đức mẹ diêu trì kim mẫu - cảm nhận từ một huyền thoại.

Hàn Sĩ Ngô

Lão làng
ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU - CẢM NHẬN TỪ MỘT HUYỀN THOẠI.​
Lời giới thiệu : Mới đây , Tôi được một người bạn bên Hội Phúc Thiện ( Ngày trước cùng đi làm từ thiện trên Sơn La ) gửi tặng một cuốn sách nhan đề : " Huyền thoại Phật Mẫu giáng trần " và nhờ Tôi cho ý kiến thẩm định. Tôi xin trích nguyên văn bức thư đó như sau :
"Anh Hùng thân mến!
Em là Nguyệt bạn chi Oanh trong nhóm Phúc Thiện ở Hà Nội,.Tết năm 2008 được đi từ thiện với anh ở Sơn la. Lâu rồi không gặp anh, anh có khoẻ không a? Năm trước em gọi điện thì được biết anh đang bệnh cột sống phải điều trị bệnh viên. Rồi công việc, gia đinh, con nhỏ ốm triền miên, mọi việc hối hả trôi, em cũng không liên lạc được để thăm anh.
Em gửi mail cho anh có một chuyện xảy ra trong gia đinh sếp ở cơ quan em. Anh đọc file em đính kèm nhé.
Câu chuyển tóm tắt như sau: Năm 2008, vào những ngày 10, 20, 30 âm lịch hàng tháng Phật Địa Mẫu nhập vào con gái của Sếp giảng kinh. Sau đó thì trong gia đình xảy ra nhiều chuyện và hiện nay vẫn vào những ngày đó Phật nhập vào cô em gái của Sếp trong Cần Thơ giảng Kinh. Tất cả sự việc diễn ra trong 2 năm qua được mọi người trong đại gia đình chấp bút lại và in thành quyển " Huyền thoại Phật Địa Mẫu giáng trần" dày 108 trang.
Sếp nói với em muốn đưa lên mạng để mọi người biết đến. Em gửi anh đọc và xin anh ý kiến.
Chúc anh một ngày an lành!
Em Thanh Nguyệt
"
Đối với những vấn đề lớn và khá tế nhị như thế này , Tôi không dám gọi những ý kiến mình là những ý kiến " thẩm định ". Tôi chỉ mong muốn nhân câu chuyện này , chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu { hay còn gọi là Phật Mẫu( vì là MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh và Chúng sanh). Diêu Trì Kim Mẫu ( vì Đức Phật Mẫu ngự tại DTC ). Kim Bàn Phật Mẫu ( vì Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung ). Cửu Thiên Huyền Nữ ( vì Đức Phật Mẫu rất huyền diệu, ngự tại từng Trời Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên ). Đức MẸ thiêng liêng,Đại Từ Mẫu, Thiên Hậu, Địa Mẫu,MẸ sanh.}

Cúi đầu mừng đức Diêu Trì ,
Hóa sanh vạn vật MẪU NGHI THƯỢNG TÒA .
Động lòng thương cõi giới ba ,
Siêu nhiên mật pháp truyền ra tuyệt vời .
Cha lành con thảo trọn đời ,
Tâm nguyền giữ vẹn vạn lời Mẹ khuyên .
Các con vì bởi nghiệp duyên ,
" Hồng Ân Đại Xá Tam Niên " chuyển trần .
Nay con kỉnh lễ ân cần ,
Cầu xin VÔ CỰC hồng ân ban truyền .
Lạy THÀY điểm hóa diệu huyền ,
Xót thương trần tục là miền tao tân .
Xin cho Phật Thánh Tiên Thần ,
Ra tay tế độ hồng trần khổ đau .
Nghiệp con xin dứt trước sau ,
Cầu xin KIM MẪU vạch màu pháp duyên .
Cúi đầu Huỳnh Đạo Khai Nguyên ,
Chúng con hầu kỉnh Thượng Thiên hội này .
Thánh Thần Tiên Phật hiệp vầy ,
Chuyển lời khẩn vái đến Thày Cao Thiên .
Hóa hoằng chơn pháp Tam Niên ,
Từ Tôn Thượng Đẳng phước duyên ngàn đời .
Nguyện rằng lãnh pháp của Trời ,
Năng hành chẳng bỏ , chẳng lơi mặt bày .
Nam mô HUỲNH ĐẠO THIÊN KHAI ,
QUY NGUYÊN TAM GIÁO trần ai lập đời .
Theo từ điển Cao Đài :
Diêu Trì Kim Mẫu - Phật Mẫu Diêu Trì:
• 瑤池金母 - 佛母瑤池
• A: Buddha-Mother.
• P: Bouddha-Mère.
Kim Mẫu: là từ nói tắt của danh hiệu: Kim Bàn Phật Mẫu, nghĩa là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu chứa các nguyên chất để tạo ra chơn thần cho vạn linh.
* Diêu Trì Kim Mẫu là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.
* Phật Mẫu Diêu Trì là Đức Phật Mẫu ở Diêu Trì Cung.
Đây là hai danh hiệu của Đức Phật Mẫu.
I. Đức Phật Mẫu là ai?
Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, khi chưa có Trời Đất, còn trong thời kỳ Hỗn Mang hay Hồng Mông, trong vũ trụ chỉ có một chất khí hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hợp, nhưng vô cùng huyền diệu, gọi là Khí Hư Vô (còn gọi là Tiên Thiên Hư Vô chi Khí).
Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng.
Vũ trụ từ đây bắt đầu có một ngôi Thái Cực duy nhứt, là Đại Hồn của một Đấng duy nhứt được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chúng ta thường gọi là Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương Quang và Âm Quang. Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương Quang, còn Khí Âm Quang chưa có ai chưởng quản, vì Càn khôn Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ có một mình Đức Chí Tôn mà thôi. Đức Chí Tôn mới hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Khí Âm Quang.
Vậy, nguồn gốc của Đức Phật Mẫu là một hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn để làm chủ Khí Âm Quang, cầm phân nửa quyền lực của Đức Chí Tôn và luôn luôn tùng theo mạng lịnh của Đức Chí Tôn. (Khi Đức Chí Tôn tạo dựng ra Càn khôn Vũ trụ tới đâu thì Đức Chí Tôn tiếp tục hóa thân ra các Đấng khác để chưởng quản tới đó).
Vũ trụ tới đây đã có 2 khối chất khí vĩ đại là Dương Quang và Âm Quang, và có 2 Đấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn Vũ trụ là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Sau đó, Đức Phật Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn, thâu lằn sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm Quang phối hợp với Dương Quang để tạo hóa ra các từng Trời, các quả Tinh cầu và các Địa cầu, tạo thành Càn khôn Vũ trụ.
Tiếp theo, Đức Phật Mẫu tạo hóa ra Vạn linh nơi cõi Thiêng liêng vô hình. (Vạn linh gồm đủ Bát hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn).
Rồi Đức Phật Mẫu lại cho Vạn linh đầu kiếp xuống các Địa cầu tạo thành Vạn vật, tức là Chúng sanh. (Chúng sanh gồm: Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại).
PMCK: Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.
* Mỗi một người nơi cõi thiêng liêng đều có 2 thể:
• Một Chơn linh, tức là Linh hồn, do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn linh nầy chỉ là một điểm Linh quang do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài, ban cho mỗi người để con người có được Tánh linh, có được sự sống và biết gìn giữ sự sống ấy.
• Một Chơn thần, tức là một Xác thân thiêng liêng hay Hình hài thiêng liêng, do Đức Phật Mẫu tạo ra và ban cho để làm hình thể vô vi, bao bọc Chơn linh.
Do đó, con người nơi cõi thiêng liêng gọi Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu. Ấy là 2 Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng vĩ đại nơi cõi Hư linh.
Khi con người ấy đầu kiếp xuống cõi phàm trần thì Chơn linh và Chơn thần của người ấy liền nhập vào thai nhi ngay lúc được sanh ra từ trong bụng bà mẹ phàm trần. Vậy:
* Một con người nơi cõi phàm trần có 3 thể:
• Chơn linh (đã giải ở trên) do Đức Chí Tôn ban cho.
• Chơn thần (đã giải ở trên) do Đức Phật Mẫu tạo ra.
• Xác thân phàm trần do cha mẹ phàm trần tạo ra.
Như thế, một con người nơi cõi phàm trần, ngoài hai Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng, còn có thêm hai vị cha mẹ phàm trần nữa.
Tóm lại, toàn cả chúng sanh trong CKVT hay toàn cả Vạn linh, đều là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, dầu cho đó là những vị Phật cao siêu như Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di-Lạc, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Chúa Jésus, vv...Tất cả đều là con cái của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu.
Hiện nay, Đức Phật Mẫu ngự tại Cung Diêu Trì, ở từng Trời Tạo Hóa Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên.
Theo DLCK, Đức Phật Mẫu cùng các vị Phật: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, với Cửu vị Nữ Phật, và hằng hà sa số chư Phật khác, thường đi đến các cõi trần để dưỡng dục chúng sanh qui nguyên Phật vị.
