Lạc Xa
Vô Thường
Cái này là môn chơi Cờ Tử vi , Môn này không phải là Lý thuyết thuần túy mà là 1 Game chơi đấu trí , chuyên dùng sự kết hợp giữa Chính Tinh và Cung vị + Âm Dương Ngũ Hành , Quái số .v.v hùm bà lằng để suy luận cho ra tình thế trong nước khi Chính tinh đó ( hay Mệnh ) xuất hiện , có nghĩa là giải đoán Mệnh cung của Đương sự thông qua tình hình trong nước nhằm Mục đích vẽ ra 1 lộ đồ tổng quát trước mắt để đương sự dễ bề đinh liệu chí hướng cũng như tương lai của mình .
Đây là 1 môn đấu trí , nhiều khi chỉ 1 câu mà nghĩ vài giờ không ra , nhưng đa phần là dễ chứ không khó , nhưng khi suy ra 1 nước cờ , ví dụ như nước cờ :" Tiên Vương vừa mới Băng hà !" khi đưa ra 1 nước thì phải có lý do và lý do này phải được giải thích trong Phạm vi của Tử vi ( và các Môn học liên quan như Dịch , Ngũ hành .. )để người đọc có thể hiểu và chấp nhận . Chứ không phải muốn nói sao thì nói , hay " liêu trai chí dị " như Lão nói đâu .
Còn nước cờ Cao hay Thấp , đúng hay sai hay tạm chấp nhận được hay quá tệ ... là do công lực , cơ trí và tu vi của mỗi người .
Khi chơi Bạn phải có Bản đồ 14 chính Tinh trước mắt ( bấm tay cũng tốt ) , đó là điều tiên quyết . Nếu Bạn nào pót được thì hay quá !
Đứng ngoài Các Bạn có thể chỉ vẽ nước cờ , góp ý , hoặc đưa nguyên 1 Bàn cờ Thế của Bạn để mọi người luận giải , nếu không giải hết 100% ,sau cùng Bạn phải tự giải.
CÓ thể nói choi Tử vi tức là chơi cờ Tướng ! Cờ Tướng thì có 32 Quân và 72 ô , Tử vi thì có khoảng 114 Tinh cùng 12 Cung , mỗi Chính tinh ( hoặc 2 CT ) đóng ở cung nào cũng có 1 Vị trí rất đặc biệt , xưa nay ít ai bàn đến , nay tại hạ xin được phép hạ cờ đi trước ,tán gẫu vài dòng về 1 số Thế cờ .
1/ THẾ TỬ VI CƯ TÝ :
Đây thuộc Quẻ Địa lôi phục, nhất Dương sinh ,
Tượng = Ấu Chúa đương quyền .
Tiên Vương mới vừa giá băng , Ấu Chúa chỉ vào khoảng 2t -16 t , lên đăng cơ trong khoảng thời gian từ 2- 6 tuổi .
Vì còn quá trẻ , việc Triều chính được giao cho 2 Quan Đại Thần nhiếp chính ( 1 Quan Thái Phó và quan Hình bộ Thượng thư,) , Thái hậu và đám Cung Tần của Tiên đế vì không có thực quyền ( Thái hậu không phải là Mẹ ruột của Vua , Mẹ ruột đã quy tiên ), lui về tỵ vị ở các cung phòng mé Đông bắc gần cựu Dinh của Thái tử .
Việc phòng vệ Cấm thành được giao cho 1 viên lão Tướng trấn giữ . Đế thường lui tới với đám Hoàng huynh ở miền Tây Bắc . Đám anh em này đang ngấm ngầm thông đồng cùng Thái hậu , âm mưu soán vị .
Tình hình trong nước tuy vậy tương đối ổn định , kho vựa đầy đủ, mặt trận miền Tây vẫn không xao động , mùa màng tuy có bị bão lụt ,nhiều nơi dân cư xiêu tán , đồng ruộng bỏ hoang , nhưng chưa đến nỗi có nạn đói .
trước mắt nếu không có phương lược , e rằng nhân dân sẽ ta thán và có thể giặc giã nổi lên .
Thử giải 1 vài điều :
* Thuộc quẻ Địa lôi phục =
Thiên Nhất sinh Thủy, Địa nhị thành chi : tức trước tiên Thủy được sinh ra , ở đâu ? dĩ nhiên là trên Địa cầu , có nước kết hợp với đất thì vạn vật sẽ được nảy sinh , cho nên nói là Địa nhị thành chi ( thành = thành hình ), Địa nhị = Khôn có số là 2 , hoặc có thể hiểu là quẻ thuần Khôn .
Từ Mùi đi đến TÝ thì đã thành thế cực Âm ( Lão Âm ), cực Âm thì sẽ hóa sinh thành Thiếu Dương , như vậy Cung Tý nơi từ Thuần Khôn hóa thành Thiếu Dương ,( hóa thành 1 Hào Dương bên dưới ) sẽ biến ra quẻ Địa lôi phục .
Tử vi cư Tý là nơi Thiếu Dương vừa mới sinh ra cho nên được gọi là Ấu Chúa . Chúa tay Tả nắm Liêm - Phủ , tức nắm Quan lại và kho tàng ( Liêm = Quan lộc chủ / Phủ = quan coi về kho tàng ) , tay Hữu nắm các ban Võ Tướng ( Vũ khúc + Thiên Tướng ) cho nên gọp lại gọi là Ấu Chúa nắm quyền .
Tiên Vương mới Thăng hà :
Trên bàn cờ này , Cung Phụ mẫu trống rỗng , Vô chủ tinh , mà Thái Dương là tượng Vua Cha đang ở Dậu cung = Mặt trời chìm về phương Tây , kết hợp Phụ mẫu VCD , Âm Dương đều hãm , Mẹ không ở bên cạnh khi còn thơ ấu , Cha không có mặt tại Triều dã ( Ngọ cung ) suy ra Cha Mẹ đều đã qua đời !
Môn này xưa kia Lã đại tiên ( Lã động Tân , là người đầu tiên chế ra môn Tử vi ), Ma y lão tổ ( thầy của Trần Đoàn ) bày ra, chỉ mấy ổng chơi với nhau nên rất ít người biết và đã tuyệt tryền từ lâu lắm,( ngay bên Tàu cũng không có ),, bây giờ với góp tay của Quý Bạn , mong rằng môn này sẽ được phơi bày để tưởng nhớ đến công đức của chư vị Lão tổ .
Xin giải tiếp :
3/ Ấu chúa chỉ mới 2- 16 tuổi :
Tử vi cư Tý , Thủy nhị cục là 2t , cao nhất là người Hỏa 6 cục , Đại hạn đầu tiên là 2t -12 t , hoặc 6- 16 , vậy nói chung là từ 2 - 16 . Chúa lúc đó Không thể lớn hơn số tuôi này.
4/ Việc Triều chính giao cho Đại Thần :
Cung Quan lộc của 1 ông Vua ,không phải là thường dân , nên hiểu là việc triều án , cung này có Liêm = chủ về Quan sự , hình ngục, liêm chính cho nên gọi là Hình Bộ TT , Thiên Phủ = Chủ tể Nam cực chư Tinh, chức vị giống như 1 Phó Vương , nên gọi là Thái Phó .
4/ Thái hậu không nắm Thực quyền :
Tiên đế mất , Vua kế vị còn trẻ , thường thì Thái hậu có quyền thùy liêm thính chính , nhưng ở đây Phụ Mẫu VCD , Thái Âm lại cư Tỵ = gọi là Tỵ vị = nhường, tránh né, ẩn náu. Mẫu thân có con lên làm Vua mà phải tỵ vị và vô quyền ( ÂM Hãm = vô Quyền ) thì ngờ là không phải Mẹ đẻ . Âm = còn chỉ Quần nữ , nên gọi là Phi Tần ).
