Nguồn: Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Xét về dương trạch tức là phải xét 3 chủ điểm mới, có thể quyết định được cát hung, ba chủ điểm đó là Môn - Chủ - Táo.
- Môn là cổng chính để ra vào, ở thôn quê đất rộng người thưa thường nhà ở và cổng ngõ riêng biệt.
- Chủ là căn nhà tọa lạc: là nơi mình ăn ở sinh sống hàng ngày.
- Táo là bếp nước, nơi sửa soạn thức ăn, thức uống.
Cả 3 điểm nêu trên đều có mối tương quan mật thiết không thể tách rời. Phương pháp khảo sát phải theo một quá trình nhất định:
Trước hết phải xem cổng lớn (đại môn), kế đến là chủ phòng, sau hết là bếp. Nhà thường có một cổng chính ra vào: một bếp để nấu nướng, việc khảo sát có phần dễ dàng. Những nhà ở có nhiều căn nhiều phòng, tất phải chọn một nơi làm chuẩn. Vậy phải chọn căn hoặc phòng nào cao lớn nhất làm chủ vị.
Theo lý thuyết âm dương và ngũ hành thời Môn và chủ tương sinh là cát, tương khắc là hung. Nói về bếp nước, nơi đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, không thể coi thường. Do đó, bếp cần được tương sinh với Môn, sau là tương sinh với Chủ. Tuy nhiên, nếu chỉ quan sát bếp nước mà bỏ qua Môn và Chủ thời đó lại là điều sai lầm đáng tiếc. Vậy thì Môn - Chủ - Táo phải được tương sinh theo thể liên hoàn và rất kỵ tương khắc. Ngoài ra, rất cần hợp với Mạng nguyên của Trạch chú, nếu hội đủ những điều kiện trên thời nhà thịnh vượng, phúc thọ song toàn.
Vậy muốn nắm vững được bí quyết, cần phải hiểu rõ sinh khắc của ngũ hành, sự phối hợp về âm dương, thuộc lòng bài ca Du Niên. Được vậy là đã nắm được những yếu tố cơ bản của môn Bát trạch, kế đó cần tham khảo thêm những tài liệu sau đây:
Vô cực đồ - Thái cực đồ - Lưỡng nghi đồ - Thứ tự bát quái của Vua Văn Vương – Hà Đồ - Lạc thư.
Bát quái với Ngũ hành:
Bát quái tương phối: - Càn phối Khôn
- Cấn phối Đoài
- Khảm phối Ly
- Tốn phối Chấn
Ngũ hành tương sinh về tương khắc:
- Kim sinh Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim
- Kim khắc Mộc Thổ Thủy Hỏa Kim
Tây tứ trạch và Đông tứ trạch:
- Tây tứ trạch : Càn – Khôn - Cấn – Đoài
- Đông tứ trạch : Khảm – Ly - Chấn - Tốn
Đông Tây tứ trạch rất kỵ hỗn loạn:
Đông Tây tứ trạch cần phải phân biệt rõ ràng, không được hỗn loạn. Ví dụ: Môn và Táo thuộc Tây tứ trạch mà Chủ lại thuộc Đông tứ trạch. Khi đã có sự hỗn loạn thời đương nhiên có sự tương khắc, nếu không gặp Kim khắc Mộc thời Mộc khắc Thổ, xét về sau, nếu không phạm Lục Sát, Họa hại thời, gặp Ngũ quỷ tuyệt mạng, đó đều là hung triệu. Theo kinh nghiệm của soạn giả, những nhà phú quý lâu dài không bao giờ phạm vào sự hỗn loạn kể trên.
Bài ca Đại Du Niên:
Bài ca này rất quan trọng, cần phải học thuộc lòng thời mới sao dược ô cung, do đó mới xác định được cát hung.
- Càn Lục Thiên Ngũ Họa Tuyệt Diên Sinh.
- Khảm Ngũ Thiên Sinh Diên tuyệt Họa Lục.
- Cấn Lục Tuyệt Họa Sinh Diên Thiên Ngũ
- Chấn Diên Sinh Họa Tuyệt Ngũ Thiên Lục
- Tốn Thiên Ngũ Lục Học sinh Tuyệt Diễn
- Ly lục Ngũ tuyệt Diên Họa sinh Thiên
- Khôn Thiên Diên Tuyệt sinh họa Ngũ lục
- Loài sinh Họa Diên Tuyệt Lục Ngũ Thiền.
Trên đây là tên của các sao, sẽ nói rõ ở phần dưới. Sau đây là cách thức an sao vào tám quẻ. Ví dụ, quẻ càn, thời tìm phương vị của quẻ càn trong Bát quái in chữ càn (hay Phục vị) vào cung đó rồi đi thuận theo thứ tự Lục, Thiên, Ngũ, Họa, Tuyệt, Diên, Sinh.
- Càn là Phục vị, tức là hai sao Phụ Bật đều thuộc tính cách cát hung tùy thuộc vào Chủ tinh, Chủ hung thời chúng cũng hung. Vì thế, có tên là Phụ Bật.
- Lục là Lục sát tức là sao Văn khúc, thuộc Thủy hung tinh.
- Thiên là thiên y, tức là sao Cự môn, thuộc Thổ, cát tinh.
- Ngũ là ngũ quỷ, là sao Liêm Trinh - Hỏa – Hung tinh.
- Họa là Họa hại, là sao Lộc Tồn - Thổ - Hung tinh.
- Tuyệt là tuyệt mạng, là sao Phá Quân – Kim, Hung tinh.
- Diên là Diên Niên, là sao Vũ Khúc – Kim, Cát tinh.
- Sinh là sinh khí, là sao Tham Lang - Mộc, Cát tinh.
Đặc tính cát hung của Cửu tinh:
- Cặp sao Tham Lang, gia đạo hanh thông, sinh 5 con thông minh, có văn tài, tinh thông bách nghệ.
- Gặp sao Cự môn – Dương thổ - gia đạo hanh thông, công danh hiển đạt, giỏi về y bốc.
- Gặp sao Lộc Tồn – Âm thổ - gia đạo suy tàn, con cái bất lợi, ngành út lụn bại, ngành nhì khá.
- Gặp sao Văn Khúc - Giảm hạ Thủy – hay sinh chứng bệnh điên cuồng, người trong nhà ngỗ nghịch, ly tổ phá gia.
- Gặp sao Liêm Trinh - Hỏa – sinh được 2 con làm bại hoại cửa nhà, hung ác, làm quân lính hầu.
- Gặp sao Vũ Khúc – Dương Kim – sinh con hào tuấn phát ngành giữa, hiếu thảo, tinh thông bách nghệ.
- Gặp sao Phá Quân – Kim hay gặp chứng bệnh phù thủng vàng da, con cái yểu mạng, con gái bệnh hoạn yểu vong.
- Phụ Bật là Mộc tinh – tùy theo Chủ tinh, cát thời cát, hung thời hung.
Sự tương khắc giữa cung và Sao
- Sao Hỏa mà đóng cung Càn, Càn kim bị khắc, tổn thương ông già, các vị tôn trưởng, phụ mẫu.
- Sao Thổ mà đóng ở cung Khảm, Thủy bị khắc, có tổn thương cho trung nam và con trẻ.
- Sao Mộc đóng ở cung Cấn, Cấn Thổ bị khắc, tổn thương cho thiếu nam.
- Sao Kim đóng ở cung Chấn, Chấn Mộc bị khắc, tổn thương trưởng nam.
- Sao Kim đóng ở cung Tốn, Tốn mộc bị khắc, tổn thương trưởng nữ,
- Sao Thủy đóng ở cung Ly, Ly hỏa bị khắc, tổn thương trung nữ,
- Sao Mộc đóng ở cung Khôn, Khôn Thổ bị khắc, tổn thương lão mẫu, thiếu phụ.
- Sao Hỏa vào cung Đoài, Đoài Kim bị khắc, tổn thương thiếu nữ, ấu phụ.
Ảnh hưởng tốt xấu của cửu tinh với các ngành:
- Sao Tham Lang thời vượng con trưởng. Sao Cự môn vượng con giữa. Sao Vũ Khúc vượng con út. Sao Văn Khúc bại ngành giữa. Sao Lộc Tồn bại ngành út. Sao Phá Quân bại con trưởng.
- Xét về thời kỳ hưng bại thời dựa theo các số: Thủy: 1, Hòa: 2, Mộc: 3, Kim: 4, Thổ: 5, con số này tính theo năm, như ảnh hưởng xuất hiện trong vòng 1, 2, 3… năm.
Ảnh hưởng của các sao đối với số lượng con cái:
Sao Tham Lang vượng được 5 con, Cự môn 3, Vũ khúc 4, Liêm Trinh 2, Phụ Bật chỉ được 1 gái. Văn Khúc 1, Phá Quân tuyệt tự, Lộc Tồn thời tuổi thọ cao nhưng cô đơn.
Ảnh hưởng về âm dương:
Nếu thuần âm thời hay tật bệnh, thuần dương thời tài vượng, nhưng hiếm con cháu. Trong mà khắc ngoài thời trộm giặc không thể xâm nhập. Ngoài khắc trong thời thân thể bị tổn thương, âm mà đến cung dương thời sinh con gái trước, Dương đến cung âm thời sinh con trai (xem phần giải thích ở ngay dưới).
Cát tinh thuộc Đông Tây tứ trạch:
Âm dương hay phu phụ chính phối đều là Diên Niên (Vũ Khúc) như Càn phối Khôn, Cấn phối Đoài… Thuần âm thuần dương đều thuộc Thiên Ất (tức Thiên y Cự môn), một âm một dương đều thuộc sinh khí (Tham Lang) như Chấn gặp Tốn, Ly, Đoài.
Cát hung tinh thuộc Đông Tây tứ trạch:
Thuần âm thuần dương tương khắc là Ngũ quỷ (như Càn Kim khắc Chấn Mộc, Đoài Kim khắc Tốn Mộc) Dương khắc Âm, Âm khắc Dương, hoặc thuần dương tương sinh, thuần âm tương sinh, nếu không là tuyệt mạng tức là Lục sát.
Trên đây là cách xem Đông Tây tương hỗn.
Ảnh hưởng của Ngũ quỷ - Liêm trinh với các cung:
Sao Liêm Trinh đóng tại các cung Càn, Đoài tổn thương cho con trẻ đến 5 mạng, trong nhà không được yên lành. Đóng tại cung Khảm con thứ gặp tai ương, con trưởng và con nít yểu tử, trong nhà bệnh tật triền miên. Đóng tại cung Tốn, hay bị trộm giặc cướp bóc, tiền tài hao tán, con cái bị hỏa ách. Đóng tại cung Hỏa, những năm đầu thời ngành thứ khá giả, trưởng nam nắm giữ quyền hành, sau đó tán tài, tai họa đến. Đóng tại các cung Cấn Khôn, tổn hại lục súc, cung Khốn thời tổn thương 5 mạng, cung Cấn tổn thương 3 mạng.
