai vậy .
- Thường thì hành vận tại Can và kiêm dùng thần của Địa chi , tại chi thì bỏ thiên can , bởi đại vận chỉ trọng địa chi nên mới có hành Đông Tây Nam Bắc biện các phương vậy , gặp tổn thì dụng thần phải chế vận cho , ích thì dụng thần phải sanh vận cho ; thân mà nhược thì vận muốn dẫn đến nơi tấn vượng , muốn vận được sanh mà không muốn vận bị thương sát , muốn vận chế mà không muốn vận trợ tài , muốn vận phò mà không muốn vận kiếp ấn , muốn vận vượng mà không muốn vận suy thực , muốn vận sanh mà không muốn vận kiêu tuyệt .
__________________
Lại xem Tứ Trụ mạnh yếu thế nào , nguyên có nguyên không , nguyên khinh nguyên trọng . Như ngời Mộc dùng kim là Quan , dương nam vận xuất ở Mùi nhập ở Thân , âm nam vận xuất ở Hợi nhập ở Tuất . Người Kim dùng Mộc là Tài , duong nam xuất ở Sửu nhập ở Dần , âm nam xuất ở Tỵ nhập ở Thìn , đều hướng dến Lâm quan Mã , nguyên mà có Quan hành Quan vận thì phát Quan , nguyên mà có Tài hành Tài vận thì phát Tài . Lại xem đương sanh niên thời có khí sâu cạn thế nào . Tứ trụ mà được khí sâu dày nghinh vận thì phát , nếu khí ít thì cần giao quá vận mới phát được nơi trung khí , khi vận đến trung thì được phát tốt . Tử nói : khí là vậy , với tương lai thì tấn đã thành công thì thối . Oanh hòa thượng nói : Nghinh thì lấy Lâm quan đế 2 vị , tương lai thì tấn , sau lung thì hưu tù tử tuyệt , công thành thì thối .
LẠi nói : sanh mà gặp nơi hưu bại thì tuổi ít mà đã cô hàn , lão mà quá nơi vượng kiện thì cũng yểu triết . Oanh hòa thượng nói : Thân lấy trục vận tất giả vận mà cho thân , thế cần cập thời , cũng là giả thời mà thành thế .
- Lại nói: Sanh gặp năm vượng thì cần vận đến nơi vượng hương , sau gặp năm suy thì vận lại hợp nơi khốn địa . Hồ trung Tử nói: lớn nhỏ đều cẩn thận chớ tọa ở nơi cường tráng thật thì chỉ nên xu vượng , sanh vượng tuy tốt mà chưa hẵn tốt , suy tuy là xấu mà chưa hẵn đã xấu , biết được vậy thì đầu tiên có thể luận vận , bởi ngừơi từ sanh đến già tức từ nhỏ mà đến nơi thiếu tráng niên 10 năm , đang là thiếu niên thì chỉ có thể hành nơi Thai ,Dưỡng ,Sanh, Mộc dục ; 30 , 40 tuổi thì dương cường tráng nên có thể hành nơi vượng xứ ; 50, 60 tuổi thì chỉ hành nơi Suy Bại Tử Tuyệt ; nếu trái kai45 thì cải vận một đời bị phản bối , tam hạn nhanh chóng đến , như vào vượng hương muộn thì chẳng phù hợp.
Lại nói : trong Mệnh có ngũ hành suy thì Vận phải nên thạnh , ngũ hành thạnh thì vận phải nên suy . Bởi suy mà hành vận lại suy thì là bất cập chủ bị trầm trệ , còn thạnh mà hành vận cũng thịnh thì là thái quá chủ kích tác mà thành bại vậy . Cẩn phải quy ở giữa thì càng hay .
Lạc lộc Tử nói: Niên tuy gặp nơi quan đới mà có dư tai, , sơ vận lại nhập ở suy hương.
Vương thị chú rằng: Niên vận mà ban đầu ở nơi mộc dục bạo bại mà thuận hành đến gặp quan đới thì chưa gọi là phước mà có khi lại bị suy bại của dư tai vậy ; hoặc từ vượng địa mà hành sơ nhập suy hương cũng không thể gọi là họa bởi tích được phước nơi vượng hương vậy. Sở dỉ nói hành vận có trước sau 5 năm vậy .
