Nhập môn Tử Vi
Bài 1 : Khái niệm cơ bản trong Tử Vi.
A. Tâm thế khi học Tử Vi.
Cuộc sống hiện đại cuốn con người vào những vòng xoáy khác nhau. Với cơ hội tiếp cận thông tin nhanh chóng như hiện nay, tri thức loài người càng tăng tiến. Tuy nhiên, điều cần thiết nhất cho mỗi cá nhân và xã hội hiện nay, chính là sự cân bằng. Cân bằng về cảm xúc, trí tuệ, hành vi và cân bằng trong mỗi cơ cấu cộng đồng. Đã có thời gian, chúng ta đi tìm “điểm cân bằng” ở những giá trị ngoài bản thân. Giả như những thú vui hưởng thụ, sự dư thừa về vật chất hay những tiến bộ về công nghệ thông tin v.v…
Nhưng dần dần, tâm lý con người ngày càng trở nên mong manh, dễ nổi loạn và dễ đổ vỡ. Đây không phải kết luận hàm hồ mà thực tế đã chứng minh bằng những bạo loạn, chiến tranh, mất cân bằng xã hội, khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng hạnh phúc gia đình. Gần đây đã xuất hiện trào lưu “tìm về giá trị cốt lõi bản thân”. Chúng ta đang cố gắng định vị chính mình, hiểu rõ chính mình và cân bằng cuộc sống.
Tử Vi là một giải pháp, một con đường và là đạo nhân sinh. Trong nó dung hòa những triết lý nhân sinh đầy nhân văn, không hề trói buộc, không hề nặng hình thức. Vượt qua thời gian khi nó xuất hiện, Tử Vi không bị lệ thuộc vào những quan điểm nặng tính quy chuẩn cực đoan như “tam tòng tứ đức” hay “ tam thập nhi lập”. Học Tử Vi, chỉ cần thấu hiểu những giá trị nhân sinh tàng ẩn, chúng ta đã có được một nhân sinh quan tương đối hoàn chỉnh.
Tử Vi – với nền tảng lý luận dựa trên Âm Dương – đã đưa ra những luận điểm cơ bản về mâu thuẫn nhưng cùng tồn tại phát triển. Tâm thế khi học Tử Vi, phải dựa trên nền tảng tư duy âm dương. Vậy thì, cũng thật cần khi suy nghiệm một chút về âm dương. Tôi muốn đề cập đến âm dương như một phép tư duy, chứ không phải với tư cách là một học thuyết. Tư duy âm dương cho phép chúng ta có được sự cân bằng trong mỗi suy tưởng, mỗi hành vi và mỗi kinh nghiệm. Điều này sẽ được minh chứng qua những vấn đề cơ bản trong học thuyết âm dương.
- Sự đấu tranh đối lập của âm dương.
Học thuyết âm dương cho rằng, tất cả sự vật và sự việc đều tồn tại hai mặt âm dương đối lập tương hỗ. Như ngày có ngày và đêm, giống loài có đực và cái, nhiệt độ có nóng và lạnh v.v… Sự đấu tranh đối lập của âm dương thúc đẩy sự phát triển biến hóa của sự vật. Như thiện và ác, như chính và tà, như tâm linh và khoa học v.v…
- Âm dương tương hỗ
Tuy âm dương đối lập nhau, nhưng lại dựa vào nhau để tồn tại, dù là từ phía nào đều không thể thoát ly đối phương để tồn tại độc lập. Đó gọi là trong âm có dương, trong dương có âm. Như trong họa tàng ẩn phúc, trong ác chứa mầm mống sự thiện, trong cái đổ vỡ cảm nhận được giá trị của hạnh phúc giản đơn. Âm dương tương hỗ đặt ra mệnh đề về nhân quả. Nếu như không có bóng tối sẽ không nhìn nhận được ánh sáng, không có động sẽ chẳng có tinh, không có thực thì cũng chẳng có hư…. Cũng như, không có ác thì khó nhận biết giá trị của điều thiện. Xưa viết “cô âm bất sinh, cô dương bất trưởng” ý là vậy !
- Âm dương tiêu trưởng.
Tiêu là giảm đi, trưởng là lớn lên. Âm dương không nằm trong trạng thái bất biến, mà nằm trong sự chuyển dịch biến động mang tính kế thừa. Khi âm tiêu thì dương trưởng, khi dương tiêu thì âm trưởng. Như bốn mùa, mùa xuân khí dương lớn lên, đến mùa hạ thì cực thịnh. Đó là dương trưởng, âm tiêu. Đến thu khí trời hàn mát, dương bắt đầu tiêu, âm bắt đầu thịnh. Đến mùa đông hàn khí cực thịnh là âm trưởng dương tiêu. Điều này cũng phản ánh quy luật của vạn vật, khi một trạng thái đạt điểm cực thịnh, tất sẽ có thoái trào.