Ảnh hưởng vào các năm của Sao:
- Sinh khí ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
- Diên niên ảnh hưởng tốt cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
- Thiên Ất ảnh hưởng tốt cho những năm Dần Ngọ Tuất.
- Phụ Bật ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
- Tuyệt Mạng ảnh hưởng xấu cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
- Lộc Tồn ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
- Ngũ Quỹ ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
- Lục Sát ảnh hưởng xấu cho những năm Thân Tý Thìn
Động trạch nhiên tinh và Ngũ hành
- Động trạch là nhà có nhiều phòng, nhiều ngăn, phải dùng phép ngũ hành tương sinh làm sao cho chủ phòng gặp được cát tinh như sinh khí, Thiên Ất và tránh cát hung tinh như Ngũ quỹ, Tuyệt mạng…
- Động trạch nếu không quá số lượng 5 phòng, 5 căn hoặc 5 viện thời chỉ dùng Ngũ hành của Ngũ tinh như Cự môn sinh Vũ khúc, Vũ khúc sinh Văn khúc, Văn khúc sinh Tham Lang, Tham Lang sinh Liêm Trinh, và Liêm Trinh sinh cho Cự môn… Cát tinh có thể sinh hung tinh và ngược lại.
- Biến trạch thường phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ, vì biến trạch số lượng phòng, căn, viên vượt quá 5, đến 10, vì thế cách phiên tinh của biến trạch khác động trạch. Do đó phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ. Ví dụ, phòng trước tiên là Tham Lang (Mộc), phòng thứ hai là Phụ Bật (Mộc) kế đó mới tới Liêm Trinh (Phòng 3) (Hỏa), phòng thứ tư là Lộc Tồn (Thổ), theo nguyên tắc thời trước dùng Lộc Tồn sau dùng Thiên Ất (Thổ), kế đến là Vũ Khúc (Kim) trước dùng Vũ Khúc, sau dùng Phá Quân (Kim), Phá Quân sinh Văn Khúc (Thủy), Văn Khúc sinh Phụ Bật (Mộc) trước dùng Phụ Bật, sau mới dùng Tham Lang, Cát không sinh hung, hung không sinh Cát. Nếu Biến trạch chỉ có 6 phòng thời phải trùng dụng 1 lần, 7 phòng thời phải trùng dụng 2 hai lần, 8 phòng thời trùng dụng 3 lần (Mộc, Kim hoặc Thổ) còn các phòng thứ 9, thứ 10 thời cứ việc sao này sinh sao khác như thường lệ.
- Hóa trạch là nhà gồm 11 phòng đến 15 phòng, việc khảo sát cũng giống như động trạch. Ba hành Mộc Thổ Kim đều được trùng dụng, riêng hai hành Thủy Hỏa thời đơn dụng. Vì lẽ Ngũ hành của Bát quái đều có hai Mộc, hai Thổ và hai Kim, nhưng chỉ có 1 Thủy, 1 Hỏa.
Sự ứng nghiệm của 4 hung tinh:
Văn Khúc chủ tà dâm, tự ái, Liêm Trinh chủ hỏa ách đau tim. Lộc Tồn chủ cô quả, lòa mắt. Phá Quân chủ về quan tài.
Luận về Ngũ hành và các chứng bệnh:
Muốn biết rõ chứng bệnh gì thời phải xét theo ngũ hành Kim thời là bệnh ho suyễn, lo sợ, khí huyết, máu mủ, gân cốt đau nhức. Mộc thời tứ chi suy nhược, bệnh phong, gan mật, hai bên tay chân đau đớn, co rút, mắt miệng méo lệch. Hỏa thời nhức đầu hỏa vượng, tam tiễn nóng, miệng khô ráo, hay nói sảng, thuộc về dương chủng dương hàn, đau bụng, nhọc độc, ác tật. Thủy thời hay mắc chứng hàn di tinh, bạch đới, đau lưng đau thận, thổ tả. Thổ thời liên quan đến tỳ vị, bụng chướng, phù thủng vàng da, và các chứng bệnh ôn dịch, thời khí.
- Kim Mộc tương khắc thời bị điên cuồng, hung tử
- Thủy Thổ tương khắc thời trong hay bất hòa.
- Mộc Thổ tương khắc thời tổn thương tỳ vị.
- Thủy Hỏa tương khắc thời bị lao trùng.
Phép xem Tĩnh trạch:
Khi xem tĩnh trạch thời đặt La Bàn ở giữa sân, và căng giấy chữ thập theo hướng Nam Bắc, Đông Tây, sau đó định rõ hướng của 24 sơn xem Chủ đóng ở cung nào, thuộc chữ nào, Môn thuộc cung nào, chữ nào và bếp thuộc cung nào (Nhìn vào La bàn để biết rõ cung và chữ) sau đó phối hợp Đông Tây tứ trạch mà đoán cát hung
Ví dụ: Thượng Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1864 đến 1923 tức là năm Quý Hợi.
- Trung Nguyên Giáp Tý gồm người sinh từ năm 1924 đến 1983 tức là năm Quý Hợi.
- Hạ Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1984 đến 2043 tức là năm Quý Hợi.
Trong nguyên bản có ghi là năm Giáp Tý thuộc năm Khang Hy thứ 23, là thời xa xưa, do đó dịch giả căn cứ vào dương lịch để độc giả tiện tham khảo. Nhưng cũng phải lưu ý, Tết dương lịch thường đến trước Tết âm lịch khoảng hơn một tháng, nên mặc dù sinh vào tháng 1/1924 nhưng vẫn thuộc tuổi Quý Hợi của Thượng Nguyên.
Bài Tam nguyên Mệnh Quyết là một bài thơ gồm 28 chữ, nguyên văn như sau:
- Thượng Nguyên Giáp Tý Nhất cung Khảm.
- Trung Nguyên khởi Tốn, Hạ đoài gian.
- Thượng Ngũ, Trung Nhị, Hạ Bát Nữ.
- Nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên.
Bài quyết này được coi như một công thức để tính Mạng nguyên của trạch chủ đối với phương vị của Bát quái, có thể giảng diễn như sau:
Các tuổi thuộc Thượng Nguyên Giáp Tý thời khởi từ cung Khảm thuộc số 1. Các tuổi thuộc Trung Nguyên Giáp Tý khởi từ cung Tốn tức số 4, các tuổi Hạ nguyên Giáp Tý khởi sự cung Đoài tức số 7, cách tính đi lần lượt Tý Sửu Dần Mão, tuổi gặp cung nào tức là mạng Nguyên nằm tại cung đó. Đặc biệt những con số biểu tượng trên khác hẳn với các số của tiền thiên bát quái, sau đây là biểu đồ trên bàn tay.
(1) số 5 tuy có cung nhưng không thuộc quẻ nào.
Việc tính mạng nguyên thời căn cứ theo các số đã chỉ định ở trên để khởi cung, Nam thời đi nghịch, Nữ đi thuận. Sau đây là các ví dụ:
Nam: - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi từ cung Khảm (tức cung Dần) chữ Tý năm ngay tại cung Khảm, vậy Mạng nguyên số này hợp với cung Khảm tức là thuộc Đông tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, tính nghịch (bỏ hai cung Sửu Tý) tính nghịch chuyển sang cung Hợi thuộc quẻ Ly, số 9, vậy tuổi Ất Sửu nằm tại cung Ly cũng thuộc Đông Tứ trạch.
Trên đây đểu thuộc nam mạng, Thượng nguyên.
Nữ: - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi ở số 5 (có cung nhưng không có quẻ), (sẽ giải thích sau).
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, khởi số 5 đi thuận tiếng sang số 6 tức cung Càn, vậy mạng nguyên này nằm ở cung Càn thuộc Tây Tứ trạch.
Trên đây đều thuộc Nữ mạng - Thượng nguyên - Kế đến sẽ xét các tuổi nam nữ thuộc Trung Nguyên:
Nam: - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1924, khởi tự cung Tốn tức số 4 (tại cung Tỵ), chữ Tý nằm ngay tại cung đó, vậy tuổi này hợp với cung Tốn thuộc Đông tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Tốn đi nghịch về cung Thìn thuộc cung Chấn số 3. Mạng này hợp với cung Chấn.
Nữ: - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1924, khởi tự cung Khôn, tức số 2 chữ Tý đóng tại cung này, vậy mạng nguyên hợp với cung Khôn thuộc Tây tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Khôn đi thuận, đến cung Thìn thuộc quẻ Chấn số 3.
Trên đây là nữ mạng, thuộc Trung Nguyên. Kế đến là các tuổi Hạ Nguyên nam và nữ.
Nam: - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Đoài, số 7, chữ Tý nằm ngay tại đây, vậy mạng này hợp với cung Đoài thuộc Tây tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1985, khởi tự cung Đoài đi nghịch về số 6 tức cung Dần.
Nữ: - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Cấn tức số 8, chữ Tý nằm ngay tại cung Cấn, vậy mạng này hợp với cung Càn thuộc Đông Tứ trạch.
Đây là biến cố Cửu cung, Bát quái, tất cả có 9 cung nhưng chỉ có 8 quẻ, do đó khuyết một quẻ là số 5, vậy khi tính thuận nghịch mà đến đường số 5, thời đàn ông lấy số 2, đàn bà lấy số 8 để thay thế. Đó là áp dụng câu thơ: Nam Ngũ Ký Nhị, Nữ ký Bát.
Tam nguyên mệnh quyết đã được trình bày như trên để tìm mạng nguyên của trạch chủ hợp với phương hướng. Nhưng cách này hơi chậm vì gặp những tuổi Nhâm Tuất hay Quý Hợi thời phải đi hết 5 vòng là 60 tuổi mới tới, dễ bị lầm lẫn và mất thì giờ. Vậy có một biện pháp (phép tính nhanh) để tính cho mau và đỡ sai lầm. Căn bản của phép này dựa vào Lục giáp: xin lấy Trung nguyên Giáp Tý làm ví dụ, vì Trung Nguyên thường gặp hơn là Thượng nguyên và Hạ nguyên so với thế hệ của ta hiện nay.
- Con nhà Giáp Tý khởi tại Tốn đi nghịch đến tuổi Quý Dậu – tính chữ Tý tại cung Tốn - đến năm sinh.
- Con nhà Giáp Tuất khởi tại cung Chấn đến tuổi Quý Mùi – tính chữ Tuất tại cung Chấn đến năm sinh.
… vẫn theo nguyên tắc nam nghịch nữ thuận như bài quyết đã nói rõ.