Hồ trung TỬ nói : Đặt nơi triệt mà không triệt thì yên mà lâu cũng bị ương ác , muốn giao mà không giao thì cũng bị họa tàn .Bởi nói vận hành tại nơi suy tuyệt , nếu tượng đặt nơi cát địa thì tất phải bị lâm ly , còn nếu tương đặt nơi suy tuyệt thì vào thời đầu lại có phước . Có câu : cát vận vị đáo tiên tất phước , hung thần quá khứ thỉ vi ương ; tức như lửa chưa sáng mà đã có khói trước , nước đã qua mà vẫn còn ướt , cái nghĩa như vậy cần phải rõ tường .
Lại nói :âm nam dương nữ thì xét năm xuất nhập , âm nữ dương nam thì nguyên thần năm . Bởi âm nam dương nữ thì bẩm khí không thuận nên thời đại vận phải xét năm xuất vận nhập vận mới biết cái biến tốt xấu . Còn dương nam âm nữ bẩm khí tuy thuận nếu không ứng dụng năm xuất nhập thì cũng không thấy được cái ách nguyên thần .
Hồ trung Tử nói: Nguyên thần phạm vận thì nhưTrọng vi bị khổn , Trần Thái bị đói vậy .
Lại nói: thường hành đại vận mà gặp nơi ích thì vận được cát khánh nhưng cũng không phải tốt mãi mà cần phải hành niên thái tuế ở nơi sanh vượng hòa hợp thì mới gọi là phát phước . Nếu đại vận đến nơi tốt mà lại gặp trực niên thái tuế tiểu vận đáo nơi hình hại thì cũng chủ tế lủy phù tai vậy , chỉ không hại nặng thôi . Còn nếu đại vận hành đến nơi nghịch cảnh hung họa và trực niên thái tuế lại gặp hình xung , tiểu vận lại bất hòa xung kích tử tuyệt thì nhất định phát họa , nếu tiểu vận và thái tuề đáo nơi sanh vượng lộc mã quý nhân tất cả hỷ thần , thì có tiểu khánh .
Kinh nói:
Phàm muốn quyền họa phước của mệnh thì trước hết phải phân tích cơ địa dày mỏng thế nào , sau đó mới định được tai hay phước .
Như mệnh nếu được mười phần phước khí mà hành vận có 3,4 phần xấu thì phước lực vẫn mạnh vậy , còn nếu có 5,6 phần vận xấu thì đã có sự tai ương phần nào , nếu có 7,8 phần vận xấu thì tai ương phải nặng nề .
Như mệnh có 5 phần phước khí mà hành vận có 3,4 phần xấu thì rất hung ; nếu đến 4,5 phần vận xấu thì tất tử , đấy là cơ địa không bền vậy .
Nếu đại vận đã qua khỏi nơi Trường sanh của bổn mạng tức là có vận thanh khí , dù tuế vận đến xung khắc thì họa cũng không nhiều bởi vận khí nhiều vậy ; còn nếu chưa qua Trường sanh mà tuế vận bị hình xung khắc phá thì là tai , bởi khí chưa đủ nên vận yếu vậy . Còn nếu qua khỏi vượng tướng mà gặp tử tuyệt tức mệnh tai ương không tốt . Đó là cái đạo lý thay đổi trong âm dương ngũ hành vậy . Nếu đã qua trường sanh và bại địa , trong đó lại gặp hình khắc ác sát cùng diện kiến tương phù với mệnh tức là khí ngũ hành phản chiến nên bị hung ác vậy .
Lại nói: thường khi hành vận có Trường sanh thì khi làm việc có sáng kiến đổi mới , đáo Lâm quan , Đế vượng thì chủ hưng thạnh khoái lạc phát phước tấn tài , sanh con cháu cát khánh ; còn nếu đáo đến nơi Suy Bệnh thì chủ thối bại phá tài , các loại tật bệnh ; còn như đến nơi Tử Tuyệt thì chủ cốt nhục tử táng , tự thân suy họa phiền não trăm việc bế tắc ; nếu đến bại vận lạc phách thì chủ tửu sắc hôn mê ; nếu đến nơi thai khố thành hình Quan đới thì chủ trăm việc trung bình an khang bình dị. Phàm hành vận đến nơi giáp với hoa cái quý nhân lục hợp với thừa được sanh khí vượng khí thì đều được khánh hỷ , phải xét nơi căn cơ đương sanh thì mười phần ứng được năm phần ; còn xét nơi sanh thời thì năm phần ứng được mười phần , phước với tai đồng nhau ứng vậy .Phàm hành vận đến nơi lâm quan đế vượng và thái tuế cầm nơi quan quý thì chủ thăng quan tiến chức , cũng như nơi mã vượng quý nhân thì vào nơi hàn lâm các hạng vậy , bởi quý là quân đạo mã chủ thiên động nên vậy.