Tỵ = Đông Bắc . Dinh Thái tử theo tục lệ phải ở phía Đông của Cấm cung , cho nên nói là ở gần Cựu Dinh , vì Thái tử lên ngôi tất nhiên phải move nhà !
5/ Lão Tướng phòng vệ Cấm thành :
Tham cư Hỏa địa ( Ngọ ) là Tượng 1 Tướng lãnh đã từng xông pha trận địa ( nơi khói lửa ) , Tham thuộc Mộc , Trường sinh tại Hợi , đến Ngọ là Tử , tức chỉ sống dưới 10 năm thì chết ( Đại hạn tới là Mộ = nhập mộ = chết ), nếu không già thì gọi là gì ? Ngọ cung = Cấm thành .
6/ Hoàng huynh đang liên kết với Thái Hậu :
Thiên Cơ = chủ về anh em , Hợi = Tây Bắc . Trục Âm - Cơ = âm mưu giữa Thái hậu và các Hoàng Huynh ( Cơ = cơ mưu , Âm = u ám , âm thầm / cũng chỉ Thái Hậu . Đám này vì không có thực quyền , thấy Vua còn trẻ , nên tính chuyện đoạt ngôi .
7/ Trong nước ổn định :
Thiên Phủ , Vũ khúc đều Miếu/ Đắc = kho vựa , kinh tế ổn định . Phía Tây thùy thấy Vũ - Tướng đóng nên đoán là có can qua ở đó . Vũ - Tướng Đắc địa ở thế mạnh, chứng tỏ Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh .
8/ Mùa màng :
Thiên cơ = cơn đói , nạn đói . Cơ cư Hợi = nạn đói đang xảy ra ở những chỗ ngập lụt , tuy vậy vẫn còn cá ..khô để ăn , vì Hợi = Song ngư tòa .
Tỵ là Hỏa địa , chỗ đất nóng , mà thấy khí tròi âm u ( Thái âm ) , và Tỵ = Tốn cung = chủ về gió bão , cho nên nói là có bão lụt .
Điền cung Vô chủ tinh , trống rỗng , cho nên nói là dân cư xiêu lạc , đồng ruộng thiếu nhân canh . Tuy nhiên kho thóc còn đầy đủ nên chưa đói lắm .
Đồng - Cự cư Ách = đang có sự kêu ca của dân chúng ( Đồng = cùng nhau , đồng bào . Cự = kêu la , cụ nự ), chỗ này tùy tình hình chính trị, kinh tế mỗi Thời , mỗi nơi, mỗi nước mà luận .
2/ THẾ CỜ LOẠN THẾ ANH HÙNG
( ANH HÙNG THỜI LOẠN ):
Tức Thiên Tướng cư Mão cách .
Thiên Tướng cư Mão là nơi lạc hãm ,nơi đây có Tượng là :
- Liều mình vì nguyện ước .
- Dấn Thân chống cường tặc .
Phê số là :
- Sinh bất phùng thời:
Nếu ngộ Ác tinh , Kỵ : Kình Đà Hình Triệt / Phá Đà Kiếp ./ Hỏa Linh xung phá . Giáp / Canh sinh nhân = chủ khốn trệ , bất hiển .
-Phê số là :
Phát võ Hầu Bá .
Nếu gặp : Sinh / Vượng + Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương ( số Lã Bố ). Hoặc ngộ Hình Quyền Tướng Ấn + Hổ Khốc Mã =
Đại công cáo thành . Ngộ Tả Hữu xương khúc = chấp chưởng đại quyền . Ất / Tân sinh nhân = Cát lợi .
BÀN CỜ :
Trên Bản đồ lộ số nhà Vua đã bò trống Kinh Thành , chạy tỵ nạn về hướng Đông Bắc , có mang theo 1 Đại Tướng và đoàn tùy tùng hộ giá .
Quân phiến loạn đã dàn 2 Binh đoàn đang trên đường Tây tiến , nay cách Hoàng cung 60 Dặm . Dân chúng hoảng sợ di tản bằng đủ loại phương tiện , cảnh vườn không nhà trống kéo dài đến gần trăm dặm !
Các Phiên Thần thì đang ở xa , nơi sơn cùng thủy tận không kịp về cứu giá , tình hình rất là nguy ngập ,vì phần chính là lương thực rất giới hạn . Đại tướng quân thì không thể bỏ vua ra chiến trường ứng địch , còn lại đám bồi Thần , Mưu sĩ có trí mà không có sức thì làm gì được trong lúc kinh thành nguy loạn ?
1/ Vua đã bỏ trống Kinh Thành :
Tử Vi từ Ngọ cung là Kinh đô chạy về đồn trú hưởng phước ở Tỵ cung ( Tây Nam , không phải Tây Bắc ), có mang theo 1 Đại Tướng tùy giá là Thất sát .
2/ Quân Phiến loạn đã dàn 2 Binh đoàn ... :
Trong bàn cờ này , Thiên Tướng cư Mão tọa Mệnh được xem là nhân vật Chính , do đó Đối cung chính là đối phương =
phe Phiến loạn , 2 Binh đoàn = Liêm / Phá mỗi Tướng quân dẫn 1 Binh đoàn .
Cách Hoàng cung ( Ngọ môn ) 60 dặm :
Quân Phiến loạn cách Kinh Thành ( Ngọ cung ) chỉ có 2 cung 2 x 30 độ ( 1 cung = 30 độ ) = 60 . Cảnh vườn không nhà trống kéo dài cả trăm dặm vì + thêm Hoàng cung .
3/ Các Phiên Thần thì đang ở xa :
Thiên phủ = Phiên thần , tại Hơi cung là cung cuối cùng của vòng Đia chi ,là nơi Mã không còn đường chạy ( Mã cùng đồ ) vã lại Hợi cung = Đại hải thủy nên gọi là chốn sơn cùng thủy tận .( sơn cùng = núi chạy đến biển thì phải dừng / sông ( Thủy ) cũng vậy } .
4/ Tuy có Cơ Lương tại Thìn nhưng vì đang loạn lạc , Điền tại Ngọ bỏ không , nên nói lương thực giới hạn .
Tình hình nguy ngập như vậy , rơi vào thế không ai ra ngăn giặc , Thiên Tướng lúc này đang ở sơn lâm ( Mão ) chắc đang là ..Động chủ như Lê Lợi vậy , trong tay chưa có sự nghiệp ( Quan lộc trống không ), chỉ nhờ vào sự ủng hộ của 1 vài lãnh tụ địa phương ( tay phải nắm Tài tinh Thiên Phủ ) mà đến lúc phải đứng ra đối diện với quân thù .
Cách này nếu thành lập thành công thì có thể gọi là Loạn thế phùng Quân cách !
Xưa thì Cách này giống như tình thế của Anh Hùng Lê Lợi .Gần đây thì thấy giống như Đệ Nhị CH , thế Giặc cũng từ Tây nguyên tràn xuống ( Dậu = Tây nguyên ), đồng bào kéo nhau mang gia đình , vợ con , lều chõng , xe cộ , tài vật ..v.v bám theo sát chân ..lính Ngụy , cái bọn lính Ngụy này chạy đến đâu đồng bào chạy đến đó , không hiểu tại sao , cảnh vườn trống nhà không , chó không sủa mèo không kêu ( vì đói,không ai cho ăn ) , khói lủa thì đâu đâu cũng có ( đám đông chạy loạn bị Phiến quân lấy đại bác nện theo , xác chết nhiều đoạn làm nghẽn cả lối xe chạy ) , đọan đường tản cư gian hiểm này dài bao nhiêu ? có bao người ngã gục ? chẳng ai thèm nhắc đến , 1 trang sử đã qua .