Ví dụ tuổi Quý Mùi thuộc con nhà Giáp Tuất, lấy chữ Tuất để vào cung Chấn (Thìn) chữ Hợi để vào cung Khôn (Mão) và sẽ đến chữ Mùi tức là mạng đến cung Chấn số 3 (khi đếm đến cung Dần thời nhớ bỏ qua 2 cung Sửu, Tý, tiến ngay sang cung Hợi. Cách tính tương đối phức tạp. Dịch giả sẽ làm một bản lập thành bổ túc ở phần cuối cùng).
Phương pháp khảo sát về Nha thự:
Nha thự và công đường là nơi công sớ để giải quyết mọi việc cho dân, thi hành chính lệnh và pháp lệnh, do đó cần có phương hướng thích hợp, sáng sủa không sai phạm vào các lỗi lầm như Đông Tây, hỗn loạn, Môn chủ tượng khác… thời việc thi hành pháp lệnh mới được dễ dàng, dân chúng thuận tòng.
Xét về Nha Thự, công sớ thời phải lấy đại đường làm chủ, nơi này cần nhất là được cao ráo sáng sủa, khoáng đạt. Về phương vị, cần gặp các cát tinh như Tham Lang, Diên Niên, Thiên Ất. Được vậy thời vị chỉ huy sẽ giải quyết mọi việc sáng suốt, phân xử công minh. Thứ đến là phải xét đến đại môn tức là cổng ra vào nơi công đường, cần nhất phương vị phải tương sinh với đại đường. Được vậy, dân chúng trong vùng hiền hòa, đôn hậu, sống lượng thiện, biết tôn trọng pháp luật và những viên chức đại diện cho chính quyền. Xét về Nha thự, tất phải xét đến bếp trước, vì nơi đây được coi là Lộc vị. Nếu bếp được hướng tốt, thời công danh mau tiến. Bếp gặp hung sát thời hay sinh mọi chuyện rắc rối phiền phức. Tóm lại, muốn được công danh thuận lợi phải được cả 3 trọng điểm Môn - Chủ - Táo ở phương vị tốt và tương sinh hoặc tỵ hòa mới coi là đại cát.
Sau đây là những đặc điểm cần chú ý khi khảo sát:
- Nếu viện được coi là Tĩnh trạch thời cứ việc áp dụng bài ca Du niên mà tìm phương vị tốt xấu. Nếu là Đông trạch gồm 2, 3, 4 đến 5 phòng, nên áp dụng theo Đông trạch, dùng đơn kim đơn mộc, xảo phiên bát quái. Nếu thuộc về Biến trạch, có từ 6 đến 10 phòng phải dùng song kim song mộc hoặc song thổ vẫn ứng dụng xảo phiền Bát quái, Hóa trạch có từ 11 đến 15 phòng cũng áp dụng theo cách đó.
- Đại đường hay công đường cần phải xây cất trên nền cao, ngay thẳng, rộng lớn, sáng sủa. Như vậy, người chỉ huy sẽ sáng suốt, làm việc theo lương tâm, xử đoán công minh. Rất kỵ ở hai bên hông mở cửa thông ra ngoài, cách này gọi là “Tứ thú trương khẩu”, trong vùng thường xảy ra án mạng, nhiều chuyện vu cáo lôi thôi. Ngoài ra, hai phía trước và sau không nên xây cất thêm phòng nhỏ, cách này gọi là “Nhị quỷ đài kiện”, người chỉ huy hay bị chuyện dèm pha màng lụy, kẻ phục địch thời phản trắc.
- Ở các nơi đại môn, Nghi môn (qua đại môn tới nghi môn kể từ ngoài đi vào) và nơi hoãn cách (nghỉ ngơi) rất kỵ dựng bia đá, vì hay gặp khẩu thiệt thị phi, kiện tụng, kháng tỗ… Vì dựng bia đá hai bên khi nhìn giống như hai răng nanh của hổ.
Trái lại, trước công đường, dựng bia ở hai bên, đối lập với nhau thời đó lại là điều tốt, ví như tay trái, tay phải đều cầm, hốt ngà, biểu tượng sự trung nghĩa và cầm quyền lớn. Nếu đặt bia ở 2 bên đầu cổng vào ở 2 phía đông tây cũng rất tốt, thường có những bậc danh nho, cao sĩ trị dân, trên dưới hòa mục. Ở nơi Nghi môn, nếu dựng bia, thời sinh ra những kẻ sĩ điên ác.
- Phía trước đại đường nên rộng rãi vuông vắn thuộc hình thổ hay kim, thời dân gian no ấm, kẻ sĩ thuần lương. Nếu có những đống đá gạch hoặc cây cối um tùm che khuất, ngăn trở, thời hay sinh những kẻ xúi dục, kiện tụng, mọi việc không tốt. Nếu trước công đường mà có khoảng đất vừa hẹp vừa dài giống như đầu rắn cổ vịt, thời nhân dân cũng khổ. Ngoài cửa Nghi môn cũng cần được rộng rãi, vuông vắn, không nên nhỏ hẹp như đầu rắn, cổ vịt.
- Có 3 nơi biểu tượng uy quyền là Đại đường, Nghi môn và Đại môn, nơi đây xuất pháp chính lệnh, cần nhất phải oai nghiêm, sáng sủa, đẹp đẽ, vuông vắn. Nếu một trong 3 trọng điểm trên bị lệch lạch, phá khuyết thời làm quan phải phá tài, làm dân thời cùng khổ.
- Trước đại môn cũng cần được rộng rãi, khoáng đạt, thời vị quan tướng mới được công danh thuận lợi, và những kẻ phục dịch thuộc cấp mới hết lòng làm việc. Nếu thấp nhỏ, méo lệch, phá khuyết thời nha dịch cùng khổ hay làm bậy, dân chúng nghèo đói hoang tàn.
- Trước công đường cho đến đầu cổng, ở phương Đoài, không nên đặt Hỏa lò, đá mài và các vật dụng có hình thức dữ dằn. Phòng ốc không nên để vỡ nát, nghiêng lệch hoặc có đường đi trực xạ. Ngoài ra cũng rất kỵ những nhà cửa của dân gian xây cất quá cao án ngữ ngay đại môn.
- Trước đại môn, hai bên có thư phòng của Nha lại làm việc cũng cần ngay ngắn, cửa lớn cửa nhỏ đều phải chỉnh tề. Về kiểu mẫu tổng quát, trước công đường cần khá rộng, như vậy sẽ có những bực trung thần nghĩa sĩ, dân chúng hiền lương, cuộc sống phú túc.
- Tại Nghi môn cũng cần trước hẹp sau rộng giống thế hình, tường cao ráo. Nha dịch giỏi, có khả năng.
- Sau đại đường là Nhị đường, tam đường, Nội viên… đều cần trước hẹp sau rộng mới đúng cách. Hai bên là thư viện phòng khách cũng cần trước hẹp sau rộng đều chủ phát phúc lâu dài. Nếu đặt bếp trà (nơi pha trà) ở các phương vị gặp Tham Lang Diên Niên hay Thiên Ất cũng ít tốt, sinh con hiền cháu thảo. Nếu an tại các phương, Ngũ quỷ thời kẻ tôi tớ hầu hạ sinh ra gian trá, trộm cắp, bỏ trốn.
- Phòng khách cần sáng sủa, ngay thẳng, cửa mở theo chính diện tốt. Nếu mở cửa thông hai bên hoặc ở góc gọi là “Tứ thú trương khẩu”, thời hay gặp những vụ án tìm không ranh manh mối, dân chúng kháng cáo, khẩu thiệt thị phi.
- Nhị đường, tam đường cũng phải ngay ngắn, sáng sủa, bếp phải đặt ở phường sinh khí, Diên Niên hoặc Thiên Ất mới có lộc, vợ nội trợ đảm đang. Nếu trong viện có gạch ngói chồng chất bừa bải thời trong nhà hay có người đau mắt, chết trẻ gỗ thời hay sinh khẩu thiệt.
- Tại Nha thự, đại môn và Nghi môn, nếu có tường hai bên phải ngang với cổng, không nên quá thấp. Nếu quá thấp gọi là “Lậu kiên” quan dân nha địch đều cùng khổ, nếu méo lệch, thời hay bất hòa với cấp trên, nha dịch tác tệ, hay xảy án mạng.
- Chuồng ngựa ở trong Nha thự (văn thự hay võ thự) cũng phải an ở các phương Sinh khí, Diên Niên, Thiên Ất thời ngựa mới khỏe mạnh, mập mạp, đó là cách “Dịch mã thôi quan”, thăng chức mau chóng. Nếu đặt ở phương ngũ quỷ thời ngựa ốm yểu chết chóc, hoặc thất lạc. Công văn cũng hay thất thoát.
- Địa thế của Nhạ Sớ cũng cần ngay thẳng rộng rãi, trước hẹp sau rộng. Đó là cách “khẩu khẩu nha thự” vào nhiều mà ra ít, quan dân đều phú túc.
- Nha thự được xây cất Tý Sơn Ngọ hướng, Nhân Sơn Bính hướng, Quý Sơn Đinh hướng, thời không nên đặt bếp ở phía đông bắc (Cấn Thổ) như vậy người giúp việc thường hay trộm cắp hay đào tẩu, tỳ thiếp hay làm chuyện dâm bôn, Quan hay sợ vợ, dân thời ưa kiện cáo, những chuyện này xảy ra là do lỗi lầm cách khai môn và an táo. Nha thự nằm phương khảm, cửa mở phương ly, đặt bếp tại cung cấn, thời thiếp bất phục thế, phụ nữ gây chuyện ồn ào. Nếu Nha thự ở phương Khảm, bếp đặt ở phương Tốn, đối nội, vợ hiền đức, tỳ thiếp đúng đắn. Đối ngoại, Nha dịch trung thành, thượng cấp vui vẻ.
1. Lớp ngoài cùng là Phá Quân Kim.
2. Lớp thứ nhì là Văn Khúc Thủy.
3. Lớp thứ 3 là Sinh khí Mộc, cao lớn.
4. Lớp 4 là Ngũ quỷ, Hỏa, thấp.
5. Lớp 5, Cự Môn, Thổ.
Hình B: Đoài Chủ, Chấn Môn, Khôn Táo, 5 lớp, ám sát Nha thự.
Nếu luận về Môn, Chủ, Táo thời thự này không tốt. Nếu luận về tứ chính phiên Kim, thời lớp thứ 5 là Cự môn thổ đến cung Đoài được cung và sao tương sinh, như vậy là cát tinh, đắc vị, hung sát phải thoái phục, lại được chủ táo tương sinh, chủ về sơ vận, thăng quan tiến chức. Nhưng để lâu thời Môn, Chủ, Táo khắc chế lẫn nhau nên trong nhà vợ chồng con cái hay bất hòa, hay sinh chứng đau bụng, ăn không tiêu… Như vậy phải mở cửa theo hướng Càn mới được yên lành. Nói chung, Nha thự phạm vào Áp sát thời tiền cát hậu hung nên cẩn thận.