__________________
Lại nói :
Phàm tí sửu dần thìn tỵ trong tứ trụ nhiều dương , người hành vận đến ngọ mùi thân dậu tuất hợi thừa âm khí mà phát ; ngọ mùi thân dậu tuất họi tứ trụ nhiều âm thì người hành vận đến tí sửu dần mão thìn tỵ vận thừa dương khí mà phát ,thứ 2 thì âm dương quân hiệp , nhưng âm nhân mà dương phát thì nhanh còn dương nhân mà âm phát thì chậm.
Lại nói:
Thủy mệnh mà tứ trụ có thổ , đến hỏa vận vốn là tài vận lại trở thành quỷ , bởi hỏa sanh thổ khắc thủy nên tài hóa thành quỷ vậy là chuyển phước thành họa. Nếu thủy mệnh mà tứ trụ có kim , đến thổ vận là quỷ vận lại trở thành tốt bởi thổ sanh kim và kim sanh thủy tức hóa quỷ thành trợ khí , chuyển họa thành phước vậy .
Lại như người thủy mệnh tứ trụ có dần ngọ tuất hoặc nạp âm hỏa mà hành dần ngọ tuất đều là hảo vận , nếu tứ trụ có kim có hỏa thì tức là phước , nếu hành thủy vận tức phước bị phân nên không phải vận tốt ; tứ trụ nhiều thổ lại hành mộc vận gọi là tổn khí chủ bác tạp tuy có cứu cũng nhiều khổ , các loại khác cũng theo vậy mà suy.
Lại nói :
Người Đinh Sửu hành vận Đinh Mùi thì gọi là “Đem phàm nhập thánh” ,lấy giả làm thật , không nên lấy thồi thần mà luận , Tứ trụ có Đinh Sửu Đinh Mùi không phải là hạn , nếu người Mậu Dần hành vận Đinh Sửu tuy là thối thần lại có tề hóa tức phước ; nếu người sanh Canh Thìn hoặc ngày Canh Thìn mà hành vận Ất Dậu , Ất Dậu sanh nhân hoặc Ất Dậu nguyệt hành vận Canh Thìn thì chủ phát tích , nếu chỉ trùng điệp thì không tốt .Người Ất Mùi mà niên nguyệt nhựt thời Dậu là đại hung . Người Giáp Thân hành vận Bính Dần gọi là lực đình tương xung chủ phá tài cạnh tranh . Người Bính Tuất hành vận Tân Mão chủ độn trệ , chỉ tốt cho người võ . Người Bính Tí hành vận Nhâm Dần , Nhâm nhập Bính thì phá tài không tốt . Mọi trường hợp khác cứ theo đấy mà luận .
Lại nói:
Phàm mệnh có khí tượng thì thủ sanh thời can thần là chủ , tứ trụ can thần là tượng . Như Giáp thời Kỷ thời thì có thổ khí , Ất Canh thì có kim khí , Bính Tân thì có thủy khí ...v...v...là bổn tượng , hành vận đến khí tượng phải đắc địa xứ tốt , không nên có địa xứ xấu , Ất Canh ,Bính Tân, Nhâm Quý là kim thủy tượng , vận đến Thân Dậu Sửu là đắc địa ; Canh Tân Mậu Kỷ , Giáp Kỷ , Ất Canh là kim thổ tượng , vận đến Thân Dậu Thìn là đắc địa ; Canh Tân Bính Đinh , Ất Canh , Mậu Quý là kim hỏa tượng , vận được Tỵ Ngọ Tuất là đắc địa ; Canh Tân Giáp Ất , Ất Canh, Đinh Nhâm là kim mộc tượng vận đến Sửu Dần Mão là đắc địa ; Giáp Ất Nhâm Quý Đinh Nhâm Bính Tân là thủy mộc tượng , Vận đến HỢi Tí Thìn là đắc địa ; Bính Tân Giáp Ất Mậu Quý Đinh Nhâm là hỏa mộc tượng , vận đến Dần Mão Mùi là đắc địa ; Mậu Kỷ Nhâm Quý Giáp ẤT Bính Tân là thủy thổ tượng ,vận đến Thìn là đắc địa ; Mậu Kỷ Bính Đinh Mậu Quý Giáp Kỷ là hỏa thổ tượng , vận đến Tuất là đắc địa ;Mậu Kỷ Giáp Ất Giáp Kỷ Đinh Nhâm là thổ mộc tượng , vận đến Mùi là đắc địa ; Mậu Kỷ Canh Tân Ất Canh Giáp Kỷ là kim thổ tượng , vận đến Sửu là đắc địa .