Có điều TT Thiệu lại chạy về hướng Đông Bắc , và Thiên Tướng là ai cũng không bao giờ xuất hiện , đây đúng là thời buổi của những Anh Hùng vô lệ ( không còn nước mắt để khóc ) , những anh Hùng sống trong Thành phố đông người mà thấy bị rình rập , lẻ loi và helpless ! đây là thời đại của oan khiên ngút ngàn , tất cả những gì xấu xa ghê tởm nhất đều được đánh đổ lên con người và nhân phẩm của họ .
Đâu còn cái gì là của Anh Hùng thời loạn ?
3/ THẾ LIÊM THAM TỴ/ HỢI :
Tượng : Tha hóa kỷ cương ,
Nhũng lạm dâm tà ,
Ác nhân ác báo .
Phê số : Hình trượng nan đào .
Nam đa lãng đãng nữ đa dâm .
Tửu sắc táng thân , lưu đãng thiên nhai, bất thuần khiết , tao quan hình .
Hạ tiện cô hàn, bôn tổ ly gia .
Giáp Bính Mậu Kỷ Nhâm : dù được hưởng phúc cũng không bao lâu , ngộ Lộc tồn = phú quý khả kỳ .
Liêm Tham Tỵ / Hợi + Xương Khúc = đa hư thiếu thiệt .
Nếu gia thêm Hóa Kỵ , tuổi Bính bị họa , tuổi Giáp bất nghi .
Hội Kình tại Dậu = gông cùm khó thoát .
Nữ Mệnh : Các tuổi Bính Tân Ất Mậu = Thanh bạch ..
Đa Sát tinh ; Xướng kỷ .
LIÊM THAM Tỵ / Hợi là 1 thế cách rất hay , còn tồn đọng những bí ẩn chưa ai giải thích , như tại sao Liêm thuộc HỎA rơi vào Hỏa cung mà lại xấu , Hãm ?? Điều này tuy nhỏ , nhưng nếu giải thích được thì có thể áp dụng để giải thích những ngờ vực tồn đọng trong các tư thế Đắc Hãm còn chưa được giải quyết 1 cách rốt ráo .
Cũng như Cách Liêm Tham Tỵ / Hợi được gọi là VÂN LẬP VÔ PHONG ! Tại sao ?
Sao gọi là Đồ tể cách ? Lãng đãng cách ?
1/ LIÊM THAM TỴ / HỢI : VÂN LẬP VÔ PHONG cách.
Liêm là Âm Hỏa ,tại Tỵ thuộc Bính Hỏa , tại Bính , Tứ Hóa là ĐỒNG CƠ XƯƠNG LIÊM , như vậy Liêm tại Bính ( Tỵ ) thì Tự Hóa và biến thành Hóa Kỵ !
Hóa Kỵ là Ám tinh có tượng là HẮC VÂN ( mây đen ) , tại Tỵ = Tốn cung , chủ về gió bão , gió lại chủ về Thời cơ/ cơ hội . ( như các câu Long Hổ phong vân , Long tòng vân Hổ tòng Phong , Phong vân tế hội , Đón gió trở cờ v.v Long Hổ là chỉ Anh hùng hào kiệt , Phong vân là chỉ Thời thế .
Ở dây ta biết Gió = chỉ cho Thời cơ , nhưng vì Tham Mộc cư Hỏa địa , hôi tận , cháy thành tro than ; Liêm tuy là Hỏa lạc vào Hỏa địa thì ĐẮC , nhưng đã tự Hóa thành Kỵ ,như vậy 2 Chủ Tinh đều thuộc tình thế không Đắc cách ,bị Hãm lạc cho nên khó gặp Thời cơ , tựa như 1 đám mây đen lơ lửng giữa lưng trời đứng gió , đó là nguyên nghĩa của Vân lập vô phong .
Mấy Cụ thời xưa rất thâm thúy ,lại dư thì giờ nên có nhiều dịp để chơi chữ , người xưa đặt tên cho con cháu hay cho 1 con sông , hòn núi , hay tên 1 địa phương nào cũng vậy , nhất là tên Hiệu , Thụy/ Húy .v.v đều nghiên cứu rất kỹ , như 1 địa phương muốn thay đổi cái name của nó cũng phải đệ đơn lên , bị bác vài lần ( thay đổi tên vài lần ) mới được chấp thuận chứ không phải như ngày nay cứ đặt tứ tung , tên đường là Lê văn Tám ! Võ thị Sáu , Kách mệnh tháng Tám , Ba tháng Hai , kết hợp với Đường số Bốn ngày xưa ( tức Hồng Bàng / Charles Thompson ) và đường Bùi hữu Nghĩa ( đường số 5 & 7 cũ ) với lại đường Église ( Rue de # 1 ) thì ta sẽ có 1/2/4/5/ 6/7/8 số nào cũng có gần đủ 10 , cứ làm như chơi số đề !
. Đường Tự Do ( Catinat ) ngày xưa ngay trung tâm TP có tên hay như vậy đổi thành Đồng khởi ( = Cánh đồng của những con khỉ / sự đồng lòng của bầy khỉ )nói chung thì nghe cũng hay hay , tuy có hơi rừng rú 1 tí .
Nhớ lại ngày xưa Nguyễn Ánh ( không phải Nhạc sĩ Nguyễn ánh 9 đâu nhá ) cùng triều thần bàn định việc phong Hiệu , không biết tay nào đưa ra từ GIA LONG thật là quá hay , Đời Hậu Nguyễn đến thời Nguyễn Ánh ai cũng cứ tưởng là đi đứt ( Hoàng tộc bị giết gần hết ) thế mà làm cách nào Nguyễn Ánh lại lóp ngóp bò lên được ngôi Vua thi không ai hiểu nổi . Gia = thêm vào , dựa theo âm vận . Long = Long mạch . Gia Long = nối tiếp , kế tục Đế nghiệp của nhà Nguyễn . và Gia = Gia Định Thành .
Long = Thăng Long Thành . Gia long = sự thống nhất đất nước từ Thăng long đến Gia định . Như vậy Hiệu Gia long có 2 nghĩa mà nghĩa nào cũng hay .
2/ LÃNG ĐÃNG CÁCH :
Tại Tỵ / Hợi , Liêm - Tham đều là Đào hoa tinh , dễ đa tình , đa dâm , đa phu / thê . Tỵ lại là 1 trong tứ Sinh / Mã . Liêm Mã / Tham Mã = Chơi bời phóng túng , không chịu ngồi yên ở nhà , vì thế có câu :
Nam đa lãng đãng , Nữ đa dâm .
3/ Phu Thê cung nếu có Liêm Tham Tỵ/ Hợi hoặc VCD bị Liêm Tham chiếu cũng vậy :
Thường thích lấy Vợ / Chồng là người đã trải qua kinh nghiệm ( thường là có 1 đời vợ/ chồng ), chứ không thích trai / gái mới lớn lên còn origin !
Vì Liêm = còn có nghĩa là Liêm khiết , thanh khiết .
Trinh khiết ( còn Trinh trắng ). Thế nhưng em gái Liêm rơi vào Tỵ cung bị Hãm !!! lại thấy có thằng quỷ dâm chúa Tham lang bên cạnh thì còn zì là ....
Thôi dồi một đóa phù dung ,
bướm ong nay đã thong dong mấy phùa ...