I. Càn
1) Bàn môn đàn chú: càn càn thuần dương thương phụ nữ, cách này đều thuộc thuần dương Phục vị, sơ vận phát phúc, nhưng thuần dương, bất hóa, dương thịnh âm suy, nếu để lâu phụ nữ yểu vong, cô quả, tuyệt tự.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, kim bị tiết khí, lúc đầu được tương sinh tốt, lâu thời tán tài, cờ bạc, dâm đãng, tổn thương thê tử, ho suyễn.
Cấn là Thiên Ất Táo Thổ, tương sinh với Kim, lúc đầu phú quý song toàn, sinh 3 con, lâu năm thời tổn thương phụ nữ, ít con, phải cưới thiếp, vì phạm thuần dương.
Chấn táo phạm Ngũ quỷ, bất lợi con trưởng, hay bị kiện cáo, hại người hại của, hung tứ, trộm cắp.
Tốn táo thuộc Lộc tồn Thổ tinh, tương khắc với Môn, tương sinh với Cung, lúc đầu tiểu cát, sau thời phụ nữ đoản thọ, đau lưng, đùi, bụng
Ly Táo là Hỏa Kim tương khắc, âm thịnh dương suy, nhiều gái ít trai của con không vượng, lâu dần hay có quả phụ. Đau mắt, nhức đầu, ác tật, đàn bà lăng loàn không con.
Khôn Táo là Diên Niên, Thổ Kim tương sinh, phu phụ chính phối, sinh 4 con, phúc lộc thọ hoàn toàn.
Đoài Táo tức sinh khí, tỵ hòa với Môn và Chủ, lúc đầu phát tài phát định, lâu ngày phải trùng phú thê thiếp, đàn bà góa bụa, thuộc hạng thứ cát.
Càn táo cùng tụ hòa với Môn chủ, tam dương đồng cư, sơ vận phát phúc, lâu thời hình thê khắc tử.
2) Càn Môn Khảm chủ: Thiên Môn lạc thủy xuất dâm cuồng:
Cách này có tên là Lục Sát, Hung, sơ vận dù có phát tài sau sẽ hình thê khắc tử, góa bụa không con, bại sản.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo thuộc Thủy, Kim bị tiết khí, Chủ về tán tài tuyệt tự.
Cấn táo tương sinh với Môn là Thiên y, sinh được 3 con nhưng lại tương khắc với chủ, phạm vào Ngũ quỷ khó nuôi con, trai giữa đoản thọ, tuyệt tự, hay mắc các bệnh đau bụng, khí trướng, sưng lá lách.
Chấn táo đối với Chú là Thiên Y, đối với Môn là Ngũ quỷ, lại thuộc dương, sơ vận khá, nhưng sau đại hung.
Tốn táo đối với Môn là Họa hại, với chủ là sinh khí, sơ vận Đinh tài đều phát, sau hay mang bệnh đau nhức gân xương, phụ nữ đoản thọ.
Ly táo là Hỏa kim tương khắc, nam nữ đoản thọ, nữa kiết nữa hung.
Khôn táo, Đinh tài đều vượng, nhưng Khảm chủ bị khắc, tổn thương trung nam, góa bụa, ngành thứ tuyệt tự.
Đoài Táo, đông con, đàn bà yểu mạng, lâu ngày sinh ra góa bụa, dâm đãng.
Càn Táo tỵ hòa với Môn, đối với chủ là Lục sát, đoán theo cách Thiên Môn lạc thủy nói trên.
3) Càn Môn Cấn chú: Thiên lâm sơn thượng gia phú quý:
Cách này gọi là Thiên Ất trạch, là phúc thần sinh 3 con nhiều ruộng đất, trong nhà trọng tín ngưỡng, sơ niên giàu có, đông con nhiều của, trai gái hiền lương, nhưng thuần dương bất hóa, lâu năm sẽ khắc vợ hại con, cô quả.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, thổ khắc thủy, kim bị tiết khí, hay đau bụng, lá lách, hư lao, trẻ con khó nuôi, nam nữ yểu vong, trùng hôn, ma quỷ quấy phá.
Cấn táo tương sinh với Môn, tỵ hòa với Chủ, điền sản hưng vượng, nhưng tổn thương con gái, hiếm con vì thuần dương.
Chấn táo phạm Ngũ quỷ tương khắc với Môn và Chủ, tuyệt tự, mắc bệnh phù thủng vàng da, bệnh tỳ, đại hung.
Tốn táo, Kim, Mộc, Thổ cả 3 tương khắc, đau gân cốt, khắc vợ hại con, bệnh về sinh sản, bệnh phong.
Ly táo đàn bà hung dữ, chồng sợ vợ, tuyệt tự, bệnh mắt.
Khốn táo là Diên Niên sinh khí, đại cát.
Đoài táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với chủ, đại cát.
Càn táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với Chủ, sơ niên phát phúc, sau thương thê khắc tử, tuyệt tự, góa bụa, vì là cách thuần dương.
4) Càn môn chấn chủ: Quỷ nhập Lôi môn thương trưởng tử:
Cách này gọi là Ngũ quỷ trạch, ngoài khắc trong tai họa mau chóng, kiện tụng khẩu thiệt, hỏa tai, đạo tặc, thường ứng vào số 4, 5, ma quỷ quấy phá, nam nữ yểu chiết, đau bụng, điền sản hao tán, lục súc tổn thương, cha con bất hòa, ngành trưởng tuyệt tự sau đến các ngành khác, đại hung.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, sơ niên tốt, lâu thời hao người tốn của.
Cấn táo phát tài không phát định, con nít hay đau ốm.
Chấn táo là tam dương đồng cự, phạm vào Ngũ quỷ đại hung
Tốn táo phụ nữ đoản thọ, đau nhức gân cốt, truỵ thai, chết về thai sản.
Ly táo Hỏa kim tương khắc, đàn ông yểu thọ.
Khôn táo tương sinh với Môn, tương khắc với Chủ, nữa kiết nữa hung.
Đoài táo tỵ hỏa với Môn, tương khắc với Chủ.
Càn táo là tam dương đồng cư, hai Kim khắc Mộc tất là tuyệt diệt, đại hung.
5) Càn môn Tốn chủ: Càn tốn sản vong tâm thoái thống:
Cách này gọi là Họa Hại Trạch, sơ niên may mắn được phát tài nhưng sau đàn bà chết sớm, hay bị trộm giặc, kiện tụng.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo không khắc với môn và chủ, sơ niên phát tài Đinh, về lâu không được vượng.
Cấn táo tương sinh với Môn, tương khắc với Chủ, tuyệt tự, không tốt.
Chấn táo có tên là Ngũ quỷ, đại hung.
Tốn táo thời phụ nữ đoản thọ.
Ly táo phụ nữ chuyên quyền, đàn ông đoản thọ.
Khôn táo lão mẫu bị yểu vong.
Đoài thọ nam nữ đều đoản thọ.
Càn táo tỵ hòa với Môn tương khắc với Chủ, thương thê khắc tử.
6) Càn Môn Ly Chủ: Càn Ly của cư sinh nhân tật:
Cách này gọi là Tuyệt mạng Trạch, ông già bị lao tật, đoản thọ, hoa mắt nhức đầu, xung độc, tán tài, trộm giặc, góa bụa, tuyệt tự.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo tán tài, khắc thê, dâm đãng.
Cấn táo, con cháu hiền lương, phụ nữ hung dữ.
Chấn là Ngũ quỷ táo, đại hung.
Tốn là Họa hại táo, vợ lớn bị khắc, trụy thai, chết yểu vì thai sản.
Ly táo tương khắc với Môn, hung.
Chấn táo tương sinh với Môn, nữa cát nữa hung.
Đoài táo tụ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, hung.
Càn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với chủ, không tốt.
7) Càn môn Khôn chủ: Thiên môn đáo địa chủ vinh hoa:
Cách này gọi là Diên Niên trạch, Thổ kim tương sinh, phu phụ chính phối, sao và cung tương sinh, được 4 con, cả nhà hòa mỹ, con thảo cháu hiền, phú quý, sống lâu, Vì Diên Niên đắc vị nên gặp phúc hỷ.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo bị khó khăn, trung nam đoản mạng, đau bụng không tốt.
Cấn táo tương sinh với Môn, nam nữ hiền lương, đại cát.
Chấn táo tương khắc với Môn và Chủ, đại hung.
Tốn táo tương khắc với Môn (Kim khắc Mộc) và tương khắc với chủ (Mộc khắc Thổ), những bậc lão mẫu, trương phụ bị tổn thọ.
Ly táo Hỏa, Kim tương khắc, hung.
Khôn táo đại cát.
Đoài táo đối với Mộc là sinh khí, với Chủ là Thiên Ất, đại cát.
Càn táo tương sinh với Môn và Chủ, đại cát.
8) Càn Môn Đoài chủ: Thiên trạch tài vương đa dâm loạn:
Cách này gọi là sinh khí trạch. Lão ông và thiếu nữ tương phối, sơ niên phát phú phát quý, có con và sống lâu. Lâu ngày sẽ trùng thú thê thiếp, đàn bà góa coi nhà, thứ cát.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, thủy tiết kim khí, tuy sinh mà không sinh, tán tài, tuyệt tự, khắc thê, dâm đãng.
Cấn là Thiên Ất táo, đại cát.
Chấn là Ngũ quỷ táo, đại hung.
Tốn táo là họa hại, phụ nữ sản vong, đau nhức xương cốt.
Ly táo là Hỏa kim tương khắc, trai gái đoản thọ, tán tài, đại hung.
Khôn táo đại hung
Đoài táo tỵ hòa với môn, đại cát.
Càn táo dương nhiều âm ít, phụ nữ yểu vong, ở góa, dâm đãng thứ cát.
- Môn là cổng chính để ra vào, ở thôn quê đất rộng người thưa thường nhà ở và cổng ngõ riêng biệt.
- Chủ là căn nhà tọa lạc: là nơi mình ăn ở sinh sống hàng ngày.
- Táo là bếp nước, nơi sửa soạn thức ăn, thức uống.
Cả 3 điểm nêu trên đều có mối tương quan mật thiết không thể tách rời. Phương pháp khảo sát phải theo một quá trình nhất định:
Trước hết phải xem cổng lớn (đại môn), kế đến là chủ phòng, sau hết là bếp. Nhà thường có một cổng chính ra vào: một bếp để nấu nướng, việc khảo sát có phần dễ dàng. Những nhà ở có nhiều căn nhiều phòng, tất phải chọn một nơi làm chuẩn. Vậy phải chọn căn hoặc phòng nào cao lớn nhất làm chủ vị.