Đức Phật Mẫu được nhơn loại tôn xưng bằng nhiều danh hiệu khác nhau, tùy theo tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc và địa phương, kể ra như sau đây:
• Phật Mẫu, vì là MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh và Chúng sanh.
• Diêu Trì Kim Mẫu, vì Đức Phật Mẫu ngự tại DTC. • Kim Bàn Phật Mẫu, vì Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung.
• Cửu Thiên Huyền Nữ, vì Đức Phật Mẫu rất huyền diệu, ngự tại từng Trời Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên.
• Đức MẸ thiêng liêng,
• Đại Từ Mẫu,
• Thiên Hậu,
• Địa Mẫu,
• MẸ sanh.
Đạo Cao Đài tôn thờ Đức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nhì; còn NGÔI DƯƠNG là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức Ngôi Thứ Nhứt.
Đây là một Triết lý hết sức mới mẻ và đúng đắn mà từ trước tới nay các tôn giáo chưa từng có. Họ chỉ biết thờ Ngôi Dương mà thôi.
Việc thờ phượng Đức Phật Mẫu hiện nay của Đạo Cao Đài còn tạm đặt tại Báo Ân Từ trong Nội Ô TTTN, vì Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương chưa xây dựng. Chừng nào Hội Thánh xây dựng Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì sẽ chánh thức thờ Đức Phật Mẫu tại đó và trả lại Báo Ân Từ làm đền thờ các bậc vĩ nhân có đại công với nhơn loại và các bậc tiền bối có đại công với Đạo, để hậu sanh tỏ lòng biết ơn theo đúng chức năng của nó như tên gọi Báo Ân Từ (nhà thờ báo ơn).
II. Quyền năng của Đức Phật Mẫu:
Quyền năng to lớn của Đức Phật Mẫu được cho biết trong hai bài kinh: Phật Mẫu Chơn Kinh và Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, và trong các bài Thánh Ngôn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho (Thánh Ngôn của Đức Diêu Trì Kim Mẫu có chép trong phần sau).
Một số quyền năng của Đức Phật Mẫu được biết kể ra:
■ 1. Chủ Âm Quang:
Đức Chí Tôn làm chủ Dương Quang, Đức Phật Mẫu làm chủ Âm Quang, nghĩa là Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu làm chủ phần Âm trong toàn cả CKVT.
PMCK: Chủ Âm Quang thường tùng Thiên mạng.
■ 2. Chưởng quản Kim Bàn:
Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu dùng chứa các nguyên chất để tạo Chơn thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người nơi cõi thiêng liêng.
KĐ9C: Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất,
Tạo hình hài các bậc nguyên nhân.
■ 3. Chưởng quản Vườn Đào Tiên:
Đức Phật Mẫu lập ra Vườn Đào Tiên và dùng các quả Đào Tiên ban thưởng cho các Chơn linh tu hành đắc đạo khi trở về cõi Thiêng liêng Hằng sống.
PMCK: Chưởng Đào Tiên thủ giải trường tồn.
KĐ2C: Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín,
Chén trường sanh có lịnh ngự ban.
Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn thần khá đến hội hàng chư linh.
Hằng năm, đến kỳ Đào Tiên chín, Đức Phật Mẫu mở Hội Yến Bàn Đào nơi Diêu Trì Cung, dùng các quả Đào Tiên và Tiên tửu, đãi các Đấng Tiên Phật nơi cõi thiêng liêng.
■ 4. Tận độ nhơn sanh:
Toàn cả nhơn loại, nhứt là 92 ức nguyên nhân đang còn trầm luân nơi cõi trần, đều là con cái thương yêu của Đức Phật Mẫu. Đức Phật Mẫu tận dụng các hình thức giáo hóa để cứu độ tất cả con cái của Ngài, đem trở về cõi thiêng liêng, giao cho Đức Chí Tôn phán định phẩm tước và ngôi vị.
PMCK: Nghiệp hồng vận tử hồi môn,
Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên Cung.
■ 5. Chưởng quản Tạo Hóa Thiên:
Tạo Hóa Thiên là từng Trời rất huyền diệu, cao nhứt trong Cửu Trùng Thiên.
Theo DLCK: "Tạo Hóa Huyền Thiên hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa Vạn linh, năng du Ta-bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật vị.
Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thính Ngã dục tu phát nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục quần linh; nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi hình đắc A-Nậu Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề xá lợi tử qui nguyên Phật vị, tất đắc giải thoát."
Nghĩa là: Từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Chín vị Nữ Phật, như các cấp vô số Phật, tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, có khả năng tạo hóa tất cả Chơn linh, có khả năng đi đây đi đó đến các cõi trần, nuôi nấng chăm sóc chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi vị Phật.
Nếu như có người nam lành, người nữ lành, nghe theo lời Ta, muốn tu hành thì phát ra lời nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu nuôi nấng chăm sóc tất cả các Chơn linh ; nếu như có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không có kiếp sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có lòng tưởng niệm, nếu như không có lòng tưởng niệm, trở lại cõi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Chơn thần trở về nguồn cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát.
■ 6. Quyền làm MẸ Vạn linh:
Đức Phật Mẫu là bà MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh, mà Vạn linh thì gồm đủ Bát Hồn (tức là 8 phẩm Chơn linh) gồm: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn.
Nhưng tại sao quyền hành của Đức Phật Mẫu lại nhỏ hơn quyền hành của Đức Nhiên Đăng Cổ Phật hay Đức Di-Lạc Vương Phật?
Đức Hộ Pháp thuyết đạo Con đường TLHS giải như sau:
"Bần đạo đi ngang Cung Hỗn Nguơn Thượng Thiên , là nơi Đức Di-Lạc đã thâu pháp, đã định vị nơi ấy. Bần đạo có tả mà trong tâm còn mờ hồ, không biết tại sao, vì lẽ gì, Đức Phật Mẫu là MẸ mà phải chịu dưới quyền con là Đức Di-Lạc, trong bụng coi hơi bất mãn.
Liền khi ấy, Bần đạo ngó thấy cái tướng hình của Đức Phật Mẫu đứng đằng trước, còn Đức Di-Lạc ở đằng sau lưng, quì xuống, đưa hai bàn tay lên, đặng tỏ cho Bần đạo hiểu, dầu cho người con ấy mạnh mẽ, quyền hành thế nào, mà quyền MẸ vẫn là quyền MẸ, không thế gì qua được. Ngài chỉ tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu đặng trị thế mà thôi."
Cũng trong Con đường TLHS, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo, thuật lại lúc Ngài vào Diêu Trì Cung bái kiến Đức Phật Mẫu, thấy cái huyền năng vô biên của Đức Phật Mẫu:
Bần đạo cùng các bạn kỳ trước đã ghé nơi Tạo Hóa Thiên, tức Tòa Thiên Cung Phật Mẫu là Diêu Trì Cung.
Bần đạo có nói một điều làm cho chúng ta nên suy nghĩ nhiều là: Huyền bí vô biên của Phật Mẫu.
"Bần đạo nói sơ lược huyền năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Đức Phật Mẫu, ta ngó trên mặt Ngài, ta thấy mặt bà mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về. Bần đạo tưởng ngó thấy bà mẹ sanh Bần đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người mẹ của họ vậy.
Nếu lấy theo cái trí học tưởng tượng không biết con mắt thiêng liêng có chiếu hình mẹ ta chiếu diệu ra không? hay là Huyền diệu vô biên của Phật Mẫu cho chúng ta thấy như vậy.
Bà mẹ hình hài chúng ta đây là nhơn viên của Đức Phật Mẫu bên phái nữ đó....
Có điều trọng hệ là dầu nam nữ cũng vậy, ráng giữ một điều nầy: Coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình ngó thấy hình ảnh Đức Phật Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền hậu vô cùng, hạnh phúc mình được hưởng đó, còn trái ngược lụng lại, nếu ta thất hiếu, ta dòm vào hình ảnh của Phật Mẫu, ta thấy nét mặt nghiêm nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ đó."
Việc thờ phượng Đức Phật Mẫu hiện nay tạm đặt tại Báo Ân Từ trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh. Trong Báo Ân Từ, Đức Phạm Hộ Pháp dạy đắp tượng thờ Đức Phật Mẫu theo sự tích Hớn rước Diêu Trì, tức là vua Hớn Võ Đế cầu Đức Phật Mẫu giáng xuống Hoa Điện:
Sự tích: Hớn rước Diêu Trì:
Vua Hớn Võ Đế hay Hán Vũ Đế (141-87 trước Tây lịch) là vị vua thứ 5 của nhà Hớn (Hán) bên Tàu, có hùng tài đại lược, nhưng cũng rất tín ngưỡng Trời Phật.
Khi Hớn Võ Đế mới lên ngôi, Ngài có phát nguyện lập một cảnh chùa thật tráng lệ gọi là HOA ĐIỆN để sùng bái Trời Phật. Gọi là Hoa Điện, vì chùa nầy được chạm khắc hình các thứ hoa trên các vật liệu xây dựng, nên mới trông vào thấy như là một Cung Điện toàn bằng hoa.