4/ Có khuynh hướng thích CHÍNH TRỊ :
Liêm -Tham cư T/ H có tả = VŨ - SÁT , hữu = TỬ PHÁ , tức 1 mặt nhắm vào cái ghế của ông VUA Tử vi , một mặt khác nhắm vào Tài lực ( VŨ ) và Quyền hành ( Sát , Vũ ), cho nên tham vọng về chính trị khá rõ nét , chỉ cần Mệnh có Tuần / Triệt + Cát tinh là có khả năng lãnh đạo , tham chính và ngồi ở những chức vị cao ( khoảng trên dưới Thống Đốc cho đến Tổng Thống / Chủ tịch Nước ), nhưng cách này thừa hay bị ngồi Tù khá lâu rồi mới được lên ngai Vua ( nước ta có Phạm Hùng từng tắm biển ở Côn đảo / Phi châu có ông TT gì quên tên cũng nổi tiếng lém , ngối tù trên 20 cuốn lịch xong mí làm TT ).
5/ ĐỒ TỂ CÁCH :
Tại sao LIÊM THAM T/ H lại là đồ tể cách ?
Cái này phải giải thích về Hình tượng :
THAM = Thịt các loại , thịt heo , con heo .
LIÊM = Hàng rào , nhà tù , cái chuồng ...
Mệnh viên mà thấy có CON HEO cùng CÁI CHUỒNG = cái chuồng heo , Mệnh viên là tượng cho khung viên cái nhà mình ở lại có cái chuồng heo bên trong !
Quan Cung thấy có : VŨ / SÁT .
VŨ = cắt ra , mổ ra , chia ra , phân ra .
SÁT = giết
Vũ Sát = giết mổ , cắt giết .
Mệnh có chuồng heo , Quan lại chủ về giết mổ thì đương nhiên là làm nghề liên quan đến ĐỒ TỂ , có khi làm nhân viên xắc thịt , cung cấp thịt , làm trong những hảng xưởng cung cấp thịt bò , heo , cũng có khi làm những nghề như Công an đặc biệt , Sát thủ , Đao phủ thủ .
Ở những lá số bị giết xong bị cắt ra như vụ án không đầu , thường thì nạn nhân bị dính vào 2 cách trên .
LIÊM THAM Tại HỢI :
Nếu dùng tính chất Ngũ Hành thì thấy Liêm tại HỢI = Hỏa bị TỬ / TUYỆT . Tham Mộc lâm Hợi tuy là ĐẮC ( Thủy cung sinh Mộc ) nhưng không Hợp Cách là vì THAM là loài GIÁP mộc ( Dương Mộc ) , Giáp Mộc sẽ bị phiêu phù ( trôi nổi/ trôi giạt ) tại Hợi vì Hợi cung nước nhiều mà không thấy có Thổ .
Như vậy tại Hợi , Liêm Tham vẫn tiếp tục bị HÃM . Về Tính cách thì vì nằm trong chung Trục TỴ/ HỢI nên Tổng quát mà nói thì luận giải như Liêm Tham cư TỴ , CHỈ KHÁC VÀI CHỖ :
- liêm tham cư Hợi nói chung đỡ vất vả hơn Tỵ vì sở đắc ÂM DƯƠNG sáng ! Bộ ĐỒNG LƯƠNG / THIÊN CƠ cũng đắc cách hơn , nên phải nói Liêm Tham cư HỢI không có gì đáng lo cho lắm .
- Hội KÌNH tại MÃO ( thay vì DẬU ) = dễ tù tội .
- Tuổi KIM ngồi tại Thủy cung cũng đẹp , có sách nói cần thêm Hóa Kỵ , nhưng có lẽ KỴ là cần cho cung TỴ , chứ tại HỢI Thủy vượng không có lý cần thêm Hóa Kỵ .
- HỎA Mệnh tọa Hợi = Tử Hỏa , bất Cát .
VỀ Tính lý của Hành HỎA trong Tử vi , ta vẫn chưa xác định rõ ràng , chẳng hạn như có Bạn hỏi tại sao gọi TỴ LÀ Bính ? ( mà không phải là Đinh ) .
Gọi Tỵ là BÍNH là dựa theo cách An LỘC TỒN :
BÍNH / MẬU thì LỘC TỒN tại TỴ .
Đúng ra theo Luật ÂM / DƯƠNG thì TỴ = ÂM cung , Hỏa tại Tỵ phải là Âm Hỏa chứ ?
Thật ra không hoàn toàn như vậy , có thể là Ngũ Hành thuộc Dương sẽ tọa ÂM cung và ngược lại , chẳng hạn như :
NHÂM Thủy là Dương Thủy tọa Âm cung ( Hợi ),
QUÝ Thủy là Âm Thủy tọa Dương cung ( Tý )
Hai Hành MỘC và KIM thì thấy An đúng Vị Âm Dương .
NGOÀI ra Cách VÂN LẬP VÔ PHONG cũng chỉ dùng cho Liêm Tham cư TỴ , Đối với HỢI thì không đúng .
- Các Cách lãng đãng , phiêu lưu , mạo hiểm , Đồ tể , Dâm đãng , v.v đều áp dụng được tại HỢI ,
- CÁCH tù tội tại HỢI vẫn áp dụng được nhưng không thể giải thích bằng Ngũ Hành mà phải giải thích bằng Cung vị .
( TUẤT - HỢI = Địa Võng , Thìn - Tỵ = Thiên La .
Liêm Hãm = Tù Tinh
Liêm cư Võng / La = TÙ TINH NHẬP VÕNG cách . )
Thổ Thành hay không thành là luận về KHÍ , cái này tôi đã luận qua trong 1 bài Tử Bình rùi , Còn đây là đang luận về CHẤT ( không phải Vật chất nha ! ) cho nên nói không thấy THỔ ( Hợi cung thành phần gồm NHÂM = 70 % , GIÁP = 30 % ) . Muốn hiểu tại sao Giáp trôi mà Ất không trôi thì phải vận dụng ..đầu óc , nếu nghĩ không ra thì cò thể hỏi TkQ.
Khi luận Liêm Tham tại Hợi thì đa phần phải focus vào Trục Tỵ Hợi và lấy nó làm Chính để luận , vấn đề thứ nhì phải biết là dù có Khí mà không có Chất thì cũng chẳng làm gì được , tựa như biết làm và muốn làm 1 cái bánh Pizza mà lại không có bột vậy . NẾU HẠN có TRIỆT ở Liêm Tham Tại TỴ thì đã phá đi Cách Vân lập vô phong và những cách xấu khác , nếu tại đây có thêm đa Cát tinh thì sẽ thành Phản vi kỳ , rất đẹp .
Liêm Tham Tuyệt Linh là 1 cách rất HAY , thứ nhất là Bộ này không cần phải đóng tại Tỵ/ Hợi , tuy rằng tại T/H dường như có Tác dụng mạnh nhất . Thứ nhì là không cần phải đồng cung 9 Đồng cung thì nguy lắm ),
Thứ ba, riêng bộ này đã có nghĩa là Bần khổ cô yểu rồi , gặp riêng Bộ này đã muốn ...die rùi , cần gì phải có thêm bộ Kình Kiếp Không Hư Mã ? vì riêng Bộ K KK HM đã có nghĩa là cô bần rùi . Cái này cũng giống như đập 1 Búa thấy còn ngáp ngáp thì chơi luôn 1 cái Búa tạ nữa cho ..chắc !