Theo lý thuyết âm dương và ngũ hành thời Môn và chủ tương sinh là cát, tương khắc là hung. Nói về bếp nước, nơi đây là nguồn gốc nuôi dưỡng con người, không thể coi thường. Do đó, bếp cần được tương sinh với Môn, sau là tương sinh với Chủ. Tuy nhiên, nếu chỉ quan sát bếp nước mà bỏ qua Môn và Chủ thời đó lại là điều sai lầm đáng tiếc. Vậy thì Môn - Chủ - Táo phải được tương sinh theo thể liên hoàn và rất kỵ tương khắc. Ngoài ra, rất cần hợp với Mạng nguyên của Trạch chú, nếu hội đủ những điều kiện trên thời nhà thịnh vượng, phúc thọ song toàn.
Vậy muốn nắm vững được bí quyết, cần phải hiểu rõ sinh khắc của ngũ hành, sự phối hợp về âm dương, thuộc lòng bài ca Du Niên. Được vậy là đã nắm được những yếu tố cơ bản của môn Bát trạch, kế đó cần tham khảo thêm những tài liệu sau đây:
Vô cực đồ - Thái cực đồ - Lưỡng nghi đồ - Thứ tự bát quái của Vua Văn Vương – Hà Đồ - Lạc thư.
Bát quái với Ngũ hành:
- Càn | là | cha | – Phương Tây Bắc | - thuộc Kim. |
- Khôn | là | mẹ | - Phương Tây Nam | - thuộc Thổ. |
- Cấn | là | Thiếu nam | – Phương Đông Bắc | - thuộc Thổ. |
- Đoài | ---- | Thiếu nữ | - Phương Chính Tây | - thuộc Kim. |
- Khảm | ---- | Trung nam | – Phương Chính Bắc | - thuộc Thủy. |
- Ly | ---- | Trung nữ | - Phương Chính Nam | - thuộc Hỏa. |
- Chấn | ---- | Trưởng Nam | – Phương Chính Đông | - thuộc Mộc. |
- Tốn | ---- | Trưởng Nữ | - Phương Đông Nam | - thuộc Mộc. |
- Cấn phối Đoài
- Khảm phối Ly
- Tốn phối Chấn
Ngũ hành tương sinh về tương khắc:
- Kim sinh Thủy Mộc Hỏa Thổ Kim
- Kim khắc Mộc Thổ Thủy Hỏa Kim
Tây tứ trạch và Đông tứ trạch:
- Tây tứ trạch : Càn – Khôn - Cấn – Đoài
- Đông tứ trạch : Khảm – Ly - Chấn - Tốn
Đông Tây tứ trạch rất kỵ hỗn loạn:
Đông Tây tứ trạch cần phải phân biệt rõ ràng, không được hỗn loạn. Ví dụ: Môn và Táo thuộc Tây tứ trạch mà Chủ lại thuộc Đông tứ trạch. Khi đã có sự hỗn loạn thời đương nhiên có sự tương khắc, nếu không gặp Kim khắc Mộc thời Mộc khắc Thổ, xét về sau, nếu không phạm Lục Sát, Họa hại thời, gặp Ngũ quỷ tuyệt mạng, đó đều là hung triệu. Theo kinh nghiệm của soạn giả, những nhà phú quý lâu dài không bao giờ phạm vào sự hỗn loạn kể trên.
Bài ca Đại Du Niên:
Bài ca này rất quan trọng, cần phải học thuộc lòng thời mới sao dược ô cung, do đó mới xác định được cát hung.
- Càn Lục Thiên Ngũ Họa Tuyệt Diên Sinh.
- Khảm Ngũ Thiên Sinh Diên tuyệt Họa Lục.
- Cấn Lục Tuyệt Họa Sinh Diên Thiên Ngũ
- Chấn Diên Sinh Họa Tuyệt Ngũ Thiên Lục
- Tốn Thiên Ngũ Lục Học sinh Tuyệt Diễn
- Ly lục Ngũ tuyệt Diên Họa sinh Thiên
- Khôn Thiên Diên Tuyệt sinh họa Ngũ lục
- Loài sinh Họa Diên Tuyệt Lục Ngũ Thiền.
Trên đây là tên của các sao, sẽ nói rõ ở phần dưới. Sau đây là cách thức an sao vào tám quẻ. Ví dụ, quẻ càn, thời tìm phương vị của quẻ càn trong Bát quái in chữ càn (hay Phục vị) vào cung đó rồi đi thuận theo thứ tự Lục, Thiên, Ngũ, Họa, Tuyệt, Diên, Sinh.
- Càn là Phục vị, tức là hai sao Phụ Bật đều thuộc tính cách cát hung tùy thuộc vào Chủ tinh, Chủ hung thời chúng cũng hung. Vì thế, có tên là Phụ Bật.
- Lục là Lục sát tức là sao Văn khúc, thuộc Thủy hung tinh.
- Thiên là thiên y, tức là sao Cự môn, thuộc Thổ, cát tinh.
- Ngũ là ngũ quỷ, là sao Liêm Trinh - Hỏa – Hung tinh.
- Họa là Họa hại, là sao Lộc Tồn - Thổ - Hung tinh.
- Tuyệt là tuyệt mạng, là sao Phá Quân – Kim, Hung tinh.
- Diên là Diên Niên, là sao Vũ Khúc – Kim, Cát tinh.
- Sinh là sinh khí, là sao Tham Lang - Mộc, Cát tinh.
Đặc tính cát hung của Cửu tinh:
- Cặp sao Tham Lang, gia đạo hanh thông, sinh 5 con thông minh, có văn tài, tinh thông bách nghệ.
- Gặp sao Cự môn – Dương thổ - gia đạo hanh thông, công danh hiển đạt, giỏi về y bốc.
- Gặp sao Lộc Tồn – Âm thổ - gia đạo suy tàn, con cái bất lợi, ngành út lụn bại, ngành nhì khá.
- Gặp sao Văn Khúc - Giảm hạ Thủy – hay sinh chứng bệnh điên cuồng, người trong nhà ngỗ nghịch, ly tổ phá gia.
- Gặp sao Liêm Trinh - Hỏa – sinh được 2 con làm bại hoại cửa nhà, hung ác, làm quân lính hầu.
- Gặp sao Vũ Khúc – Dương Kim – sinh con hào tuấn phát ngành giữa, hiếu thảo, tinh thông bách nghệ.
- Gặp sao Phá Quân – Kim hay gặp chứng bệnh phù thủng vàng da, con cái yểu mạng, con gái bệnh hoạn yểu vong.
- Phụ Bật là Mộc tinh – tùy theo Chủ tinh, cát thời cát, hung thời hung.
Sự tương khắc giữa cung và Sao
- Sao Hỏa mà đóng cung Càn, Càn kim bị khắc, tổn thương ông già, các vị tôn trưởng, phụ mẫu.
- Sao Thổ mà đóng ở cung Khảm, Thủy bị khắc, có tổn thương cho trung nam và con trẻ.
- Sao Mộc đóng ở cung Cấn, Cấn Thổ bị khắc, tổn thương cho thiếu nam.
- Sao Kim đóng ở cung Chấn, Chấn Mộc bị khắc, tổn thương trưởng nam.
- Sao Kim đóng ở cung Tốn, Tốn mộc bị khắc, tổn thương trưởng nữ,
- Sao Thủy đóng ở cung Ly, Ly hỏa bị khắc, tổn thương trung nữ,
- Sao Mộc đóng ở cung Khôn, Khôn Thổ bị khắc, tổn thương lão mẫu, thiếu phụ.
- Sao Hỏa vào cung Đoài, Đoài Kim bị khắc, tổn thương thiếu nữ, ấu phụ.
Ảnh hưởng tốt xấu của cửu tinh với các ngành:
- Sao Tham Lang thời vượng con trưởng. Sao Cự môn vượng con giữa. Sao Vũ Khúc vượng con út. Sao Văn Khúc bại ngành giữa. Sao Lộc Tồn bại ngành út. Sao Phá Quân bại con trưởng.
- Xét về thời kỳ hưng bại thời dựa theo các số: Thủy: 1, Hòa: 2, Mộc: 3, Kim: 4, Thổ: 5, con số này tính theo năm, như ảnh hưởng xuất hiện trong vòng 1, 2, 3… năm.
Ảnh hưởng của các sao đối với số lượng con cái:
Sao Tham Lang vượng được 5 con, Cự môn 3, Vũ khúc 4, Liêm Trinh 2, Phụ Bật chỉ được 1 gái. Văn Khúc 1, Phá Quân tuyệt tự, Lộc Tồn thời tuổi thọ cao nhưng cô đơn.
Ảnh hưởng về âm dương:
Nếu thuần âm thời hay tật bệnh, thuần dương thời tài vượng, nhưng hiếm con cháu. Trong mà khắc ngoài thời trộm giặc không thể xâm nhập. Ngoài khắc trong thời thân thể bị tổn thương, âm mà đến cung dương thời sinh con gái trước, Dương đến cung âm thời sinh con trai (xem phần giải thích ở ngay dưới).
Cát tinh thuộc Đông Tây tứ trạch:
Âm dương hay phu phụ chính phối đều là Diên Niên (Vũ Khúc) như Càn phối Khôn, Cấn phối Đoài… Thuần âm thuần dương đều thuộc Thiên Ất (tức Thiên y Cự môn), một âm một dương đều thuộc sinh khí (Tham Lang) như Chấn gặp Tốn, Ly, Đoài.
Cát hung tinh thuộc Đông Tây tứ trạch:
Thuần âm thuần dương tương khắc là Ngũ quỷ (như Càn Kim khắc Chấn Mộc, Đoài Kim khắc Tốn Mộc) Dương khắc Âm, Âm khắc Dương, hoặc thuần dương tương sinh, thuần âm tương sinh, nếu không là tuyệt mạng tức là Lục sát.
Trên đây là cách xem Đông Tây tương hỗn.
Ảnh hưởng của Ngũ quỷ - Liêm trinh với các cung:
Sao Liêm Trinh đóng tại các cung Càn, Đoài tổn thương cho con trẻ đến 5 mạng, trong nhà không được yên lành. Đóng tại cung Khảm con thứ gặp tai ương, con trưởng và con nít yểu tử, trong nhà bệnh tật triền miên. Đóng tại cung Tốn, hay bị trộm giặc cướp bóc, tiền tài hao tán, con cái bị hỏa ách. Đóng tại cung Hỏa, những năm đầu thời ngành thứ khá giả, trưởng nam nắm giữ quyền hành, sau đó tán tài, tai họa đến. Đóng tại các cung Cấn Khôn, tổn hại lục súc, cung Khốn thời tổn thương 5 mạng, cung Cấn tổn thương 3 mạng.