Ngôi chùa lớn lao cực kỳ xinh đẹp như thế, nhưng nhà vua chưa quyết định thờ Đấng nào, chỉ để trống, chủ tâm là chờ đợi đến chừng nào nhà vua thấy được sự huyền diệu hiện tượng ra thì nhà vua mới sùng bái.
Đến năm Hớn Võ Đế được 61 tuổi, nhà vua tổ chức một Lễ Khánh thọ Đáo tuế long trọng, Ngài có sở vọng cầu khẩn thế nào cho có Đức Phật Mẫu giáng xuống chứng lễ, nên nhà vua lập bàn hương án trước sân chùa cầu khẩn ngày đêm, mà không biết Đức Phật Mẫu ngự ở nơi nào và có thấu biết chăng?
Lúc bấy giờ có Ông Đông Phương Sóc, tu đắc đạo thành Tiên, mà trước kia Ông có làm quan trong triều đình của Hớn Võ Đế, sau về núi tu luyện, đang ngồi tịnh, chợt động tâm, liền đoán biết hiểu rõ mọi việc của Võ Đế nơi triều đình. Ông liền xuống núi, đi đến kinh đô, vào triều đình yết kiến Võ Đế.
Vua Hớn Võ Đế gặp Đông Phương Sóc thì rất mừng rỡ, thuật hết mọi việc cho Đông Phương Sóc nghe và nói rõ ước vọng của nhà vua nhân cuộc Lễ Khánh thọ Đáo tuế là sở cầu Đức Phật Mẫu đến chứng lễ, mà không biết Đức Phật Mẫu ở nơi nào, và nhờ ai đi thỉnh, may mắn có Đông Phương Sóc tới, vậy nhờ khanh giúp trẫm đi thỉnh Đức Phật Mẫu được chăng?
Ông Đông Phương Sóc tâu rằng:
- Bệ Hạ đã định thì hạ thần phục mạng, dầu khổ nhọc thế nào, hạ thần cũng đến Diêu Trì Cung thỉnh Đức Phật Mẫu, nhưng kết quả được cùng chăng là do lòng thành cầu nguyện của Bệ Hạ. Vậy xin Bệ Hạ ban chiếu cho Thần đi thỉnh.
Đoạn Đông Phương Sóc lãnh chiếu chỉ ra đi.
Ông dùng huyền diệu Tiên gia, chỉ trong chốc lát, Đông Phương Sóc đã đến được Diêu Trì Cung nơi cõi Tạo Hóa Thiên.
Đông Phương Sóc xin vào yết kiến Đức Phật Mẫu và tâu bày hết các việc của vua Hớn Võ Đế khẩn cầu.
Đức Phật Mẫu cảm động và phán:
- Phật Mẫu sẽ giáng phàm vào đêm Trung Thu chứng lễ Khánh thọ của Hớn Võ Đế theo sự khẩn cầu, sẽ đem theo 4 Tiên đồng nữ nhạc đờn ngâm bài chúc thọ, và tặng 4 quả Đào Tiên . Khi Phật Mẫu đến có Thanh loan báo tin trước.
Phương Sóc rất vui mừng, bái tạ Đức Phật Mẫu, rồi cấp tốc trở lại trần gian, tâu bày các việc cho vua Võ Đế biết.
Nhà vua rất vui mừng và hỏi: - Thanh loan là gì?
Đông Phương Sóc đáp: - Thanh loan là con chim loan màu xanh, đó là con chim lịnh của Đức Phật Mẫu, dùng để chở Đức Phật Mẫu du hành khắp nơi.
Xin Bệ Hạ chỉnh trang cho long trọng, trang nghiêm, tinh khiết để nghinh tiếp Đức Phật Mẫu, phải lập bàn hương án bên trong và bên ngoài, xông hương khử trược.
Đêm rằm Trung Thu năm đó, trăng sáng vằng vặc, đầu giờ Tý, Hớn Võ Đế quì trước Hoa Điện, thành tâm cầu khẩn.
Xảy thấy một con chim Thanh loan đáp xuống sân Hoa Điện. Liền khi đó, Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương và bốn Tiên đồng nữ nhạc giáng lâm trước Hoa Điện.
Hớn Võ Đế cung nghinh Đức Phật Mẫu vào ngự nơi Chánh điện của Hoa Điện.
Đức Phật Mẫu dạy bốn Tiên đồng nữ nhạc trao tặng cho Hớn Võ Đế 4 quả Đào Tiên và ca ngâm bài chúc thọ. Ông Đông Phương Sóc quì, hai tay nâng cái dĩa lên để rước lộc (rước 4 quả Đào Tiên).
Bốn vị Tiên đồng nữ nhạc ấy có tên là: Hứa Phi Yến, An Phát Trinh, Đổng Song Thành và Vương Tử Phá.
Sau khi chứng lễ Đáo tuế của Vua Hớn Võ Đế xong, Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng nữ nhạc cỡi chim Thanh loan trở về DTC nơi cõi Thiêng liêng.
Vua Hớn Võ Đế ghi nhớ hình ảnh của Đức Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên, cho thợ khéo, tạc hình Đức Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên nơi Hoa Điện để ghi nhớ sự tích và phụng thờ Đức Phật Mẫu.
Sự tích nầy được truyền tụng đến ngày nay.
Do đó, nơi thờ Đức Phật Mẫu được gọi là ĐIỆN chớ không gọi là ĐỀN.
Do theo sự tích nầy, Đức Hộ Pháp dạy đắp tượng thờ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương nơi Báo Ân Từ như sau:
" 1. Trên hết là chơn dung Đức Phật Mẫu (ĐPM) cỡi thanh loan, tức là con chim loan màu xanh.
2. Kế đắp 9 pho tượng của Cửu vị Tiên Nương.
3. Đắp thêm 4 pho tượng của 4 Nữ nhạc theo hầu ĐPM.
4. Pho tượng ông Đông Phương Sóc quì bưng bằng hai tay một cái dĩa nâng lên khỏi đầu, trên dĩa có 4 quả đào Tiên do ĐPM ban tặng. Ông Đông Phương Sóc quì bên hữu ĐPM.
5. Pho tượng Đức Cao Thượng Phẩm quì trước sân Hoa Điện.
Trong khuôn tượng, đắp lên một cảnh chùa cổ tự, kiểu xưa gọi là Hoa Điện.
Đáng lẽ tạo hình Hớn Võ Đế, nhưng vì đời Hớn Võ Đế đến nay quá xa thẳm, lại nữa, nguyên căn của Hớn Võ Đế là chơn linh Hớn Chung Ly trong Bát Tiên giáng phàm. Nay là thời Hạ nguơn Tam Chuyển, bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, Bát Tiên lãnh lịnh giáng phàm làm tướng soái cho Đức Chí Tôn mở Đạo, Đức Cao Thượng Phẩm chính là chơn linh Hớn Chung Ly giáng phàm kỳ nầy, nên tạo hình Đức Cao Thượng Phẩm thay vào chỗ Hớn Võ Đế thì thuận hơn."
Thánh ngôn của Đức Phật Mẫu giáng dạy cũng khá nhiều, sau đây xin chép ra một bài tượng trưng:
Đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung, ngày 15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931)
Phò loan: Đức Hộ Pháp - Bảo Văn Pháp Quân.
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Thiếp chào chư Hiền đồ Nam Nữ.
Có Từ Bi giá ngự, Thiếp nhượng cho Người, mà Người nhượng lại cho Thiếp giáng trước giáo hóa đôi điều. Thiếp phải tuân mạng. Chư Hiền đồ bình thân.
THI:
Từ Hỗn độn Chí Tôn hạ chỉ,
Cho Thiếp quyền quản Khí Hư Vô,
Lấy Âm quang tạo phách tăng đồ,
Muôn vật cả lo cho sanh hóa.
Nuôi nấng lấy xác thân hòa hỏa,
Thuận Âm Dương căn quả hữu vi,
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn Thần tay Thiếp.
Sanh dưỡng đã biết bao căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với CHA.
Kìa mớm cơm vú sữa cũng là,
Sanh một kiếp người ta đáng mấy!
Dầu hài cốt trăm năm cũng vậy,
Khối tình thương chẳng lấy chi nhiều.
Huống tạo Thiên đùm bọc chắt chiu,
Sanh một đứa liều ngàn thế kỷ.
Chịu mất trẻ cũng vì Tà mị,
Cướp con thương bỏ vị quên ngôi,
Ôi! Thương nhiều phen phải chịu ngậm ngùi,
Thấy thân trẻ nổi trôi biển khổ.
Trân trọng lấy hình hài dơ ố,
Còn thiêng liêng vô số tiếc thương,
Hằng trông mong con đặng phi thường,
Đem vào đặng con đường hằng sống.
Kể từ trước Thiếp là hình bóng,
Biết thương con chẳng mộng con thương,
Đạo dìu Đời bởi Thiếp lo lường,
Trên mới thuận khoáng trương phổ tế.
Kể từ trước Đạo còn bị bế,
MẸ thương con chẳng thế dắt dìu,
Nay cõi trần nghiệt chướng giảm tiêu,
Ngọc Hư định đã nhiều phép cứu.