Làm Chính trị ở thế Tử Phá / Liêm Tham thì phải chịu cảnh 3 chìm 7 nổi , vào tù ra khám , suýt mất mạng mấy lần mới Thành công chứ không phải thuộc loại ngồi trong Khách sạn Caravelle đưa Thỉnh nguyện thư ...chống Chính phủ , không thể nói Đại Hạn tại TỴ lên hay không lên , Tuy rằng lá số này rất có Bản lãnh . Vì còn tùy thuộc Hoàn cảnh Khu vực , thế đứng của Đương sự , Thế của Đối phương ( CQ ) , có những thứ có tính cách QUYẾT ĐỊNH mà nó lại nằm ngoài lá số .
Đây là 1 môn đấu trí , nhiều khi chỉ 1 câu mà nghĩ vài giờ không ra , nhưng đa phần là dễ chứ không khó , nhưng khi suy ra 1 nước cờ , ví dụ như nước cờ :" Tiên Vương vừa mới Băng hà !" khi đưa ra 1 nước thì phải có lý do và lý do này phải được giải thích trong Phạm vi của Tử vi ( và các Môn học liên quan như Dịch , Ngũ hành .. )để người đọc có thể hiểu và chấp nhận . Chứ không phải muốn nói sao thì nói , hay " liêu trai chí dị " như Lão nói đâu .
Còn nước cờ Cao hay Thấp , đúng hay sai hay tạm chấp nhận được hay quá tệ ... là do công lực , cơ trí và tu vi của mỗi người .
Khi chơi Bạn phải có Bản đồ 14 chính Tinh trước mắt ( bấm tay cũng tốt ) , đó là điều tiên quyết . Nếu Bạn nào pót được thì hay quá !
Đứng ngoài Các Bạn có thể chỉ vẽ nước cờ , góp ý , hoặc đưa nguyên 1 Bàn cờ Thế của Bạn để mọi người luận giải , nếu không giải hết 100% ,sau cùng Bạn phải tự giải.
CÓ thể nói choi Tử vi tức là chơi cờ Tướng ! Cờ Tướng thì có 32 Quân và 72 ô , Tử vi thì có khoảng 114 Tinh cùng 12 Cung , mỗi Chính tinh ( hoặc 2 CT ) đóng ở cung nào cũng có 1 Vị trí rất đặc biệt , xưa nay ít ai bàn đến , nay tại hạ xin được phép hạ cờ đi trước ,tán gẫu vài dòng về 1 số Thế cờ .
1/ THẾ TỬ VI CƯ TÝ :
Đây thuộc Quẻ Địa lôi phục, nhất Dương sinh ,
Tượng = Ấu Chúa đương quyền .
Tiên Vương mới vừa giá băng , Ấu Chúa chỉ vào khoảng 2t -16 t , lên đăng cơ trong khoảng thời gian từ 2- 6 tuổi .
Vì còn quá trẻ , việc Triều chính được giao cho 2 Quan Đại Thần nhiếp chính ( 1 Quan Thái Phó và quan Hình bộ Thượng thư,) , Thái hậu và đám Cung Tần của Tiên đế vì không có thực quyền ( Thái hậu không phải là Mẹ ruột của Vua , Mẹ ruột đã quy tiên ), lui về tỵ vị ở các cung phòng mé Đông bắc gần cựu Dinh của Thái tử .
Việc phòng vệ Cấm thành được giao cho 1 viên lão Tướng trấn giữ . Đế thường lui tới với đám Hoàng huynh ở miền Tây Bắc . Đám anh em này đang ngấm ngầm thông đồng cùng Thái hậu , âm mưu soán vị .
Tình hình trong nước tuy vậy tương đối ổn định , kho vựa đầy đủ, mặt trận miền Tây vẫn không xao động , mùa màng tuy có bị bão lụt ,nhiều nơi dân cư xiêu tán , đồng ruộng bỏ hoang , nhưng chưa đến nỗi có nạn đói .
trước mắt nếu không có phương lược , e rằng nhân dân sẽ ta thán và có thể giặc giã nổi lên .
Thử giải 1 vài điều :
* Thuộc quẻ Địa lôi phục =
Thiên Nhất sinh Thủy, Địa nhị thành chi : tức trước tiên Thủy được sinh ra , ở đâu ? dĩ nhiên là trên Địa cầu , có nước kết hợp với đất thì vạn vật sẽ được nảy sinh , cho nên nói là Địa nhị thành chi ( thành = thành hình ), Địa nhị = Khôn có số là 2 , hoặc có thể hiểu là quẻ thuần Khôn .
Từ Mùi đi đến TÝ thì đã thành thế cực Âm ( Lão Âm ), cực Âm thì sẽ hóa sinh thành Thiếu Dương , như vậy Cung Tý nơi từ Thuần Khôn hóa thành Thiếu Dương ,( hóa thành 1 Hào Dương bên dưới ) sẽ biến ra quẻ Địa lôi phục .
Tử vi cư Tý là nơi Thiếu Dương vừa mới sinh ra cho nên được gọi là Ấu Chúa . Chúa tay Tả nắm Liêm - Phủ , tức nắm Quan lại và kho tàng ( Liêm = Quan lộc chủ / Phủ = quan coi về kho tàng ) , tay Hữu nắm các ban Võ Tướng ( Vũ khúc + Thiên Tướng ) cho nên gọp lại gọi là Ấu Chúa nắm quyền .
Tiên Vương mới Thăng hà :
Trên bàn cờ này , Cung Phụ mẫu trống rỗng , Vô chủ tinh , mà Thái Dương là tượng Vua Cha đang ở Dậu cung = Mặt trời chìm về phương Tây , kết hợp Phụ mẫu VCD , Âm Dương đều hãm , Mẹ không ở bên cạnh khi còn thơ ấu , Cha không có mặt tại Triều dã ( Ngọ cung ) suy ra Cha Mẹ đều đã qua đời !
Môn này xưa kia Lã đại tiên ( Lã động Tân , là người đầu tiên chế ra môn Tử vi ), Ma y lão tổ ( thầy của Trần Đoàn ) bày ra, chỉ mấy ổng chơi với nhau nên rất ít người biết và đã tuyệt tryền từ lâu lắm,( ngay bên Tàu cũng không có ),, bây giờ với góp tay của Quý Bạn , mong rằng môn này sẽ được phơi bày để tưởng nhớ đến công đức của chư vị Lão tổ .
Xin giải tiếp :
3/ Ấu chúa chỉ mới 2- 16 tuổi :
Tử vi cư Tý , Thủy nhị cục là 2t , cao nhất là người Hỏa 6 cục , Đại hạn đầu tiên là 2t -12 t , hoặc 6- 16 , vậy nói chung là từ 2 - 16 . Chúa lúc đó Không thể lớn hơn số tuôi này.
4/ Việc Triều chính giao cho Đại Thần :
Cung Quan lộc của 1 ông Vua ,không phải là thường dân , nên hiểu là việc triều án , cung này có Liêm = chủ về Quan sự , hình ngục, liêm chính cho nên gọi là Hình Bộ TT , Thiên Phủ = Chủ tể Nam cực chư Tinh, chức vị giống như 1 Phó Vương , nên gọi là Thái Phó .
4/ Thái hậu không nắm Thực quyền :
Tiên đế mất , Vua kế vị còn trẻ , thường thì Thái hậu có quyền thùy liêm thính chính , nhưng ở đây Phụ Mẫu VCD , Thái Âm lại cư Tỵ = gọi là Tỵ vị = nhường, tránh né, ẩn náu. Mẫu thân có con lên làm Vua mà phải tỵ vị và vô quyền ( ÂM Hãm = vô Quyền ) thì ngờ là không phải Mẹ đẻ . Âm = còn chỉ Quần nữ , nên gọi là Phi Tần ).
Tỵ = Đông Bắc . Dinh Thái tử theo tục lệ phải ở phía Đông của Cấm cung , cho nên nói là ở gần Cựu Dinh , vì Thái tử lên ngôi tất nhiên phải move nhà !