Ảnh hưởng vào các năm của Sao:
- Sinh khí ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
- Diên niên ảnh hưởng tốt cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
- Thiên Ất ảnh hưởng tốt cho những năm Dần Ngọ Tuất.
- Phụ Bật ảnh hưởng tốt cho những năm Hợi Mão Mùi.
- Tuyệt Mạng ảnh hưởng xấu cho những năm Tỵ Dậu Sửu.
- Lộc Tồn ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
- Ngũ Quỹ ảnh hưởng xấu cho những năm Dần Ngọ Tuất
- Lục Sát ảnh hưởng xấu cho những năm Thân Tý Thìn
Động trạch nhiên tinh và Ngũ hành
- Động trạch là nhà có nhiều phòng, nhiều ngăn, phải dùng phép ngũ hành tương sinh làm sao cho chủ phòng gặp được cát tinh như sinh khí, Thiên Ất và tránh cát hung tinh như Ngũ quỹ, Tuyệt mạng…
- Động trạch nếu không quá số lượng 5 phòng, 5 căn hoặc 5 viện thời chỉ dùng Ngũ hành của Ngũ tinh như Cự môn sinh Vũ khúc, Vũ khúc sinh Văn khúc, Văn khúc sinh Tham Lang, Tham Lang sinh Liêm Trinh, và Liêm Trinh sinh cho Cự môn… Cát tinh có thể sinh hung tinh và ngược lại.
- Biến trạch thường phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ, vì biến trạch số lượng phòng, căn, viên vượt quá 5, đến 10, vì thế cách phiên tinh của biến trạch khác động trạch. Do đó phải dùng hai Kim, hai Mộc hoặc hai Thổ. Ví dụ, phòng trước tiên là Tham Lang (Mộc), phòng thứ hai là Phụ Bật (Mộc) kế đó mới tới Liêm Trinh (Phòng 3) (Hỏa), phòng thứ tư là Lộc Tồn (Thổ), theo nguyên tắc thời trước dùng Lộc Tồn sau dùng Thiên Ất (Thổ), kế đến là Vũ Khúc (Kim) trước dùng Vũ Khúc, sau dùng Phá Quân (Kim), Phá Quân sinh Văn Khúc (Thủy), Văn Khúc sinh Phụ Bật (Mộc) trước dùng Phụ Bật, sau mới dùng Tham Lang, Cát không sinh hung, hung không sinh Cát. Nếu Biến trạch chỉ có 6 phòng thời phải trùng dụng 1 lần, 7 phòng thời phải trùng dụng 2 hai lần, 8 phòng thời trùng dụng 3 lần (Mộc, Kim hoặc Thổ) còn các phòng thứ 9, thứ 10 thời cứ việc sao này sinh sao khác như thường lệ.
- Hóa trạch là nhà gồm 11 phòng đến 15 phòng, việc khảo sát cũng giống như động trạch. Ba hành Mộc Thổ Kim đều được trùng dụng, riêng hai hành Thủy Hỏa thời đơn dụng. Vì lẽ Ngũ hành của Bát quái đều có hai Mộc, hai Thổ và hai Kim, nhưng chỉ có 1 Thủy, 1 Hỏa.
Sự ứng nghiệm của 4 hung tinh:
Văn Khúc chủ tà dâm, tự ái, Liêm Trinh chủ hỏa ách đau tim. Lộc Tồn chủ cô quả, lòa mắt. Phá Quân chủ về quan tài.
Luận về Ngũ hành và các chứng bệnh:
Muốn biết rõ chứng bệnh gì thời phải xét theo ngũ hành Kim thời là bệnh ho suyễn, lo sợ, khí huyết, máu mủ, gân cốt đau nhức. Mộc thời tứ chi suy nhược, bệnh phong, gan mật, hai bên tay chân đau đớn, co rút, mắt miệng méo lệch. Hỏa thời nhức đầu hỏa vượng, tam tiễn nóng, miệng khô ráo, hay nói sảng, thuộc về dương chủng dương hàn, đau bụng, nhọc độc, ác tật. Thủy thời hay mắc chứng hàn di tinh, bạch đới, đau lưng đau thận, thổ tả. Thổ thời liên quan đến tỳ vị, bụng chướng, phù thủng vàng da, và các chứng bệnh ôn dịch, thời khí.
- Kim Mộc tương khắc thời bị điên cuồng, hung tử
- Thủy Thổ tương khắc thời trong hay bất hòa.
- Mộc Thổ tương khắc thời tổn thương tỳ vị.
- Thủy Hỏa tương khắc thời bị lao trùng.
Phép xem Tĩnh trạch:
Khi xem tĩnh trạch thời đặt La Bàn ở giữa sân, và căng giấy chữ thập theo hướng Nam Bắc, Đông Tây, sau đó định rõ hướng của 24 sơn xem Chủ đóng ở cung nào, thuộc chữ nào, Môn thuộc cung nào, chữ nào và bếp thuộc cung nào (Nhìn vào La bàn để biết rõ cung và chữ) sau đó phối hợp Đông Tây tứ trạch mà đoán cát hung
Ví dụ: Thượng Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1864 đến 1923 tức là năm Quý Hợi.
- Trung Nguyên Giáp Tý gồm người sinh từ năm 1924 đến 1983 tức là năm Quý Hợi.
- Hạ Nguyên Giáp Tý gồm những người sinh từ năm 1984 đến 2043 tức là năm Quý Hợi.
Trong nguyên bản có ghi là năm Giáp Tý thuộc năm Khang Hy thứ 23, là thời xa xưa, do đó dịch giả căn cứ vào dương lịch để độc giả tiện tham khảo. Nhưng cũng phải lưu ý, Tết dương lịch thường đến trước Tết âm lịch khoảng hơn một tháng, nên mặc dù sinh vào tháng 1/1924 nhưng vẫn thuộc tuổi Quý Hợi của Thượng Nguyên.
Bài Tam nguyên Mệnh Quyết là một bài thơ gồm 28 chữ, nguyên văn như sau:
- Thượng Nguyên Giáp Tý Nhất cung Khảm.
- Trung Nguyên khởi Tốn, Hạ đoài gian.
- Thượng Ngũ, Trung Nhị, Hạ Bát Nữ.
- Nam nghịch nữ thuận khởi căn nguyên.
Bài quyết này được coi như một công thức để tính Mạng nguyên của trạch chủ đối với phương vị của Bát quái, có thể giảng diễn như sau:
Các tuổi thuộc Thượng Nguyên Giáp Tý thời khởi từ cung Khảm thuộc số 1. Các tuổi thuộc Trung Nguyên Giáp Tý khởi từ cung Tốn tức số 4, các tuổi Hạ nguyên Giáp Tý khởi sự cung Đoài tức số 7, cách tính đi lần lượt Tý Sửu Dần Mão, tuổi gặp cung nào tức là mạng Nguyên nằm tại cung đó. Đặc biệt những con số biểu tượng trên khác hẳn với các số của tiền thiên bát quái, sau đây là biểu đồ trên bàn tay.
Khảm | : | số 1 cung Dần |
Khôn | : | số 2 cung Mão |
Chấn | : | số 3 cung Thìn |
Tốn | : | số 4 cung Tỵ |
(1) | : | số 5 cung Ngọ |
Càn | : | số 6 cung Thân |
Đoài | : | số 7 cung Dậu |
Cấn | : | số 8 cung Tuất |
Ly | : | số 9 cung Hợi. |
Việc tính mạng nguyên thời căn cứ theo các số đã chỉ định ở trên để khởi cung, Nam thời đi nghịch, Nữ đi thuận. Sau đây là các ví dụ:
Nam: - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi từ cung Khảm (tức cung Dần) chữ Tý năm ngay tại cung Khảm, vậy Mạng nguyên số này hợp với cung Khảm tức là thuộc Đông tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, tính nghịch (bỏ hai cung Sửu Tý) tính nghịch chuyển sang cung Hợi thuộc quẻ Ly, số 9, vậy tuổi Ất Sửu nằm tại cung Ly cũng thuộc Đông Tứ trạch.
Trên đây đểu thuộc nam mạng, Thượng nguyên.
Nữ: - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1864, khởi ở số 5 (có cung nhưng không có quẻ), (sẽ giải thích sau).
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1865, khởi số 5 đi thuận tiếng sang số 6 tức cung Càn, vậy mạng nguyên này nằm ở cung Càn thuộc Tây Tứ trạch.
Trên đây đều thuộc Nữ mạng - Thượng nguyên - Kế đến sẽ xét các tuổi nam nữ thuộc Trung Nguyên:
Nam: - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1924, khởi tự cung Tốn tức số 4 (tại cung Tỵ), chữ Tý nằm ngay tại cung đó, vậy tuổi này hợp với cung Tốn thuộc Đông tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Tốn đi nghịch về cung Thìn thuộc cung Chấn số 3. Mạng này hợp với cung Chấn.
Nữ: - Tuổi Giáp Tý, sinh năm 1924, khởi tự cung Khôn, tức số 2 chữ Tý đóng tại cung này, vậy mạng nguyên hợp với cung Khôn thuộc Tây tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1925, khởi tự cung Khôn đi thuận, đến cung Thìn thuộc quẻ Chấn số 3.
Trên đây là nữ mạng, thuộc Trung Nguyên. Kế đến là các tuổi Hạ Nguyên nam và nữ.
Nam: - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Đoài, số 7, chữ Tý nằm ngay tại đây, vậy mạng này hợp với cung Đoài thuộc Tây tứ trạch.
- Tuổi Ất Sửu, sinh năm 1985, khởi tự cung Đoài đi nghịch về số 6 tức cung Dần.
Nữ: - Tuổi Giáp Tý sinh năm 1984, khởi tự cung Cấn tức số 8, chữ Tý nằm ngay tại cung Cấn, vậy mạng này hợp với cung Càn thuộc Đông Tứ trạch.
Đây là biến cố Cửu cung, Bát quái, tất cả có 9 cung nhưng chỉ có 8 quẻ, do đó khuyết một quẻ là số 5, vậy khi tính thuận nghịch mà đến đường số 5, thời đàn ông lấy số 2, đàn bà lấy số 8 để thay thế. Đó là áp dụng câu thơ: Nam Ngũ Ký Nhị, Nữ ký Bát.
Tam nguyên mệnh quyết đã được trình bày như trên để tìm mạng nguyên của trạch chủ hợp với phương hướng. Nhưng cách này hơi chậm vì gặp những tuổi Nhâm Tuất hay Quý Hợi thời phải đi hết 5 vòng là 60 tuổi mới tới, dễ bị lầm lẫn và mất thì giờ. Vậy có một biện pháp (phép tính nhanh) để tính cho mau và đỡ sai lầm. Căn bản của phép này dựa vào Lục giáp: xin lấy Trung nguyên Giáp Tý làm ví dụ, vì Trung Nguyên thường gặp hơn là Thượng nguyên và Hạ nguyên so với thế hệ của ta hiện nay.