Thiếp từ đặng Phái Vàng chí bửu,
Lịnh Chí Tôn khai mối Tam Kỳ,
Hằng ngày lo cho đám Nữ nhi,
Chẳng đủ trí sánh bì Nam tử.
Ơn nhờ có con là Long Nữ,
Đến thay thân Thiên sứ Từ Hàng,
Đùm bọc em, con ráng bước một đàng,
Đặng cho MẸ dễ dàng cứu rỗi.
Kìa Cực Lạc Niết Bàn đem đổi,
Lấy thân phàm làm mối giải oan,
MẸ trông con về cảnh an nhàn,
Ở trần thế muôn ngàn sầu thảm.
Cõi Thiên vị cho con còn dám,
Huống dạy khuyên mô phạm căn tu,
Chỉnh tiếc con chẳng rõ hiền ngu,
Đặng tự định công phu trọn phận.
Con thì đứa đường đời lẩn bẩn,
Con thì hay vay trở cơ mầu,
Mối huyền vi nào rõ cao sâu,
Cứ đeo đẳng mạch sầu nguồn thảm.
Con ví biết mình cao bực phẩm,
Thì phải toan cho dám phế đời,
Các em con chỉ để con ngươi,
Coi con bước mấy dời nối gót.
Lời cần yếu MẸ than cho trót,
Muốn dạy em, con khá xót xa chừng,
Phải hằng ngày ở dựa bên lưng,
Nhắc từ chuyện, khuyên răn từ việc.
Cửu Nương vốn nhọc nhằn chẳng tiếc,
Chỉ trách con chưa biết nhập trường,
Phải hiểu rằng lòng MẸ hằng thương...
THĂNG
ĐỊA MẪU CHƠN KINH.​
"Nội dung và nguồn gốc
Nguồn gốc của sách này có lẽ xuất phát từ tiên đạo và được viết ra qua các buổi hầu bút và chịu ảnh hưởng bởi lưỡng cực âm dương của Đạo giáo.
Kinh được viết vào ngày mồng 9 tháng giêng năm 1829 tại tỉnh Thiểm Tây, phủ Hán Trung, thành Cố Huyện. miếu Địa Mẫu, người nhập đàn truyền (nói) "kinh" có tên là Phi Loan(飛鸞傳經 tạm dịch "Phi Loan truyền (nói) kinh).
Mặc dù một vài bản tiếng Việt của Địa Mẫu kinh được in trong thời gian gần đây có Tịnh tam nghiệp chân ngôn và tâm kinh bát nhã, chú vãng sanh v.v... của Phật giáo. Khiến người đọc có cảm tưởng như kinh do đức Thích Ca nói. Nhưng trong bản gốc tiếng Hán chỉ là bài trường thi thể song thất; Nội dung tính khuyến thiện, ca ngợi Phật mẫu - mẹ thiêng liêng của vạn linh và chúng sanh, lưỡng cực âm dương của tiên đạo và các cảnh giới siêu hình và hoàn toàn không có những bài kinh Phật giáo.
Người con bổn phận nguyện lành, trên khói hương này xin Mẫu ngự, cầu nguyện Ông bà Cha mẹ lục thân quyến thuộc, âm siêu dương thế. Gia đình hưng thịnh quyến thuộc tăng phước hoàn viên Phước Lộc thọ miên trường
Sự tích
Vua Quang Tụ nhà Thanh lên ngôi trị vì ở nước Trung Hoa, vào năm thứ 9, nhằm tiết tháng giêng, ngày mồng chín, tại nơi tỉnh Thiễm Tây, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cổ có Phật địa Mẫu ngự chim loan hiện xuống tận miếu Bà giáng cơ bút truyền ra kinh.
Phật địa Mẫu ngự trên cõi Thượng Tần tối cao đặt quyển Chân Kinh khuyên răn đời, dưỡng dục đời và bảo toàn tính mạng cho tất cả người đời.
Xưng tán địa Mẫu
- Địa Mẫu đấng tối cao giác ngộ
- Điển linh quang tế độ chúng sinh
- Hỡi ơi chớ có lạc lầm
- Lời vàng châu ngọc chỉ rành nẻo tu
- Cõi trần thế mịt mù tâm tối
- Phải nghe lời mẹ thuyết chân kinh
- Chớ ham vật chất lụy phiền
- Sớm mau thức tỉnh mẹ ban phước lành
Sự hình thành
Tam cửu là 12, thập nhị Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Còn Nhị bát là 10 thập Thiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, Can Chi là Âm Dương đó. Vì trong bát quái có phân chia làm 8 hướng, mỗi một hướng chia ra 8 quẻ, mỗi một quẻ chia ra 6 hào, cộng chung lại 64 quẻ, tẻ ra làm 384 hào. Đúng giờ mãn nguyện trúc cơ, thì trong thân của Mẫu xuất hiện ta sáu vị Thánh đế Minh quân. Kể dưới đây: Một là vua Thiên Hoàng, hai là vua Địa Hoàng, ba là vua Nhân Hoàng, bốn là vua Phục Hi, năm là vua Thần Nông, sáu là vua Hiên Viên. Qua đến đời vua Phục Hi thì ngài đã hiểu rõ máy biến hóa Trời Đất. Ngài bèn phân định hai khí Âm Dương và họa ra một cái bát quái Tiên Thiên rõ 8 hướng trong Kiền khôn Vũ Trụ. Đến đời vua Thần Nông thì ngài tiên đắc tìm kiếm ra được năm giống lúa và sáu thứ gạo. Đến đời vua Hiên Viên thì ngài kiếm ra đủ cách thế chế tạo ra y phục và các đồ vật dụng cho con người đời cần dùng chẳng sót món nào.
Lão Bà Địa Mẫu nầy tuy là vô hướng, chớ lão cầm quyền sữa trị và khảo sát cả nhân luân đạo lý. Vì bởi hồi mới mở mang ra một bầu khí mù mù mịt mịt thì đã có Lão Mẫu này hóa sinh ra trước. Mẫu là lớn hơn hết. Cái người mà tạo ra Thiên lập ra Địa là đây, thật là người căn gốc đó. Thưở đó có một mình Mẫu đứng ra làm thầy trước hết. Mẫu liền khai hóa mở mang ra có một mối Đạo và tuyên truyền phổ thông cũng có một phong tục cho tất cả nhân loại mà thôi. "​
( Xin xem tiếp bài 2 )​
 

Hàn Sĩ Ngô

Lão làng
ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU - CẢM NHẬN TỪ MỘT HUYỀN THOẠI.​
ĐỊA MẪU CHƠN KINH.​
( Dịch giả LÊ CÔNG ĐỒNG )​

DÂNG HƯƠNG
Khói hương xông thấu mấy tầng xanh
Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành
Trên khói hương này xin Mẫu ngự
Chứng minh con trẻ tấc lòng thành.
Nam mô hương cúng dường Phật Mẫu chứng minh
LỄ PHẬT
Kính lạy Phật từ bi quảng đại
Vì chúng sanh muôn loại đảo điên
Luân hồi khổ não triền miên
Mới dùng phương pháp giải phiền nơi tâm.
LỄ PHÁP
Kính lạy Pháp nguồn ân chưa trả
Nẻo quang minh mô tả rõ ràng
Vì đời lắm kẻ lầm than
Nên thuyền Bát Nhã sẵn sàng đợi đưa.
LỄ TĂNG
Kính lạy Tăng là người chí cả
Thay Thế Tôn hoằng hóa đạo mầu
Vô minh nên mới lo âu
Rọi đường cứu khổ dẫn đường chúng sanh.
• Con nhất tâm đảnh lễ Phổ Đà Sơn Nam Hải chứng minh (1 lạy)
• Nam mô Hội Thượng Phật chứng minh (1 lạy)
• Nam mô Tam Bảo Đạo Tràng chứng minh (1 lạy)
• Nam mô con nhất tâm đảnh lễ Tổ Thầy chứng minh (1 lạy)
PHỤC NGUYỆN
Hoàng Mẫu chân kinh, cầu nguyện Tam cõi cộng đồng,
Thánh Thần Tiên Phật nghe nguyện:
Này xin vui hỷ lạc thanh tịnh trang nghiêm,
Cầu cho quốc thái, dân an, thế giới thái bình an lạc xứ. (1 lạy)
Cầu cho chúng sanh nhân loại được ấm no,
Phước Lộc Thọ đủ đầy, thoát ách, tiêu tai, nạn khỏi, tật bịnh tiêu trừ. (1 lạy)
Cầu nguyện cho Phật tử nam nữ trẻ già trên non, dưới thế,
Theo Mẹ tu hành tinh tấn tâm lành sáng suốt, hiếu đạo vẹn toàn với Mẹ,
tu cho đến ngày thành Phật đạo bất thối tâm. (1 lạy)
Cầu nguyện cho Cửu huyền Thất tổ, ông bà cha mẹ,
lục thân quyến thuộc, âm siêu dương thái, đặng nghe lời của Mẫu,
dứt tâm mê muội, xa lìa tội ác, hồn linh siêu thoát,
sớm nơi Tây vực, an vui mùi Phật đạo. (1 lạy)
Thành tâm khẩn nguyện, nhờ oai linh nhiệm mầu của Mẫu Kim Quang,
vận chuyển gia đình hưng thònh quyến thuộc tăng phước hoàn viên,
Phước Lộc Thọ miên trường, sở nguyện sở cầu như ý. (1 lạy)
• Nam mô Phật Mẫu chứng minh (1 lạy)
• Nam mô Phổ Đà Sơn Nam Hải chứng minh (1 lạy)
• Nam mô Diêu Trì cung, Hội Mẫu chứng minh (1 lạy)
ĐỊA MẪU CHÂN KINH
GIẢNG KINH và TỤNG NGHĨA
Dịch giả Lê Công Đồng​
VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
Phật Địa Mẫu ngự trên cõi Thượng Tầng tối cao đặt quyển Chân Kinh đặng khuyên răn đời, dưỡng dục đời và bảo toàn tánh mạng cho tất cả người đời.