5/ Lão Tướng phòng vệ Cấm thành :
Tham cư Hỏa địa ( Ngọ ) là Tượng 1 Tướng lãnh đã từng xông pha trận địa ( nơi khói lửa ) , Tham thuộc Mộc , Trường sinh tại Hợi , đến Ngọ là Tử , tức chỉ sống dưới 10 năm thì chết ( Đại hạn tới là Mộ = nhập mộ = chết ), nếu không già thì gọi là gì ? Ngọ cung = Cấm thành .
6/ Hoàng huynh đang liên kết với Thái Hậu :
Thiên Cơ = chủ về anh em , Hợi = Tây Bắc . Trục Âm - Cơ = âm mưu giữa Thái hậu và các Hoàng Huynh ( Cơ = cơ mưu , Âm = u ám , âm thầm / cũng chỉ Thái Hậu . Đám này vì không có thực quyền , thấy Vua còn trẻ , nên tính chuyện đoạt ngôi .
7/ Trong nước ổn định :
Thiên Phủ , Vũ khúc đều Miếu/ Đắc = kho vựa , kinh tế ổn định . Phía Tây thùy thấy Vũ - Tướng đóng nên đoán là có can qua ở đó . Vũ - Tướng Đắc địa ở thế mạnh, chứng tỏ Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh .
8/ Mùa màng :
Thiên cơ = cơn đói , nạn đói . Cơ cư Hợi = nạn đói đang xảy ra ở những chỗ ngập lụt , tuy vậy vẫn còn cá ..khô để ăn , vì Hợi = Song ngư tòa .
Tỵ là Hỏa địa , chỗ đất nóng , mà thấy khí tròi âm u ( Thái âm ) , và Tỵ = Tốn cung = chủ về gió bão , cho nên nói là có bão lụt .
Điền cung Vô chủ tinh , trống rỗng , cho nên nói là dân cư xiêu lạc , đồng ruộng thiếu nhân canh . Tuy nhiên kho thóc còn đầy đủ nên chưa đói lắm .
Đồng - Cự cư Ách = đang có sự kêu ca của dân chúng ( Đồng = cùng nhau , đồng bào . Cự = kêu la , cụ nự ), chỗ này tùy tình hình chính trị, kinh tế mỗi Thời , mỗi nơi, mỗi nước mà luận .
2/ THẾ CỜ LOẠN THẾ ANH HÙNG
( ANH HÙNG THỜI LOẠN ):
Tức Thiên Tướng cư Mão cách .
Thiên Tướng cư Mão là nơi lạc hãm ,nơi đây có Tượng là :
- Liều mình vì nguyện ước .
- Dấn Thân chống cường tặc .
Phê số là :
- Sinh bất phùng thời:
Nếu ngộ Ác tinh , Kỵ : Kình Đà Hình Triệt / Phá Đà Kiếp ./ Hỏa Linh xung phá . Giáp / Canh sinh nhân = chủ khốn trệ , bất hiển .
-Phê số là :
Phát võ Hầu Bá .
Nếu gặp : Sinh / Vượng + Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương ( số Lã Bố ). Hoặc ngộ Hình Quyền Tướng Ấn + Hổ Khốc Mã =
Đại công cáo thành . Ngộ Tả Hữu xương khúc = chấp chưởng đại quyền . Ất / Tân sinh nhân = Cát lợi .
BÀN CỜ :
Trên Bản đồ lộ số nhà Vua đã bò trống Kinh Thành , chạy tỵ nạn về hướng Đông Bắc , có mang theo 1 Đại Tướng và đoàn tùy tùng hộ giá .
Quân phiến loạn đã dàn 2 Binh đoàn đang trên đường Tây tiến , nay cách Hoàng cung 60 Dặm . Dân chúng hoảng sợ di tản bằng đủ loại phương tiện , cảnh vườn không nhà trống kéo dài đến gần trăm dặm !
Các Phiên Thần thì đang ở xa , nơi sơn cùng thủy tận không kịp về cứu giá , tình hình rất là nguy ngập ,vì phần chính là lương thực rất giới hạn . Đại tướng quân thì không thể bỏ vua ra chiến trường ứng địch , còn lại đám bồi Thần , Mưu sĩ có trí mà không có sức thì làm gì được trong lúc kinh thành nguy loạn ?
1/ Vua đã bỏ trống Kinh Thành :
Tử Vi từ Ngọ cung là Kinh đô chạy về đồn trú hưởng phước ở Tỵ cung ( Tây Nam , không phải Tây Bắc ), có mang theo 1 Đại Tướng tùy giá là Thất sát .
2/ Quân Phiến loạn đã dàn 2 Binh đoàn ... :
Trong bàn cờ này , Thiên Tướng cư Mão tọa Mệnh được xem là nhân vật Chính , do đó Đối cung chính là đối phương =
phe Phiến loạn , 2 Binh đoàn = Liêm / Phá mỗi Tướng quân dẫn 1 Binh đoàn .
Cách Hoàng cung ( Ngọ môn ) 60 dặm :
Quân Phiến loạn cách Kinh Thành ( Ngọ cung ) chỉ có 2 cung 2 x 30 độ ( 1 cung = 30 độ ) = 60 . Cảnh vườn không nhà trống kéo dài cả trăm dặm vì + thêm Hoàng cung .
3/ Các Phiên Thần thì đang ở xa :
Thiên phủ = Phiên thần , tại Hơi cung là cung cuối cùng của vòng Đia chi ,là nơi Mã không còn đường chạy ( Mã cùng đồ ) vã lại Hợi cung = Đại hải thủy nên gọi là chốn sơn cùng thủy tận .( sơn cùng = núi chạy đến biển thì phải dừng / sông ( Thủy ) cũng vậy } .
4/ Tuy có Cơ Lương tại Thìn nhưng vì đang loạn lạc , Điền tại Ngọ bỏ không , nên nói lương thực giới hạn .
Tình hình nguy ngập như vậy , rơi vào thế không ai ra ngăn giặc , Thiên Tướng lúc này đang ở sơn lâm ( Mão ) chắc đang là ..Động chủ như Lê Lợi vậy , trong tay chưa có sự nghiệp ( Quan lộc trống không ), chỉ nhờ vào sự ủng hộ của 1 vài lãnh tụ địa phương ( tay phải nắm Tài tinh Thiên Phủ ) mà đến lúc phải đứng ra đối diện với quân thù .
Cách này nếu thành lập thành công thì có thể gọi là Loạn thế phùng Quân cách !
Xưa thì Cách này giống như tình thế của Anh Hùng Lê Lợi .Gần đây thì thấy giống như Đệ Nhị CH , thế Giặc cũng từ Tây nguyên tràn xuống ( Dậu = Tây nguyên ), đồng bào kéo nhau mang gia đình , vợ con , lều chõng , xe cộ , tài vật ..v.v bám theo sát chân ..lính Ngụy , cái bọn lính Ngụy này chạy đến đâu đồng bào chạy đến đó , không hiểu tại sao , cảnh vườn trống nhà không , chó không sủa mèo không kêu ( vì đói,không ai cho ăn ) , khói lủa thì đâu đâu cũng có ( đám đông chạy loạn bị Phiến quân lấy đại bác nện theo , xác chết nhiều đoạn làm nghẽn cả lối xe chạy ) , đọan đường tản cư gian hiểm này dài bao nhiêu ? có bao người ngã gục ? chẳng ai thèm nhắc đến , 1 trang sử đã qua .