Xem Tứ Trụ can thần đắc tượng gì , như thuần kim mộc thủy hỏa thổ cũng là 5 tượng , nếu tạp mà không nhập thì không phát, dù có phát cũng không lâu ; như ngũ thuần tượng cũng có thái quá tượng , vẫn phải xem đương niên nguyệt lịnh đắc địa , sau đó khán xem hành vận đắc địa hay không mà nói không có thể lấy lộc mã quý nhân là đắc vận , gặp không vong dương nhận kiếp sát là thất vận vậy .
Lại nói :
Phàm hành vận thì khán nạp âm , mệnh nhân thuộc ngũ hành gì , như mệnh thổ mà hành Tây Nam phương là gặp bạn thì tốt , mộc mệnh mà hành Đông phương , Hỏa mệnh mà hành Nam phương , Kim mệnh mà hành Tây phương , Thủy mệnh mà hành Bắc phương đều là đắc địa . Lại khán sở hành vận nạp âm tương phù với mệnh , nếu đồng loại là thượng cát , tài quan thì thứ , nếu tiết khí hoặc bị khắc nặng thì không tốt .
Lại nói:
Cổ nhân dùng Giáp Tí Ất Sửu các can chi lục thập Giáp tí dụng hoa tự đều lấy mộc mà dụ nghĩa , nếu thiên can địa chi đắc thời thì tự nhiên khai hoa kết trái tươi tốt vậy . Nguyệt lệnh là thiên nguyên vậy , vận đến nguyệt thượng khởi thì giống như mầm cây , cây có thấy mầm thì biết được tên , nguyệt dụng thần thì biết được cách , nên gọi là giao vận , như đồng tiếp mộc mệnh có mầm rể hoa thật là đúng ý nầy vậy . Nếu xuất Quý nhập Giáp thì chủ không tốt .
Lời xưa nói: Thương hàn thì hoán dương , hành vận thì hoán giáp, hoán qua là người , hoán không qua là quỷ. Ví dụ : Giáp Tuất tiếp Quí Hợi tức là hỏa thượng tiếp thủy , Sửu giao Dần , Thìn giao Tỵ ,Mùi giao Thân , Tuất giao Hợi , Đông Tây Nam Bắc 4 phương đổi góc gọi là di căn , tiếp mộc lại gặp hoán giáp nếu cách xấu thì tử , dù cách thiện cũng tai ương , người già thì đại kỵ , kẻ hậu sanh thì khinh lười , nếu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tí Sửu nhứt khí đều chẳng nói là tiếp mộc , nếu tất cả mà gặp tiếp giáp thì không đại họa . Ví dụ : Giáp Ất mà truyền Dần Mão vận thì gọi là Kiếp tài , bại tài chủ khắc cha mẹ và khắc bại tài sản gây sự đấu tranh ; Bính đinh mà vận Tỵ Ngọ thì gọi là Thương quan vận chủ khắc con gái , tụng sự tù tội ; Canh Tân mà hành Thân Dậu vận là can sát nơi quan , chủ đắc danh lợi nhưng phát thái quá nên thành tai bệnh ác tật ; Nhâm Quý mà hành Hợi Tí vận là Sanh khí Ấn thụ vận chủ cát khánh tăng điền sản ; Thìn Tuất Sửu Mùi Mậu Kỷ là Tài vận chủ danh lợi đều thông suốt .
Đây là Tử Pháp khi dùng thì phải tùy theo cách cuộc nên hoặc kỵ mà quyền biến vậy. Can mà vượng thì phải cần vận suy , can mà nhược ( yếu) thì phải cầu khí vượng để nhờ , có dư thừa thì cần đến nơi không đủ , cần phải thông biến và kiêm luận lưu niên thần sát mà quyền thì ứng nghiệm như thần vậy.
 

HÀNH GIẢN

Tư vấn viên
Ôi Manh Phái..............:D
Tôi có nghe nói là Manh Phái này không luận Nhật can cường nhược. Vậy không hiểu họ lấy đâu ra dụng thần để luận cát hung.
Vậy mà nghe bà con nói linh như thần.:D
Kỳ lạ !!!! Bái phục........
 
Bên trên