- Con nhà Giáp Tý khởi tại Tốn đi nghịch đến tuổi Quý Dậu – tính chữ Tý tại cung Tốn - đến năm sinh.
- Con nhà Giáp Tuất khởi tại cung Chấn đến tuổi Quý Mùi – tính chữ Tuất tại cung Chấn đến năm sinh.
… vẫn theo nguyên tắc nam nghịch nữ thuận như bài quyết đã nói rõ.
Ví dụ tuổi Quý Mùi thuộc con nhà Giáp Tuất, lấy chữ Tuất để vào cung Chấn (Thìn) chữ Hợi để vào cung Khôn (Mão) và sẽ đến chữ Mùi tức là mạng đến cung Chấn số 3 (khi đếm đến cung Dần thời nhớ bỏ qua 2 cung Sửu, Tý, tiến ngay sang cung Hợi. Cách tính tương đối phức tạp. Dịch giả sẽ làm một bản lập thành bổ túc ở phần cuối cùng).
Phương pháp khảo sát về Nha thự:
Nha thự và công đường là nơi công sớ để giải quyết mọi việc cho dân, thi hành chính lệnh và pháp lệnh, do đó cần có phương hướng thích hợp, sáng sủa không sai phạm vào các lỗi lầm như Đông Tây, hỗn loạn, Môn chủ tượng khác… thời việc thi hành pháp lệnh mới được dễ dàng, dân chúng thuận tòng.
Xét về Nha Thự, công sớ thời phải lấy đại đường làm chủ, nơi này cần nhất là được cao ráo sáng sủa, khoáng đạt. Về phương vị, cần gặp các cát tinh như Tham Lang, Diên Niên, Thiên Ất. Được vậy thời vị chỉ huy sẽ giải quyết mọi việc sáng suốt, phân xử công minh. Thứ đến là phải xét đến đại môn tức là cổng ra vào nơi công đường, cần nhất phương vị phải tương sinh với đại đường. Được vậy, dân chúng trong vùng hiền hòa, đôn hậu, sống lượng thiện, biết tôn trọng pháp luật và những viên chức đại diện cho chính quyền. Xét về Nha thự, tất phải xét đến bếp trước, vì nơi đây được coi là Lộc vị. Nếu bếp được hướng tốt, thời công danh mau tiến. Bếp gặp hung sát thời hay sinh mọi chuyện rắc rối phiền phức. Tóm lại, muốn được công danh thuận lợi phải được cả 3 trọng điểm Môn - Chủ - Táo ở phương vị tốt và tương sinh hoặc tỵ hòa mới coi là đại cát.
Sau đây là những đặc điểm cần chú ý khi khảo sát:
- Nếu viện được coi là Tĩnh trạch thời cứ việc áp dụng bài ca Du niên mà tìm phương vị tốt xấu. Nếu là Đông trạch gồm 2, 3, 4 đến 5 phòng, nên áp dụng theo Đông trạch, dùng đơn kim đơn mộc, xảo phiên bát quái. Nếu thuộc về Biến trạch, có từ 6 đến 10 phòng phải dùng song kim song mộc hoặc song thổ vẫn ứng dụng xảo phiền Bát quái, Hóa trạch có từ 11 đến 15 phòng cũng áp dụng theo cách đó.
- Đại đường hay công đường cần phải xây cất trên nền cao, ngay thẳng, rộng lớn, sáng sủa. Như vậy, người chỉ huy sẽ sáng suốt, làm việc theo lương tâm, xử đoán công minh. Rất kỵ ở hai bên hông mở cửa thông ra ngoài, cách này gọi là “Tứ thú trương khẩu”, trong vùng thường xảy ra án mạng, nhiều chuyện vu cáo lôi thôi. Ngoài ra, hai phía trước và sau không nên xây cất thêm phòng nhỏ, cách này gọi là “Nhị quỷ đài kiện”, người chỉ huy hay bị chuyện dèm pha màng lụy, kẻ phục địch thời phản trắc.
- Ở các nơi đại môn, Nghi môn (qua đại môn tới nghi môn kể từ ngoài đi vào) và nơi hoãn cách (nghỉ ngơi) rất kỵ dựng bia đá, vì hay gặp khẩu thiệt thị phi, kiện tụng, kháng tỗ… Vì dựng bia đá hai bên khi nhìn giống như hai răng nanh của hổ.
Trái lại, trước công đường, dựng bia ở hai bên, đối lập với nhau thời đó lại là điều tốt, ví như tay trái, tay phải đều cầm, hốt ngà, biểu tượng sự trung nghĩa và cầm quyền lớn. Nếu đặt bia ở 2 bên đầu cổng vào ở 2 phía đông tây cũng rất tốt, thường có những bậc danh nho, cao sĩ trị dân, trên dưới hòa mục. Ở nơi Nghi môn, nếu dựng bia, thời sinh ra những kẻ sĩ điên ác.
- Phía trước đại đường nên rộng rãi vuông vắn thuộc hình thổ hay kim, thời dân gian no ấm, kẻ sĩ thuần lương. Nếu có những đống đá gạch hoặc cây cối um tùm che khuất, ngăn trở, thời hay sinh những kẻ xúi dục, kiện tụng, mọi việc không tốt. Nếu trước công đường mà có khoảng đất vừa hẹp vừa dài giống như đầu rắn cổ vịt, thời nhân dân cũng khổ. Ngoài cửa Nghi môn cũng cần được rộng rãi, vuông vắn, không nên nhỏ hẹp như đầu rắn, cổ vịt.
- Có 3 nơi biểu tượng uy quyền là Đại đường, Nghi môn và Đại môn, nơi đây xuất pháp chính lệnh, cần nhất phải oai nghiêm, sáng sủa, đẹp đẽ, vuông vắn. Nếu một trong 3 trọng điểm trên bị lệch lạch, phá khuyết thời làm quan phải phá tài, làm dân thời cùng khổ.
- Trước đại môn cũng cần được rộng rãi, khoáng đạt, thời vị quan tướng mới được công danh thuận lợi, và những kẻ phục dịch thuộc cấp mới hết lòng làm việc. Nếu thấp nhỏ, méo lệch, phá khuyết thời nha dịch cùng khổ hay làm bậy, dân chúng nghèo đói hoang tàn.
- Trước công đường cho đến đầu cổng, ở phương Đoài, không nên đặt Hỏa lò, đá mài và các vật dụng có hình thức dữ dằn. Phòng ốc không nên để vỡ nát, nghiêng lệch hoặc có đường đi trực xạ. Ngoài ra cũng rất kỵ những nhà cửa của dân gian xây cất quá cao án ngữ ngay đại môn.
- Trước đại môn, hai bên có thư phòng của Nha lại làm việc cũng cần ngay ngắn, cửa lớn cửa nhỏ đều phải chỉnh tề. Về kiểu mẫu tổng quát, trước công đường cần khá rộng, như vậy sẽ có những bực trung thần nghĩa sĩ, dân chúng hiền lương, cuộc sống phú túc.
- Tại Nghi môn cũng cần trước hẹp sau rộng giống thế hình, tường cao ráo. Nha dịch giỏi, có khả năng.
- Sau đại đường là Nhị đường, tam đường, Nội viên… đều cần trước hẹp sau rộng mới đúng cách. Hai bên là thư viện phòng khách cũng cần trước hẹp sau rộng đều chủ phát phúc lâu dài. Nếu đặt bếp trà (nơi pha trà) ở các phương vị gặp Tham Lang Diên Niên hay Thiên Ất cũng ít tốt, sinh con hiền cháu thảo. Nếu an tại các phương, Ngũ quỷ thời kẻ tôi tớ hầu hạ sinh ra gian trá, trộm cắp, bỏ trốn.
- Phòng khách cần sáng sủa, ngay thẳng, cửa mở theo chính diện tốt. Nếu mở cửa thông hai bên hoặc ở góc gọi là “Tứ thú trương khẩu”, thời hay gặp những vụ án tìm không ranh manh mối, dân chúng kháng cáo, khẩu thiệt thị phi.
- Nhị đường, tam đường cũng phải ngay ngắn, sáng sủa, bếp phải đặt ở phường sinh khí, Diên Niên hoặc Thiên Ất mới có lộc, vợ nội trợ đảm đang. Nếu trong viện có gạch ngói chồng chất bừa bải thời trong nhà hay có người đau mắt, chết trẻ gỗ thời hay sinh khẩu thiệt.
- Tại Nha thự, đại môn và Nghi môn, nếu có tường hai bên phải ngang với cổng, không nên quá thấp. Nếu quá thấp gọi là “Lậu kiên” quan dân nha địch đều cùng khổ, nếu méo lệch, thời hay bất hòa với cấp trên, nha dịch tác tệ, hay xảy án mạng.
- Chuồng ngựa ở trong Nha thự (văn thự hay võ thự) cũng phải an ở các phương Sinh khí, Diên Niên, Thiên Ất thời ngựa mới khỏe mạnh, mập mạp, đó là cách “Dịch mã thôi quan”, thăng chức mau chóng. Nếu đặt ở phương ngũ quỷ thời ngựa ốm yểu chết chóc, hoặc thất lạc. Công văn cũng hay thất thoát.
- Địa thế của Nhạ Sớ cũng cần ngay thẳng rộng rãi, trước hẹp sau rộng. Đó là cách “khẩu khẩu nha thự” vào nhiều mà ra ít, quan dân đều phú túc.
- Nha thự được xây cất Tý Sơn Ngọ hướng, Nhân Sơn Bính hướng, Quý Sơn Đinh hướng, thời không nên đặt bếp ở phía đông bắc (Cấn Thổ) như vậy người giúp việc thường hay trộm cắp hay đào tẩu, tỳ thiếp hay làm chuyện dâm bôn, Quan hay sợ vợ, dân thời ưa kiện cáo, những chuyện này xảy ra là do lỗi lầm cách khai môn và an táo. Nha thự nằm phương khảm, cửa mở phương ly, đặt bếp tại cung cấn, thời thiếp bất phục thế, phụ nữ gây chuyện ồn ào. Nếu Nha thự ở phương Khảm, bếp đặt ở phương Tốn, đối nội, vợ hiền đức, tỳ thiếp đúng đắn. Đối ngoại, Nha dịch trung thành, thượng cấp vui vẻ.
1. Lớp ngoài cùng là Phá Quân Kim.
2. Lớp thứ nhì là Văn Khúc Thủy.
3. Lớp thứ 3 là Sinh khí Mộc, cao lớn.
4. Lớp 4 là Ngũ quỷ, Hỏa, thấp.
5. Lớp 5, Cự Môn, Thổ.
Hình B: Đoài Chủ, Chấn Môn, Khôn Táo, 5 lớp, ám sát Nha thự.