Có điều TT Thiệu lại chạy về hướng Đông Bắc , và Thiên Tướng là ai cũng không bao giờ xuất hiện , đây đúng là thời buổi của những Anh Hùng vô lệ ( không còn nước mắt để khóc ) , những anh Hùng sống trong Thành phố đông người mà thấy bị rình rập , lẻ loi và helpless ! đây là thời đại của oan khiên ngút ngàn , tất cả những gì xấu xa ghê tởm nhất đều được đánh đổ lên con người và nhân phẩm của họ .
Đâu còn cái gì là của Anh Hùng thời loạn ?
3/ THẾ LIÊM THAM TỴ/ HỢI :
Tượng : Tha hóa kỷ cương ,
Nhũng lạm dâm tà ,
Ác nhân ác báo .
Phê số : Hình trượng nan đào .
Nam đa lãng đãng nữ đa dâm .
Tửu sắc táng thân , lưu đãng thiên nhai, bất thuần khiết , tao quan hình .
Hạ tiện cô hàn, bôn tổ ly gia .
Giáp Bính Mậu Kỷ Nhâm : dù được hưởng phúc cũng không bao lâu , ngộ Lộc tồn = phú quý khả kỳ .
Liêm Tham Tỵ / Hợi + Xương Khúc = đa hư thiếu thiệt .
Nếu gia thêm Hóa Kỵ , tuổi Bính bị họa , tuổi Giáp bất nghi .
Hội Kình tại Dậu = gông cùm khó thoát .
Nữ Mệnh : Các tuổi Bính Tân Ất Mậu = Thanh bạch ..
Đa Sát tinh ; Xướng kỷ .
LIÊM THAM Tỵ / Hợi là 1 thế cách rất hay , còn tồn đọng những bí ẩn chưa ai giải thích , như tại sao Liêm thuộc HỎA rơi vào Hỏa cung mà lại xấu , Hãm ?? Điều này tuy nhỏ , nhưng nếu giải thích được thì có thể áp dụng để giải thích những ngờ vực tồn đọng trong các tư thế Đắc Hãm còn chưa được giải quyết 1 cách rốt ráo .
Cũng như Cách Liêm Tham Tỵ / Hợi được gọi là VÂN LẬP VÔ PHONG ! Tại sao ?
Sao gọi là Đồ tể cách ? Lãng đãng cách ?
1/ LIÊM THAM TỴ / HỢI : VÂN LẬP VÔ PHONG cách.
Liêm là Âm Hỏa ,tại Tỵ thuộc Bính Hỏa , tại Bính , Tứ Hóa là ĐỒNG CƠ XƯƠNG LIÊM , như vậy Liêm tại Bính ( Tỵ ) thì Tự Hóa và biến thành Hóa Kỵ !
Hóa Kỵ là Ám tinh có tượng là HẮC VÂN ( mây đen ) , tại Tỵ = Tốn cung , chủ về gió bão , gió lại chủ về Thời cơ/ cơ hội . ( như các câu Long Hổ phong vân , Long tòng vân Hổ tòng Phong , Phong vân tế hội , Đón gió trở cờ v.v Long Hổ là chỉ Anh hùng hào kiệt , Phong vân là chỉ Thời thế .
Ở dây ta biết Gió = chỉ cho Thời cơ , nhưng vì Tham Mộc cư Hỏa địa , hôi tận , cháy thành tro than ; Liêm tuy là Hỏa lạc vào Hỏa địa thì ĐẮC , nhưng đã tự Hóa thành Kỵ ,như vậy 2 Chủ Tinh đều thuộc tình thế không Đắc cách ,bị Hãm lạc cho nên khó gặp Thời cơ , tựa như 1 đám mây đen lơ lửng giữa lưng trời đứng gió , đó là nguyên nghĩa của Vân lập vô phong .
Mấy Cụ thời xưa rất thâm thúy ,lại dư thì giờ nên có nhiều dịp để chơi chữ , người xưa đặt tên cho con cháu hay cho 1 con sông , hòn núi , hay tên 1 địa phương nào cũng vậy , nhất là tên Hiệu , Thụy/ Húy .v.v đều nghiên cứu rất kỹ , như 1 địa phương muốn thay đổi cái name của nó cũng phải đệ đơn lên , bị bác vài lần ( thay đổi tên vài lần ) mới được chấp thuận chứ không phải như ngày nay cứ đặt tứ tung , tên đường là Lê văn Tám ! Võ thị Sáu , Kách mệnh tháng Tám , Ba tháng Hai , kết hợp với Đường số Bốn ngày xưa ( tức Hồng Bàng / Charles Thompson ) và đường Bùi hữu Nghĩa ( đường số 5 & 7 cũ ) với lại đường Église ( Rue de # 1 ) thì ta sẽ có 1/2/4/5/ 6/7/8 số nào cũng có gần đủ 10 , cứ làm như chơi số đề !
. Đường Tự Do ( Catinat ) ngày xưa ngay trung tâm TP có tên hay như vậy đổi thành Đồng khởi ( = Cánh đồng của những con khỉ / sự đồng lòng của bầy khỉ )nói chung thì nghe cũng hay hay , tuy có hơi rừng rú 1 tí .
Nhớ lại ngày xưa Nguyễn Ánh ( không phải Nhạc sĩ Nguyễn ánh 9 đâu nhá ) cùng triều thần bàn định việc phong Hiệu , không biết tay nào đưa ra từ GIA LONG thật là quá hay , Đời Hậu Nguyễn đến thời Nguyễn Ánh ai cũng cứ tưởng là đi đứt ( Hoàng tộc bị giết gần hết ) thế mà làm cách nào Nguyễn Ánh lại lóp ngóp bò lên được ngôi Vua thi không ai hiểu nổi . Gia = thêm vào , dựa theo âm vận . Long = Long mạch . Gia Long = nối tiếp , kế tục Đế nghiệp của nhà Nguyễn . và Gia = Gia Định Thành .
Long = Thăng Long Thành . Gia long = sự thống nhất đất nước từ Thăng long đến Gia định . Như vậy Hiệu Gia long có 2 nghĩa mà nghĩa nào cũng hay .
2/ LÃNG ĐÃNG CÁCH :
Tại Tỵ / Hợi , Liêm - Tham đều là Đào hoa tinh , dễ đa tình , đa dâm , đa phu / thê . Tỵ lại là 1 trong tứ Sinh / Mã . Liêm Mã / Tham Mã = Chơi bời phóng túng , không chịu ngồi yên ở nhà , vì thế có câu :
Nam đa lãng đãng , Nữ đa dâm .
3/ Phu Thê cung nếu có Liêm Tham Tỵ/ Hợi hoặc VCD bị Liêm Tham chiếu cũng vậy :
Thường thích lấy Vợ / Chồng là người đã trải qua kinh nghiệm ( thường là có 1 đời vợ/ chồng ), chứ không thích trai / gái mới lớn lên còn origin !
Vì Liêm = còn có nghĩa là Liêm khiết , thanh khiết .
Trinh khiết ( còn Trinh trắng ). Thế nhưng em gái Liêm rơi vào Tỵ cung bị Hãm !!! lại thấy có thằng quỷ dâm chúa Tham lang bên cạnh thì còn zì là ....
Thôi dồi một đóa phù dung ,
bướm ong nay đã thong dong mấy phùa ...