- Chữ Duyên xen giữa Âm Dương
Âm và Dương không tự mình vận động tạo nên vạn vật. Lấy một ví dụ dễ hiểu, một người nam và một người nữ, tuy cũng là hai mặt âm dương, nhưng không phải đột nhiên kết hợp thành gia đình, từ đó sinh ra một cơ cấu hoàn chỉnh. Âm Dương tương tác vận hành, cần có một chữ Duyên ở giữa làm chất xúc tác. Điều này vô cùng hệ trọng , chính nó tạo nên những “biến số” cho vũ trụ, làm nên điều kì diệu của cuộc sống. Phật giáo đã nhắc đến chữ Duyên. Thiên Chúa giáo cũng nhắc đến dưới hình ảnh “Chúa Thánh Thần” – ngôi thứ 3 trong ba ngôi Thiên Chúa. Trong Tử Vi, chữ Duyên này là nhân duyên, nó tàng ẩn và là yếu tố vô cùng hệ trọng. Trên đây khái quát một cách cơ bản về học thuyết âm dương. Để biến một học thuyết thành phép tư duy, cần có sự suy nghiệm. Bạn đọc cố gắng đọc nhiều lần nội dung khái quát về học thuyết âm dương, nhắm mắt lại và suy tưởng về cuộc sống. Giả như suy tưởng về họa phúc, về được mất, về vật chất và tinh thần, về tình yêu và trách nhiệm, về đúng và sai, thiện và ác v.v…. Khi chúng ta chuẩn bị một tâm thế tốt, một tâm thế muốn hiểu rõ mình, hiểu đúng người, chúng ta đã nhập môn Tử Vi. Khi chúng ta chuẩn bị một tư duy tốt, một tư duy âm dương, nghĩa là chúng ta đã bắt đầu hiểu Tử Vi. 2. Những khái niệm cơ bản trong môn Tử Vi. Trước khi đi vào những khái niệm cơ bản trong môn Tử Vi, chúng ta bắt đầu bằng một câu hỏi muôn thuở : Số mệnh có hay không? Nếu không dùng tư duy âm dương, chúng ta dễ khẳng định một cách cực đoan và đầy tính niềm tin cá nhân. Nếu nói có, thế thì vai trò của con người là gì? Chẳng lẽ sinh ra đã giàu thì chẳng cần hành động? Nếu nói không, vậy thì dối lòng mất rồi bạn ạ ! Số mệnh bao hàm trong nó định mệnh và vận mệnh, như hai mặt âm dương của sự việc vậy. Định mệnh là cái sẵn có, là định trước, là không thể thay đổi. Ví như bạn sinh ra trong môi trường đó, bố mẹ , anh chị em và hệ thống gien di truyền cố định. Tất nhiên, bạn chẳng thể thay đổi ! Bên cạnh định mệnh là vận mệnh. Vận mệnh là cái tự do ta mà nên, như thói quen, kiến thức, hành vi. Vận mệnh, nói cách khác, là cách ta vận hành định mệnh, là cách ta tiêu tiền với một túi tiền nhất định, là cách ta sử dụng thời gian trong một ngày 24 tiếng. Chúng ta nói đến số mệnh và tin vào việc cải sửa số mệnh. Nghĩa là, chúng ta cần xác định một tâm thế thừa nhận cái ta có và chủ động đối với mỗi hành động của ta. Tử Vi là môn học đầy tính nhân văn, nó chỉ rõ ta là ai, ta như thế nào và ta cần hành động ra sao. Tử Vi không bao giờ là môn học cố định con người tại một tâm thế chấp nhận thụ động số phận. Muốn hiểu rõ Tử Vi, cần nắm chắc những khái niệm cơ bản . Bắt đầu từ khái niệm “lá số Tử Vi”.
- Lá số Tử Vi
Trong một lá số Tử Vi, bao gồm các khái niệm :
- Cung
1 lá số Tử Vi bao gồm 12 cung, mỗi cung biểu diễn bằng một ô như hình sau ( hình vẽ minh họa). Mỗi ô này đặt tên và lấy ý nghĩa của 12 địa chi trong hệ thống lý luận số mệnh học. 12 địa chi bao gồm ( như hình vẽ) : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Tính thuận theo chiều kim đồng hồ. Các cung này là nơi tọa lạc của 12 cặp phạm trù đại diện cho 12 vấn đề của con người. Đó là : Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên Di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức , Phu Thê, Huynh Đệ Bàn về 12 cặp phạm trù, được gọi là 12 cung này là một vấn đề rất rộng lớn và gây khó dễ cho những người mới nhập môn Tử Vi. Tuy nhiên, trong phần nhập môn này, người đọc chỉ cần hiểu theo nghĩa đen. Nghĩa là ý nghĩa toát ra từ tên gọi, chẳng hạn, Phúc đức là nói về dòng họ, tổ tiên. Phụ mẫu là nói về cha mẹ v.v… 12 cung trên sắp xếp theo một trình tự nhất định, tuyệt đối không thể xáo trộn. ( Hình 1) Ngay trong sự sắp xếp này đã ẩn chứa những triết lý nhân sinh sâu sắc. Phần sau sẽ triết giải nhiều hơn về vấn đề này.
- Sao.
Sao là một khái niệm trong Tử Vi. Mỗi sao, chúng ta hình dung như một ẩn trong toán học. Mỗi sao tiềm ẩn nhiều ý nghĩa, khi xét trên mỗi phương diện, chúng mang những ý nghĩa khác nhau nhưng cùng chung một gốc. Tử Vi có hơn 100 sao ( tùy theo từng trường phái ) được phân ra thành các cấp độ, tùy theo sự quan trọng để dễ nhớ. Các sao trong Tử vi được phân bố trên các cung. Tại mỗi cung có các tổ hợp sao khác nhau, dựa vào sự tương tác giữa các sao và các cung, người học có thể đưa ra nhận định và dự đoán về cung đó. Chẳng hạn, cung Phụ mẫu có nhiều sao xấu và tổ hợp thành các bộ xấu, ta tiên đoán tình trạng hôn nhân của bố mẹ gặp nhiều trắc trở.
- Cách cục.
Cục là cục diện, cách là cách thức. Những sao có tính tương quan khi tổ hợp thành một nhóm, chúng được gọi là một cách cục. Khi tổ hợp thành một cách cục, chúng đại biểu cho một ý nghĩa nào đó và thường lớn hơn ý nghĩa riêng lẻ từng sao.