Nếu luận về Môn, Chủ, Táo thời thự này không tốt. Nếu luận về tứ chính phiên Kim, thời lớp thứ 5 là Cự môn thổ đến cung Đoài được cung và sao tương sinh, như vậy là cát tinh, đắc vị, hung sát phải thoái phục, lại được chủ táo tương sinh, chủ về sơ vận, thăng quan tiến chức. Nhưng để lâu thời Môn, Chủ, Táo khắc chế lẫn nhau nên trong nhà vợ chồng con cái hay bất hòa, hay sinh chứng đau bụng, ăn không tiêu… Như vậy phải mở cửa theo hướng Càn mới được yên lành. Nói chung, Nha thự phạm vào Áp sát thời tiền cát hậu hung nên cẩn thận.
I. Càn
1) Bàn môn đàn chú: càn càn thuần dương thương phụ nữ, cách này đều thuộc thuần dương Phục vị, sơ vận phát phúc, nhưng thuần dương, bất hóa, dương thịnh âm suy, nếu để lâu phụ nữ yểu vong, cô quả, tuyệt tự.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, kim bị tiết khí, lúc đầu được tương sinh tốt, lâu thời tán tài, cờ bạc, dâm đãng, tổn thương thê tử, ho suyễn.
Cấn là Thiên Ất Táo Thổ, tương sinh với Kim, lúc đầu phú quý song toàn, sinh 3 con, lâu năm thời tổn thương phụ nữ, ít con, phải cưới thiếp, vì phạm thuần dương.
Chấn táo phạm Ngũ quỷ, bất lợi con trưởng, hay bị kiện cáo, hại người hại của, hung tứ, trộm cắp.
Tốn táo thuộc Lộc tồn Thổ tinh, tương khắc với Môn, tương sinh với Cung, lúc đầu tiểu cát, sau thời phụ nữ đoản thọ, đau lưng, đùi, bụng
Ly Táo là Hỏa Kim tương khắc, âm thịnh dương suy, nhiều gái ít trai của con không vượng, lâu dần hay có quả phụ. Đau mắt, nhức đầu, ác tật, đàn bà lăng loàn không con.
Khôn Táo là Diên Niên, Thổ Kim tương sinh, phu phụ chính phối, sinh 4 con, phúc lộc thọ hoàn toàn.
Đoài Táo tức sinh khí, tỵ hòa với Môn và Chủ, lúc đầu phát tài phát định, lâu ngày phải trùng phú thê thiếp, đàn bà góa bụa, thuộc hạng thứ cát.
Càn táo cùng tụ hòa với Môn chủ, tam dương đồng cư, sơ vận phát phúc, lâu thời hình thê khắc tử.
2) Càn Môn Khảm chủ: Thiên Môn lạc thủy xuất dâm cuồng:
Cách này có tên là Lục Sát, Hung, sơ vận dù có phát tài sau sẽ hình thê khắc tử, góa bụa không con, bại sản.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo thuộc Thủy, Kim bị tiết khí, Chủ về tán tài tuyệt tự.
Cấn táo tương sinh với Môn là Thiên y, sinh được 3 con nhưng lại tương khắc với chủ, phạm vào Ngũ quỷ khó nuôi con, trai giữa đoản thọ, tuyệt tự, hay mắc các bệnh đau bụng, khí trướng, sưng lá lách.
Chấn táo đối với Chú là Thiên Y, đối với Môn là Ngũ quỷ, lại thuộc dương, sơ vận khá, nhưng sau đại hung.
Tốn táo đối với Môn là Họa hại, với chủ là sinh khí, sơ vận Đinh tài đều phát, sau hay mang bệnh đau nhức gân xương, phụ nữ đoản thọ.
Ly táo là Hỏa kim tương khắc, nam nữ đoản thọ, nữa kiết nữa hung.
Khôn táo, Đinh tài đều vượng, nhưng Khảm chủ bị khắc, tổn thương trung nam, góa bụa, ngành thứ tuyệt tự.
Đoài Táo, đông con, đàn bà yểu mạng, lâu ngày sinh ra góa bụa, dâm đãng.
Càn Táo tỵ hòa với Môn, đối với chủ là Lục sát, đoán theo cách Thiên Môn lạc thủy nói trên.
3) Càn Môn Cấn chú: Thiên lâm sơn thượng gia phú quý:
Cách này gọi là Thiên Ất trạch, là phúc thần sinh 3 con nhiều ruộng đất, trong nhà trọng tín ngưỡng, sơ niên giàu có, đông con nhiều của, trai gái hiền lương, nhưng thuần dương bất hóa, lâu năm sẽ khắc vợ hại con, cô quả.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, thổ khắc thủy, kim bị tiết khí, hay đau bụng, lá lách, hư lao, trẻ con khó nuôi, nam nữ yểu vong, trùng hôn, ma quỷ quấy phá.
Cấn táo tương sinh với Môn, tỵ hòa với Chủ, điền sản hưng vượng, nhưng tổn thương con gái, hiếm con vì thuần dương.
Chấn táo phạm Ngũ quỷ tương khắc với Môn và Chủ, tuyệt tự, mắc bệnh phù thủng vàng da, bệnh tỳ, đại hung.
Tốn táo, Kim, Mộc, Thổ cả 3 tương khắc, đau gân cốt, khắc vợ hại con, bệnh về sinh sản, bệnh phong.
Ly táo đàn bà hung dữ, chồng sợ vợ, tuyệt tự, bệnh mắt.
Khốn táo là Diên Niên sinh khí, đại cát.
Đoài táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với chủ, đại cát.
Càn táo tỵ hòa với Môn, tương sinh với Chủ, sơ niên phát phúc, sau thương thê khắc tử, tuyệt tự, góa bụa, vì là cách thuần dương.
4) Càn môn chấn chủ: Quỷ nhập Lôi môn thương trưởng tử:
Cách này gọi là Ngũ quỷ trạch, ngoài khắc trong tai họa mau chóng, kiện tụng khẩu thiệt, hỏa tai, đạo tặc, thường ứng vào số 4, 5, ma quỷ quấy phá, nam nữ yểu chiết, đau bụng, điền sản hao tán, lục súc tổn thương, cha con bất hòa, ngành trưởng tuyệt tự sau đến các ngành khác, đại hung.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, sơ niên tốt, lâu thời hao người tốn của.
Cấn táo phát tài không phát định, con nít hay đau ốm.
Chấn táo là tam dương đồng cự, phạm vào Ngũ quỷ đại hung
Tốn táo phụ nữ đoản thọ, đau nhức gân cốt, truỵ thai, chết về thai sản.
Ly táo Hỏa kim tương khắc, đàn ông yểu thọ.
Khôn táo tương sinh với Môn, tương khắc với Chủ, nữa kiết nữa hung.
Đoài táo tỵ hỏa với Môn, tương khắc với Chủ.
Càn táo là tam dương đồng cư, hai Kim khắc Mộc tất là tuyệt diệt, đại hung.
5) Càn môn Tốn chủ: Càn tốn sản vong tâm thoái thống:
Cách này gọi là Họa Hại Trạch, sơ niên may mắn được phát tài nhưng sau đàn bà chết sớm, hay bị trộm giặc, kiện tụng.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo không khắc với môn và chủ, sơ niên phát tài Đinh, về lâu không được vượng.
Cấn táo tương sinh với Môn, tương khắc với Chủ, tuyệt tự, không tốt.
Chấn táo có tên là Ngũ quỷ, đại hung.
Tốn táo thời phụ nữ đoản thọ.
Ly táo phụ nữ chuyên quyền, đàn ông đoản thọ.
Khôn táo lão mẫu bị yểu vong.
Đoài thọ nam nữ đều đoản thọ.
Càn táo tỵ hòa với Môn tương khắc với Chủ, thương thê khắc tử.
6) Càn Môn Ly Chủ: Càn Ly của cư sinh nhân tật:
Cách này gọi là Tuyệt mạng Trạch, ông già bị lao tật, đoản thọ, hoa mắt nhức đầu, xung độc, tán tài, trộm giặc, góa bụa, tuyệt tự.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo tán tài, khắc thê, dâm đãng.
Cấn táo, con cháu hiền lương, phụ nữ hung dữ.
Chấn là Ngũ quỷ táo, đại hung.
Tốn là Họa hại táo, vợ lớn bị khắc, trụy thai, chết yểu vì thai sản.
Ly táo tương khắc với Môn, hung.
Chấn táo tương sinh với Môn, nữa cát nữa hung.
Đoài táo tụ hòa với Môn, tương khắc với Chủ, hung.
Càn táo tỵ hòa với Môn, tương khắc với chủ, không tốt.
7) Càn môn Khôn chủ: Thiên môn đáo địa chủ vinh hoa:
Cách này gọi là Diên Niên trạch, Thổ kim tương sinh, phu phụ chính phối, sao và cung tương sinh, được 4 con, cả nhà hòa mỹ, con thảo cháu hiền, phú quý, sống lâu, Vì Diên Niên đắc vị nên gặp phúc hỷ.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo bị khó khăn, trung nam đoản mạng, đau bụng không tốt.
Cấn táo tương sinh với Môn, nam nữ hiền lương, đại cát.
Chấn táo tương khắc với Môn và Chủ, đại hung.
Tốn táo tương khắc với Môn (Kim khắc Mộc) và tương khắc với chủ (Mộc khắc Thổ), những bậc lão mẫu, trương phụ bị tổn thọ.
Ly táo Hỏa, Kim tương khắc, hung.
Khôn táo đại cát.
Đoài táo đối với Mộc là sinh khí, với Chủ là Thiên Ất, đại cát.
Càn táo tương sinh với Môn và Chủ, đại cát.
8) Càn Môn Đoài chủ: Thiên trạch tài vương đa dâm loạn:
Cách này gọi là sinh khí trạch. Lão ông và thiếu nữ tương phối, sơ niên phát phú phát quý, có con và sống lâu. Lâu ngày sẽ trùng thú thê thiếp, đàn bà góa coi nhà, thứ cát.
Môn chủ phối bát táo:
Khảm táo, thủy tiết kim khí, tuy sinh mà không sinh, tán tài, tuyệt tự, khắc thê, dâm đãng.
Cấn là Thiên Ất táo, đại cát.
Chấn là Ngũ quỷ táo, đại hung.
Tốn táo là họa hại, phụ nữ sản vong, đau nhức xương cốt.
Ly táo là Hỏa kim tương khắc, trai gái đoản thọ, tán tài, đại hung.
Khôn táo đại hung
Đoài táo tỵ hòa với môn, đại cát.
Càn táo dương nhiều âm ít, phụ nữ yểu vong, ở góa, dâm đãng thứ cát.