XƯNG TÁN ĐỊA MẪU
Địa Mẫu đấng tối cao giác ngộ
Điển linh quang tế độ chúng sinh
Hỡi ơi chớ có lạc lầm
Lời vàng châu ngọc chỉ rành nẻo tu
Cõi trần thế mịt mù tăm tối
Phải nghe lời Mẹ thuyết chân kinh
Chớ ham vật chất lụy phiền
Sớm mau thức tỉnh Mẹ ban phước lành.
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH ( 3 biến )
CÚNG HƯƠNG
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH ( 3 biến )
Đốt hương trầm thấu đến Diêu Cung
Thành tâm khẩn nguyện Đức Mẫu Từ
Trên khói hương này Kim Mẫu Ngự
Cảm ứng chứng minh tấc lòng thành
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
Khai đuốc huệ tâm đăng tỏa sáng
Trăm ngàn muôn kiếp dễ gặp đâu
Hạ nguyên kỳ ba Long Hoa Hội
Mẹ ban điển lành mới rõ thông.
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH ( 3 biến )
SÁM KINH ĐỊA MẪU​
DÂNG ĐĂNG
Dâng đuốc thiêng thành tâm kính Mẫu
Ngọn linh đăng soi thấu mười phương
Điển quang tỏa ánh chiêu dương
Cầu xin Từ Mẫu Tây Phương chứng đàn
Mẹ giáng thế độ an non nước
Chuyển huyền linh ban phước vạn dân
Nguồn thương sầu đọng bâng khuâng
Nhìn đăng lòng tưởng Mẹ gần bên con
Xưa Mẫu ngự chim loan tại miếu
Tỉnh Thiểm Tây huyền diệu ứng linh
Bút cơ Mẹ thảo tâm kinh
Lời châu chép lại tâm tình Mẫu thương
Nhìn biển cả trùng dương nước biếc
Tiếng khổ sầu tha thiết lòng đau
Mẹ trông từng lượn sóng ào
Bao nhiêu sóng lượn nghẹn ngào bấy nhiêu
Cảnh dương trần gặp nhiều gian khổ
Mẹ sáng khai hóa độ khắp nơi
Núi sông vũ trụ đất trời
Chính do Hoàng Mẫu tạo đời an vui
Con trẻ nguyện sớm chiều tu niệm
Ngày lẫn đêm lo kiếm hạnh con
Dâng đăng Mẹ chứng lòng son
Vạn dân bá tánh nước non thanh bình.
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
DÂNG HƯƠNG
Ngày kỷ niệm trăng mười thập bát
Gió đông về ngào ngạt nguồn thương
Chốn trần trẻ dại dâng hương
Thỉnh cầu Từ Mẫu Tây Phương chứng đàn
Dâng nén hương lời vàng cung kỉnh
Tiếng trẻ thơ nguyện thỉnh Mẹ hiền
Lạy cầu vọng thấu Cung Tiên
Nơi Tây Vương Mẫu diệu huyền chứng minh
Mẹ thương con thâm tình muôn thuở
Đạo hoằng truyền rộng mở khắp nơi
Gắng tu thoát tục xa đời
Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về
Nhìn quang cảnh sơn khê non nước
Cõi giới ba hưởng phước Mẹ ban
Chính do Hoàng Mẫu thỉnh an
Độ cho sinh chúng một đàng chinh tu
Làn khói bạc ngút mù bay tỏa
Tâm hương thành hiện rõ Diêu Cung
Đài hương Mẹ ngự không trung
Thức tâm kẻ thế soi chung gương hiền
Tam nhật mậu có siêng bái Mẫu
Tiếng chuông ngân gợi nỗi nhớ thương
Con quỳ dâng chén tâm hương
Lạy Mẹ phủ Đức thập phương an lành.
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
DÂNG TRẦM
Nhìn khói trần hương bay tỏa
Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu
Đàn con tha thiết nguyện cầu
Mẫu Từ phủ điển nhiệm mầu chứng minh
Chốn trần miền cung nghinh đại lễ
Kỷ niệm ngày giáng thế Từ Tôn
Thượng tầng Mẹ phủ càn khôn
Chuyển khai hoằng đạo pháp môn hạnh từ
Đọc kinh Mẫu lòng như sao xuyến
Gởi tâm thành thăm viếng Mẫu thân
Chuông chùa vang tiếng xa ngân
Chạnh lòng con trẻ tuôn dầm lệ sa
Khói hương trầm thiết tha theo gió
Áng mây lành hiện rõ huyền vi
Con nguyện kiếp kiếp tu trì
Nương về theo bóng từ bi Mẫu Hoàng
Cầu lệnh Mẹ chuyển an non nước
Điển Mẫu Từ ban phước chúng sinh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban
Tầm chánh giác đạo vàng rực rỡ
Hạt Bồ Đề nảy nở rừng cây
Am thiền nối nghiệp thang mây
Điển thiêng Mẹ chứng nhật nay kinh đàn
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
DÂNG HOA
Hoa tươi thắm kính dâng Từ Mẫu
Gió hương lành nhẹ thổi mười phương
Dập đầu lạy Mẹ xót thương
Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa
Lời van cầu thiết tha ai oán
Chốn dương trần tợ áng phù vân
Chúng sanh đau khổ vô ngần
Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa
Ngày kỵ mậu sớm trưa bái Mẫu
Tiếng chân thành vọng thấu Diêu Cung
Gắng tu noi chí bá tùng
Bồ Đề hạnh nguyện thơm chung hương lành
Điển huyền linh phủ quanh bao khắp
Nhớ Mẫu hiền con chắp tay cầu
Lạy mẹ độ hết năm châu
Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu Cung
Người chốn thế hiếu trung trọn giữ
Hội Long Hoa Mẫu Tử tương phùng
Hương lành thơm ngát lạ lùng
Bồ Đề nở rộ tại cung Diêu Trì
Hoa thơm ngát con quỳ dâng lễ
Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh
Tay ngà dâng đóa hoa xinh
Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng đàn
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
DÂNG QUẢ
Quả tươi xanh tâm thành cung kính
Tiếng trẻ khờ nguyện thỉnh từ tôn
Điển linh phủ khắp càn khôn
Chuyển khai đại đạo tiếng đồn vang xa
Tụng kinh Mẫu gia gia an ổn
Mẹ giáng trần hỗn độn sơ khai
Lời châu ghi lại trần ai
Là do huyết mạch phi tài Từ Tôn
Oai linh Mẫu bao gồm vũ trụ
Dưỡng nuôi con hấp thụ điển thiêng
Phước Tài Lộc Thọ triền miên
Dân lành nước thinh nhà yên thanh bình
Tam nhật mậu trì kinh Địa Mẫu
Chúng sinh đều số đổi nhàn thanh
Mùa màng sung túc tươi xanh
Quả hoa thơm ngát hương lành từ bi
Thâm ân Mẹ khắc ghi sanh sử
Kỷ niệm ngày Mẹ ngự không trung
Dập đầu bái tạ Vương Cung
Độ an sinh chúng tao phùng Long Hoa
Kính lạy Mẫu thiết tha lời trẻ
Dâng quả tươi thỉnh Mẹ chứng tri
Dập đầu lạy đức Diêu Trì
Độ an sinh chúng cứu nguy dân lành
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
DÂNG THỦY
Cung kỉnh dâng thủy thành thơm ngát
Nhớ trăng mười thập bát hằng niên
Đúng ngày giáng thế Mẫu hiền
Thủy thanh bát ngọc khẩn nguyền cung nghinh
Đàn con trẻ quỳ xin Mẹ chứng
Độ dân lành bền vững tâm tu
Sơn khê rảo bước ngao du
Vào nơi biển thánh rừng nhu tu hiền
Dâng thủy thơm kiền thiền vọng bái
Điển Mẫu Từ phủ rải khắp nơi
Mẹ thương dưỡng dục khuyên đời
Ngự nơi thượng cõi ban lời ngọc châu
Mẹ truyền pháp nhiệm mầu phản chiếu
Cứu đàn con tận hiếu tận trung
Nguồn thương Mẹ phủ ngàn trùng
Suối lòng ngào ngạt ban chung con lành
Chính Mẹ tạo non sông xanh tươi thắm
Biển sông sâu thăm thẳm trùng khơi
Hoằng khai đại địa khắp nơi
Kẻ từ vô thỉ đến thời thọ thiên
Tâm kinh Mẫu lời khuyên lai láng
Điển huyền linh tỏa sáng mười phương
Tay dâng bát ngọc trà hương
Thành tâm lạy Mẹ xót thương chứng đàn
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
ÐỊA MẪU KINH
Phủ Hớn Trung nơi huyện Thành Cổ
Tỉnh Thiểm Tây miếu cổ ứng linh
Thượng tầng tỏa ánh quang minh
Chim Loan Mẫu ngự truyền kinh răn đời.
Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết
Ðức Từ Tôn tha thiết khuyên con
Hiếu trung giữ vẹn cho tròn
Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh.
Tam nhựt Mậu tâm thành kỉnh Mẫu
Tấm lòng son vọng thấu Diêu Cung
Gia gia sum họp trùng phùng
Dân an Quốc thới hưởng chung thanh bình.
Mùa màng được tươi xinh sung túc
Mẹ độ con từng phút từng giây
Núi sông vũ trụ đó đây
Chính do Hoàng-Mẫu dựng gầy tạo nên.
Linh điển Mẹ dưới trên phân rõ
Tam chơn kinh Mẹ tỏ lời châu
Hoằng khai đại đạo nhiệm mầu
Hóa sanh bốn biển năm Châu tươi nhuần.
Phật Mẫu ngự thượng từng độ thế
Ðiển chơn linh phước huệ rải ban
Tâm kinh Mẫu dạy rõ ràng
Con lành hiếu thảo đàn tràng cung nghinh.
Phước Lộc Thọ hiển vinh do Mẫu
Trọn đủ thời Kỵ-Mậu hằng niên
Dân an nước thạnh nhà yên
Lời châu Mẫu dạy gắng chuyên tu trì.
Thơ thâm diệu huyền vi cơ bút
Mẹ truyền Kinh dưỡng dục chúng sanh
Xưa vua Bàn-Cổ phong danh
Diêu-Trì Phật Mẫu hóa sanh muôn loài.
Chơn linh Mẫu xét soi vũ trụ
Ðiển âm dương kết tự anh-nhi
Thượng tầng Mẫu ngự phương phi
Phân ra Thiên Ðịa trị vì chúng sinh.
Ðịa-Mẫu truyền chơn Kinh tâm huyết
Khí âm dương hội hiệp cùng nhau
Mưa hòa gió thuận tươi màu
Hóa sanh nhơn loại ngạt ngào chơn thân.
Vậy ai mới bước lần đường đạo
Phải giữ lòng hiếu thảo trì Kinh
Lời châu Mẹ dạy huyền linh
Hoàng-Thiên xá tội hiển vinh thanh nhàn.
Cầu lịnh Mẹ bảo toàn sanh chúng
Ðộ nhân sanh giữ đúng hạnh Tiên
Từ đây Thiên Ðịa phân riêng
Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời.
Nhựt Nguyệt Tinh phương trời sáng tỏa
Máy huyền vi hiện rõ thần thông
Mẹ phân nam bắc tây đông
Bốn phương tám hướng bao vòng Càn Khôn
Ðiển Thiêng Mẹ bảo tồn vĩnh cửu
Chốn trung ương Mẹ thủ địa châu
Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu
Thiên Tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành.
Phu quân Mẫu trường sanh bất lão
Tài cao minh sáng tạo huyền vi
Thiên lung địa á diệu kỳ
Tri âm phối hợp phục quy Diêu Ðài.
Thiên Ðịa lập âm lai dương khứ
Khí thần giao giờ giữ điển linh
Ðất trời do tạo hóa sinh
Pháp luân thường chuyển siêu hình căn nguyên.
Chính Mẹ tạo tôi hiền chúa thánh
Phủ điển linh chơn tánh tâm thanh
Chẳng ngừng hóa hóa sanh sanh
Thiên Can thường chuyển vận hành địa chi.
Thần với khí tựu thì thai thánh
Mẹ cưu mang canh cánh thập niên
Tình thâm mẫu tử thiêng liêng
Mười thu đúng nhựt chia riêng quẻ hào
Trong bát quái phân vào tám hướng
Tám quẻ do mỗi hướng định ra
Sáu hào một quẻ đó là
Ba trăm tám bốn tẻ ra các hào.
Trúc cơ mãn nguyệt vào giờ đúng
Thập niên trường chuyển dụng Thánh thai.
Minh quân xuất thế trần ai
Sáu vì Thiên tử phi tài huyền quang.
Mẹ phân vua Thiên-Hoàng con trưởng
Ðến Ðịa Hoàng Mẹ thưởng thứ hai
Nhơn Hoàng tam đệ thiên tài
Còn ba vị nữa phân rày sau đây:
Vua Phục Hy, ngài hay biến hóa
Bát quái phân phát họa hiển linh
Chỉ rành tám hướng thinh thinh
Âm dương vũ trụ quang minh phân bày.
Vua Thần Nông phi tài ngũ cốc
Sắc lịnh gieo châu ngọc khắp nơi
Ðó là hạt giống của Trời
Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang.
Vua Hiên Viên tạo ban y phục
Ðem ấm no hạnh phúc vạn dân
Lưu truyền cơm áo chốn trần
Ðể cho người thế tâm thân thanh nhàn.
Vũ trụ do Mẫu-Hoàng xuất phát
Mẫu tạo ra Bồ-Tát, Thần, Tiên
Thượng từng bao phủ điển thiêng
Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh.
Nhìn biển cả trời thanh nước biếc
Khắp bốn mùa tám tiết trở xây
Gió ngàn tỏa lượn tầng mây
Hóa sanh nhơn loại cỏ cây thú cầm.
Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trỗi
Khắp muôn nước Từ mẫu dưỡng sanh
Các đời vương đế đại danh
Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra.
Danh lam có năm tòa thắng cảnh
Chốn lâm sơn tuyết lạnh sương rơi
Có cây cổ thụ sống đời
Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành
Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng
Sáu thứ gạo dành thưởng nhơn sinh
Nhân dân no ấm hiển vinh
Sống nhờ điển Mẹ huyền linh phủ đầy
Khi lìa thế gởi thây thân Mẫu
Sự hóa sanh dời đổi vô thường
Thân Mẹ là chỗ tựa nương
Từ-Tôn Ðịa-Mẫu nguồn thương ngập tràn
Nào châu, quận, thôn, làng, tỉnh, huyện
Kìa lâu đài cung điện nguy nga
Am, chùa, quán xá lập ra
Hiền, Thần, Tiên, Thánh Mẹ đà thưởng phân
Chư Phật đắc kim thân do Mẫu
Cả trân châu ngọc bửu đó đây
Thiếu chi kẻ ước việc này
Lòng tham mơ tưởng mấy ai đạt thành.
Loại kim khí bạc vàng quí báu
Tất cả do Mẫu tạo xuất ra
Vương hầu vạn quốc gia gia
Cũng do lịnh Mẹ ban ra tôn sùng.
Người chốn thế hiếu trung hưởng phước
Bao huyền linh sau trước Mẹ ban
Dân an quốc thới thanh nhàn
Ðế-Vương cung kỉnh Mẫu-Hoàng Từ-Tôn
Nước nào bị dập dồn chinh chiến
Cũng do nơi Mẫu chuyển phạt hành
Vậy ai nào biết đến danh
Huyền linh quang điển Mẹ dành đó đây.
Có tạo lảnh the đầy lụa vải
Cùng quả hoa rau cải trái cây
Nào là chua ngọt đắng cay
Lúa ăn thuốc uống rừng cây ai tường.
Hành, ớt, hẹ, gừng, đường, tiêu, tỏi
Khắp nhơn sinh ai khỏi bệnh đâu
Hóa sanh linh dược nhiệm mầu
Cao lương mỹ vị thiếu đâu vật nào.
Lại có dấm, chanh, dầu, tương, muối
Suối nào bằng nguồn suối tình thương
Mẹ ban trăm vạn mùi hương
Lao tâm tổn huyết đoạn trường vì con.
Công lao Mẹ bút son khó tả
Tình bao la biển cả khó hơn
Khổ đau Từ-Mẫu chẳng sờn
Nỡ nào quên dứt nghĩa ơn cho đành.
Vật ăn uống Mẹ dành con đó
Sản phẩm do Mẹ hóa tạo ra
Cân đai áo mão phù hoa
Bạc tiền vật dụng biến ra hằng ngày.
Mẹ chẳng thấy một ai lòng tưởng
Thân Mẫu sanh ban thưởng khắp nơi
Vật chi chẳng sót trên đời
Mẫu không nghe có một lời nhớ thương.
Trong vũ trụ tuần huờn tạo hóa
Do Mẫu sanh ra quả địa cầu
Biến dành sáu ngã luân hồi
Biết bao sản vật hoa màu tốt xinh.
Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu
Dầu Hoàng-Thiên khó nỗi sánh hơn
Trên trời mưa đổ từng cơn
Dưới đất Mẹ hóa huyền chơn phép mầu
Giòng mưa tuôn ngọt ngào cam-lộ
Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh
Cỏ cây tươi tốt hương thanh
Ðịa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu.
Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết
Bao tinh vi sương tuyết giá băng
Ðài mây gom tựu phủ giăng
Gặp luồng quang điển biến tan mây liền.
Mưa tuôn xuống trần miền tỏa khắp
Cù-rồng kia trốn nấp ngàn sông
Lãnh phần vận chuyển gió giông
Mẹ truyền hoán võ hô phong ứng hầu.
Cù-rồng ở xứ nào chẳng có
Ẩn biển sâu làm gió chuyển mây
Ðều do lịnh Mẹ phán bày
Ơn trên chiếu triệu dám rày cãi đâu.
Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất
Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai
Nhọc nhằn nào quản đắng cay
Ðiển quang huyền diệu đêm ngày dưỡng sanh.
Chốn dương trần con lành tọa hưởng
Bao nhiệm mầu Mẹ thưởng hồng ân
Tất cả do lịnh Mẫu phân
Công dày chẳng thấy người trần ghi tâm.
Mẹ thương con dạ thầm đau thắt
Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu
Ðiển quang nếu Mẹ rút thâu
Càn Khôn, vũ trụ, địa cầu tiêu tan.
Khi cá ngao trở ngang vùng vẫy
Thiên địa đành chịu phải rã đôi
Dương trần như thể bèo trôi
Cảnh đời trống rỗng thảm sầu nạn tai.
Ngoại Càn Khôn Như-Lai tạm ẩn
Chư Bồ-Tát tàn lẩn biệt tin
Từ vua chúa đến quân binh
Sẽ đều tận diệt nhơn sinh điêu tàn.
Phương hướng đành tiêu tan tất cả
Như ở trong lò hỏa bị thiêu
Muôn loài vạn vật bao nhiêu.
Phải đành chịu cảnh quạnh hiu khổ sầu.
Mẹ phán truyền lời châu cao quý
Ai sưu tầm diệu lý quang-minh
Thành tâm khảo sát chơn kinh
Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành.
Từ-Tôn chiếu điển lành ban phước
Sắc lịnh phê người được hiển vinh
Phi tài huyền diệu cao minh
Mẫu-Từ giáng bút ngọc-linh-chi truyền
Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt
Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên
Mẫu cho phần bổn huờn nguyên
Chơn thần đúng ngoạt xuất liền chẳng sai
Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh
Gắng tâm tu hưởng cảnh thượng đài
Khai tâm rung chuyển đạo ngay
Lý chơn thông hiểu chớ rày bỏ qua
Cần quán tưởng sâu xa kinh Mẫu
Chớ khoe tài nông nỗi mà chi
Chơn kinh lịnh Mẹ khó bì
Quần thần văn võ chẳng khi lời vàng
Ðại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cao cả
Ân đức dày vong ngã đành sao
Tao nhân mặc khách anh hào
Nông, thương, công, sĩ nỡ nào lãng ngơ
Không đền đáp tôn thờ cung kính
Nỡ vô tâm chẳng kính Mẫu hiền
Thâm sâu nghĩa cả thiêng liêng
Ðành lòng bội bạc chơn truyền lời châu
Chánh pháp đạo nhiệm mầu ai rõ
Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi
Phụ ân Từ-Mẫu Diêu-Trì
Ðọa đày muôn kiếp chẳng thì tái sanh
Muốn biết rõ tánh danh Phật Mẫu
Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành
Lão-Bà Hỗn-Ðộn hóa sanh
Thuở còn mờ mịt trược thanh chưa tường
Thiên-Ðịa chia âm dương chơn khí
Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm
Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm
Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn
Muôn ngàn năm khuyên răn dạy dỗ
Ngày biệt ly diệt độ chẳng ngờ
Mẫu-Hoàng từ giã con thơ
Hóa thân chớp nhoáng phút giờ chia tay
Hư không ngự mây đài thượng cõi
Ðiển quang-minh chiếu rọi khắp nơi
Huyền vi biến hóa chuyển dời
Truyền kinh châu ngọc bao lời thiết tha
Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu
Chốn trường giang gợi nỗi nhớ thương
Ngự thuyền lướt sóng trùng-dương
Nào ai để dạ vấn vương lòng sầu
Mẹ thương con chẳng câu phiền trách
Lòng ước mong huyết mạch trùng phùng
Sớm về điện ngọc Diêu-Cung
Con lành cố gắng hiếu trung tu hiền
Hội Tý Sửu khai Thiên tịch Ðịa
Vạn sự thành hiếu nghĩa vi tiên
Chơn kinh Phật Mẫu diệu huyền
Hơn trăm tám chục câu khuyên răn đời
Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết
Cùng từ nguồn mạch huyết chảy ra
Gồm bao lời ngọc thiết tha
Chẳng phải lầm lạc đâu mà ngờ nghi
Khắp gia gia đều trì niệm mãi
Thì mùa màng cây trái hoằng sai
Ấm no hưởng lạc trần ai
Cuộc đời chẳng bị nạn tai dập dồn
Ðiển quang Mẹ bảo tồn trường cửu
Ðộ con thơ hội đủ Diêu-Cung
Nếu ai chẳng tín bất tùng
Mùa màng ruộng rẫy sâu trùng bọ ăn
Cuộc sống đành khó khăn đau khổ
Nhân sinh lâm vào chỗ hiểm nguy
Không mong sống sót được gì
Ðại kiếp thủy hỏa phong phi ngập tràn
Ðại Từ-Tôn Mẫu-Hoàng cho biết
Ðúng trăng mười vào tiết trời đông
Mẫu-Từ xuất hiện thần thông
Vào ngày thập bát trần hồng giáng sinh
Mẹ phủ hết điển linh quảng đại
Tâm huyết thư để lại chơn kinh
Kim ngôn siêu thoát quang minh
Từ-Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn
Là con hiếu đàn tràng cung kỉnh
Mỗi hàng niên nguyện thỉnh Mẫu-Từ
Ðúng ngày thập bát trăng mười
Gia gia tụng niệm người người trì kinh
Lập đại lễ hoa xinh, trà, quả
Dâng hương đăng tất cả khiết tinh
Cùng nhau hội hiệp trì kinh
Sớ dâng Từ-Mẫu chứng minh con lành
Nếu như có nhơn danh hiền sĩ
Truyền bá kinh nghĩa lý đủ đầy
Từ-Tôn đài thọ ân dầy
Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng
Hưởng lộc thọ vinh sang phú quí
Hạng phu nhơn bần sĩ hiền thần
Truyền kinh phổ biến xa gần
Gia gia vui hưởng muôn phần ấm no
Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo
Năm trai lành kế tạo lửa hương
Hai gái hiếu đạo thuần lương
Ðời đời nối dõi tổ đường tông môn
Nam nữ nào sùng tôn kính Mẫu
Kỉnh lễ ngày Kỵ-Mậu thành tâm
Mẹ ban phước lộc cao thâm
Thiên Xuân vạn đại hưởng âm-đức dầy
Xứ phương nào hằng ngày cúng vía
Ðàn tràng cầu bốn phía an ninh
Bảo toàn tánh mạng chúng sinh
Mẫu-Hoàng phủ điển ứng linh lời nguyền
Quốc dân nào kiền thiền vọng bái
Thọ trì kinh nhớ mãi thâm ân
Mẫu-Từ cho xuất Thánh nhân
Thông minh xuất chúng muôn phần huyền-linh
Công đức Mẫu vô hình khó tả
Dầu lâm sơn biển cả khó hơn
Ai mà đáp nghĩa đền ơn
Phải sùng am-tự, họa sơn tượng hình
Rồi dâng lên hương linh thờ phượng
Tạo lập thành tâm, tưởng, bái, tôn
Diêu-Trì Phật Mẹ linh hồn
Hiếu tử làm đặng y ngôn-kim truyền
Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo
Gắng sức xây tái tạo mau đi
Tùy gia phương-tiện hữu vi
Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào
Mẫu chứng lòng thanh cao tâm hảo
Sẽ ghi tên con thảo danh đề
Thẻ ngọc Mẹ chuyển bút phê
Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu-Cung
Bởi vì con tận trung tận hiếu
Ðắc quả cao cửu khiếu khai minh
Con hiền thọ hưởng trường sinh
Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành
Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở
Chánh quả thành dứt nợ trần ai
Ban cho cửu phẩm liên đài
Trung ương thượng quốc về ngay đền vàng
Thành Ðại-La nghiêm trang quý báu
Phu phụ đồng đắc đạo kim thân
Mẹ ban thọ hưởng hồng ân
Lưu danh bửu điện muôn phần vẻ vang
Ðức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng bảo dưỡng
Trải hết tâm vô lượng vô biên
Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng
Ðộ cho quốc thới dân yên thanh bình.