4/ Có khuynh hướng thích CHÍNH TRỊ :
Liêm -Tham cư T/ H có tả = VŨ - SÁT , hữu = TỬ PHÁ , tức 1 mặt nhắm vào cái ghế của ông VUA Tử vi , một mặt khác nhắm vào Tài lực ( VŨ ) và Quyền hành ( Sát , Vũ ), cho nên tham vọng về chính trị khá rõ nét , chỉ cần Mệnh có Tuần / Triệt + Cát tinh là có khả năng lãnh đạo , tham chính và ngồi ở những chức vị cao ( khoảng trên dưới Thống Đốc cho đến Tổng Thống / Chủ tịch Nước ), nhưng cách này thừa hay bị ngồi Tù khá lâu rồi mới được lên ngai Vua ( nước ta có Phạm Hùng từng tắm biển ở Côn đảo / Phi châu có ông TT gì quên tên cũng nổi tiếng lém , ngối tù trên 20 cuốn lịch xong mí làm TT ).
5/ ĐỒ TỂ CÁCH :
Tại sao LIÊM THAM T/ H lại là đồ tể cách ?
Cái này phải giải thích về Hình tượng :
THAM = Thịt các loại , thịt heo , con heo .
LIÊM = Hàng rào , nhà tù , cái chuồng ...
Mệnh viên mà thấy có CON HEO cùng CÁI CHUỒNG = cái chuồng heo , Mệnh viên là tượng cho khung viên cái nhà mình ở lại có cái chuồng heo bên trong !
Quan Cung thấy có : VŨ / SÁT .
VŨ = cắt ra , mổ ra , chia ra , phân ra .
SÁT = giết
Vũ Sát = giết mổ , cắt giết .
Mệnh có chuồng heo , Quan lại chủ về giết mổ thì đương nhiên là làm nghề liên quan đến ĐỒ TỂ , có khi làm nhân viên xắc thịt , cung cấp thịt , làm trong những hảng xưởng cung cấp thịt bò , heo , cũng có khi làm những nghề như Công an đặc biệt , Sát thủ , Đao phủ thủ .
Ở những lá số bị giết xong bị cắt ra như vụ án không đầu , thường thì nạn nhân bị dính vào 2 cách trên .
LIÊM THAM Tại HỢI :
Nếu dùng tính chất Ngũ Hành thì thấy Liêm tại HỢI = Hỏa bị TỬ / TUYỆT . Tham Mộc lâm Hợi tuy là ĐẮC ( Thủy cung sinh Mộc ) nhưng không Hợp Cách là vì THAM là loài GIÁP mộc ( Dương Mộc ) , Giáp Mộc sẽ bị phiêu phù ( trôi nổi/ trôi giạt ) tại Hợi vì Hợi cung nước nhiều mà không thấy có Thổ .
Như vậy tại Hợi , Liêm Tham vẫn tiếp tục bị HÃM . Về Tính cách thì vì nằm trong chung Trục TỴ/ HỢI nên Tổng quát mà nói thì luận giải như Liêm Tham cư TỴ , CHỈ KHÁC VÀI CHỖ :
- liêm tham cư Hợi nói chung đỡ vất vả hơn Tỵ vì sở đắc ÂM DƯƠNG sáng ! Bộ ĐỒNG LƯƠNG / THIÊN CƠ cũng đắc cách hơn , nên phải nói Liêm Tham cư HỢI không có gì đáng lo cho lắm .
- Hội KÌNH tại MÃO ( thay vì DẬU ) = dễ tù tội .
- Tuổi KIM ngồi tại Thủy cung cũng đẹp , có sách nói cần thêm Hóa Kỵ , nhưng có lẽ KỴ là cần cho cung TỴ , chứ tại HỢI Thủy vượng không có lý cần thêm Hóa Kỵ .
- HỎA Mệnh tọa Hợi = Tử Hỏa , bất Cát .
VỀ Tính lý của Hành HỎA trong Tử vi , ta vẫn chưa xác định rõ ràng , chẳng hạn như có Bạn hỏi tại sao gọi TỴ LÀ Bính ? ( mà không phải là Đinh ) .
Gọi Tỵ là BÍNH là dựa theo cách An LỘC TỒN :
BÍNH / MẬU thì LỘC TỒN tại TỴ .
Đúng ra theo Luật ÂM / DƯƠNG thì TỴ = ÂM cung , Hỏa tại Tỵ phải là Âm Hỏa chứ ?
Thật ra không hoàn toàn như vậy , có thể là Ngũ Hành thuộc Dương sẽ tọa ÂM cung và ngược lại , chẳng hạn như :
NHÂM Thủy là Dương Thủy tọa Âm cung ( Hợi ),
QUÝ Thủy là Âm Thủy tọa Dương cung ( Tý )
Hai Hành MỘC và KIM thì thấy An đúng Vị Âm Dương .
NGOÀI ra Cách VÂN LẬP VÔ PHONG cũng chỉ dùng cho Liêm Tham cư TỴ , Đối với HỢI thì không đúng .
- Các Cách lãng đãng , phiêu lưu , mạo hiểm , Đồ tể , Dâm đãng , v.v đều áp dụng được tại HỢI ,
- CÁCH tù tội tại HỢI vẫn áp dụng được nhưng không thể giải thích bằng Ngũ Hành mà phải giải thích bằng Cung vị .
( TUẤT - HỢI = Địa Võng , Thìn - Tỵ = Thiên La .
Liêm Hãm = Tù Tinh
Liêm cư Võng / La = TÙ TINH NHẬP VÕNG cách . )
Thổ Thành hay không thành là luận về KHÍ , cái này tôi đã luận qua trong 1 bài Tử Bình rùi , Còn đây là đang luận về CHẤT ( không phải Vật chất nha ! ) cho nên nói không thấy THỔ ( Hợi cung thành phần gồm NHÂM = 70 % , GIÁP = 30 % ) . Muốn hiểu tại sao Giáp trôi mà Ất không trôi thì phải vận dụng ..đầu óc , nếu nghĩ không ra thì cò thể hỏi TkQ.
Khi luận Liêm Tham tại Hợi thì đa phần phải focus vào Trục Tỵ Hợi và lấy nó làm Chính để luận , vấn đề thứ nhì phải biết là dù có Khí mà không có Chất thì cũng chẳng làm gì được , tựa như biết làm và muốn làm 1 cái bánh Pizza mà lại không có bột vậy . NẾU HẠN có TRIỆT ở Liêm Tham Tại TỴ thì đã phá đi Cách Vân lập vô phong và những cách xấu khác , nếu tại đây có thêm đa Cát tinh thì sẽ thành Phản vi kỳ , rất đẹp .
Liêm Tham Tuyệt Linh là 1 cách rất HAY , thứ nhất là Bộ này không cần phải đóng tại Tỵ/ Hợi , tuy rằng tại T/H dường như có Tác dụng mạnh nhất . Thứ nhì là không cần phải đồng cung 9 Đồng cung thì nguy lắm ),
Thứ ba, riêng bộ này đã có nghĩa là Bần khổ cô yểu rồi , gặp riêng Bộ này đã muốn ...die rùi , cần gì phải có thêm bộ Kình Kiếp Không Hư Mã ? vì riêng Bộ K KK HM đã có nghĩa là cô bần rùi . Cái này cũng giống như đập 1 Búa thấy còn ngáp ngáp thì chơi luôn 1 cái Búa tạ nữa cho ..chắc !
Làm Chính trị ở thế Tử Phá / Liêm Tham thì phải chịu cảnh 3 chìm 7 nổi , vào tù ra khám , suýt mất mạng mấy lần mới Thành công chứ không phải thuộc loại ngồi trong Khách sạn Caravelle đưa Thỉnh nguyện thư ...chống Chính phủ , không thể nói Đại Hạn tại TỴ lên hay không lên , Tuy rằng lá số này rất có Bản lãnh . Vì còn tùy thuộc Hoàn cảnh Khu vực , thế đứng của Đương sự , Thế của Đối phương ( CQ ) , có những thứ có tính cách QUYẾT ĐỊNH mà nó lại nằm ngoài lá số .