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH
ÐỊA MẪU DIỆU KINH​
Phật Mẫu tuy vô hình vô tướng
Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sinh
Ban ra lời ngọc chơn kinh
Khảo sát đạo lý khai minh địa cầu
Thuở hỗn độn một bầu không khí
Còn mịt mù vô thỉ biết đâu
Phật Mẫu đã ngự đó rồi
Phân ra Thiên Ðịa hoàn cầu chuyển xây
Mẹ đứng ra làm thầy trước nhất
Ðạo hoằng khai lời thật huyền linh
Phổ thông truyền bá chơn kinh
Phán bày phong tục nhơn sinh sáng ngời
Chốn phàm trần đến đời ngươn hạ
Mẹ giáng cơ bút tả chơn kinh
Ai truyền ấn tống phổ in
Mẫu-Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường
Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn
Giúp chúng sanh ngộ nhận đạo chơn
Dựng đời thạnh trị thượng ngươn
Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường
Khắp thế giới thập phương cung kỉnh
Ráng niệm trì nguyện thỉnh lời châu
Ðắc thành sở nguyện mong cầu
Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm
Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ
Lưu truyền kinh từ thuở ban hành
Kẻ nào rụng niệm chơn thành
Thánh Tiên đắc đạo rạng danh lâu rồi
Ai chẳng tin bất cầu ác cảm
Chê bai rằng mờ ám không tùng
Ðến khi vào lúc lâm chung
Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau
Ngục A-tỳ sa vào miên viễn
Ðọa đày người lắm tiếng dễ khinh
Sanh lòng nhạo báng lý kinh
Tội như biển cả mông minh thảm sầu
Gây nhiều lỗi thâm sâu đại hải
Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu
Xét ra khắp cả hoàn cầu
Ðều do lịnh Mẹ pháp mầu chuyển ra
Mẹ thương con vị tha tất cả
Nào thấy ai để dạ xót thương
Ðắng cay khổ nhọc ai tường
Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao
Trang nữ kiệt anh hào chí hiếu
Bố cáo cho người hiểu rõ ràng
Ðứng ra giải đáp lời vàng
Cho người trần thế dương gian tri tường
Khắp thiên hạ thập phương chung cảnh
Nạn thiên tai phải quạnh hiu sầu
Dập dồn nhiều cảnh khổ đau
Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ
Mẹ thương con đề thơ phân tỏ
Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu
Cuộc đời thế sự bể dâu
Mẹ đà tường tận đoán rồi tiên tri
Dầu khó khăn việc chi nguy khốn
Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi
Phán truyền bày tỏ bao lời
Hóa sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh
Phật Mẫu có phân rành tất cả
Bảy mươi hai vị đã lãnh phần
Ðương kim hành sự xa gần
Vị nào cũng có Thánh Thần hợp chung
Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả
Khắp ở trong thiên hạ xứ nào
Lập chùa, tạo miễu, đền cao
Phụng thờ Thần Thánh ra vào cung nghinh
Còn Mẫu đây riêng mình ai nhớ
Ðến tánh danh cũng chớ tường tri
Cõi trần chẳng có chi chi
Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không.
Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ
Nên cam đành khổ lụy sầu bi
Quanh năm bao cảnh loạn ly
Trời mưa không thuận đất thì không sanh
Mẹ thương con chẳng đành đoạn dứt
Tình thiêng liêng bút mực ghi rằng
Các con lớn nhỏ nghe chăng
Thọ trì kinh Mẫu khó khăn cũng lành
Khắp nhơn sanh điều hành tâm đạo
Giúp cho đời cải tạo ăn năn
Chẳng luận cao thấp ngang bằng
Dầu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh.
Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng
Ðiển huyền vi hữu dụng Mẹ ban
Cốt nhục xa cách lạc đàng
Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy
Vui trong cảnh bao ngày cách biệt
Dầu chia tay cũng hiệp cùng nhau
Không phân hai bậc thấp cao
Ai ai cũng được truyền trao kinh này
Khắp non nước đông tây nam bắc
Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng
Thập phương bá tánh rõ thông
Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn
Bao nguy khổ dập dồn đau xiết
Nạn thiên tai thủy kiệt sơn băng
Chúng sanh ngã gục nhào lăn
Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào
Hiện bây giờ ốm đau bệnh tật
Sinh ra nhiều chứng thật gớm ghê
Khắp trong tất cả thành quê
Thảy đều thọ nạn ê chề khổ thân
Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết
Thổ sản này ngã chết chẳng còn
Ðói lòng quằn quại các con
Vậy khuyên ráng nhớ lời son Mẫu-Từ
Mẹ khuyên con tâm thư lời cuối
Gắng công tu thông suốt lý kinh
Truyền trao giải nghĩa phổ in
Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời
Chúng con sẽ thấy đời hết khổ
Nội trong năm phổ độ đầu tiên
Mưa hòa gió thuận khắp miền
Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai
Còn như đáo lệ ngày Kỵ-Mậu
Lập tràng đàn bái Mẫu trì kinh
Dâng đèn sáp thiết quang minh
Từ-Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dày
Mỗi trăng có ba ngày Mậu Kỵ
Hãy thành tâm bền chí cúng dường
Kỉnh đàn, đăng, thủy, hoa, hương
Ngoài ra tất cả ngày thường khỏi lo
Việc cúng kiến phải cho tinh khiết
Cố gắng tu tha thiết cần chuyên
Lo tròn phận sự hằng niên
Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh
Sắm lễ vật cung nghinh Từ-Mẫu
Trong các ngày Kỵ-Mậu lập đàn
Gồm có các ngọn đăng quang
Quả hoa tươi thắm hương phàn năm cây
Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ
Cùng chung nhau hợp để kỉnh đàn
Thuyết kinh giải lý rõ ràng
Mỗi người đều định tâm an thọ trì
Ai xứ nào làm y lời dạy
Ðịnh tinh thần tụng bảy biến kinh
Tiêu bao nghiệp chướng tội mình
Hưởng đời ngươn thượng huyền linh sanh tồn
Ai cố gắng sớm hôm trì tụng
Thêm hai thời chuyển dụng tâm thành
Mẹ ban huyền diệu điển thanh
Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia
Ðức Từ-Tôn truyền ra cho biết
Các con cần tha thiết ghi lòng
Lúc mạch gần chín đầy đồng
Hiện ra móng Bạch hư không rõ ràng
Gió từ đâu thổi sang rất mạnh
Trong niên này gặp cảnh phong ba
Khổ sầu từ trẻ tới già
Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ hàn
Nạn đói lạnh lầm than đau xiết
Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng
Thiên đình thâu hạt lúa vàng
Thần linh ngũ cốc lịnh ban về Trời
Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ
Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa
Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa
Trì kinh ÐỊA-MẪU phước nhà bình an
Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó
Ðược trúng mùa mưa gió thuận hòa
Ai từng phổ biến gia gia
Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giải bày
Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý
Mẫu sẽ sai các vị Thiên Thần
Gia thần ủng hộ ân cần
Ðồng theo độ kẻ xa gần thành tâm
Ðược phúc lành tháng năm no ấm
Trên Thiên Ðình ghi chấm phước ban
Nội gia kẻ đó thanh nhàn
Sẽ được thạnh phát vinh quang muôn phần
Thanh-Long, Bạch-Hổ Thần cũng giáng
Phò tá người xứng đáng con lành
Từ-Tôn cho biết rõ rành
Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền
Ðến giờ Ngọ kiền thiền kỉnh Mẫu
Chẳng có nên dời đổi thời gian
Sửu, Mùi, Thìn, Tuất không an
Ðúng giờ nhất định lập đàn trì kinh
Cầu lịnh Mẹ thương tình cứu khổ
Phủ điển linh phổ độ chúng sanh
Các con tựu họp tâm thành
Ðược ban mầu nhiệm phúc lành khắp nơi
Mẹ hiển Thánh xuống đời tri chứng
Phương hướng nào bền vững chí tâm
Thường hành kinh Mẫu diệu thâm
Ngày đêm thành kỉnh tháng năm thanh nhàn
Còn lo chi mùa màng chẳng trúng
Gia nào hay trì tụng kinh này
Phước lành sẽ được hưởng ngay
Thăng thiên đắc quả chẳng sai chẳng lầm
Hưởng quý tế cao thâm lộc cả
Thọ hương đăng trà quả vinh sang
Chơn Kinh của đức Mẫu-Hoàng
Gồm ba diệu lý lời vàng ngọc châu
Kinh Ðịa Mẫu đứng vào bậc nhứt
Chẳng tường phân ý thức suy tầm
Người đời còn bởi mê tâm
Chẳng nên kinh dễ lỗi lầm tội mang
Ai tỉnh ngộ lập đàn cung kỉnh
Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường
Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương
Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân
Kinh Ðịa-Mẫu thấm nhuần đạo lý
Gắng cần chuyên nghiệm kỹ lời khuyên
Hằng ngày ròng rã khẩn nguyền
Ðược nhiều công đức tội liền tiêu tan
Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác
Ai chí tâm hiển đạt phúc lành
Rõ thông từng chữ hiểu rành
Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân
Ðiển huyền linh xa gần chiếu tỏa
Phóng hào quang khắp cả bầu trời
Thưởng người hiểu rõ từng lời
Tâm tư kẻ đó sáng ngời minh châu
Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ
Ðã tri tường nghĩa lý diệu kinh
Có thể gội sạch tội mình
Bao nhiêu nghiệp chướng oan tình tiêu tan
Như ai rõ từng hàng Mẫu dạy
Qua nạn tai sắp xảy đến mình
Lại còn hưởng được phước vinh
Tam tài lộc thọ khương ninh thanh nhàn
Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển
Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang
Luôn được phước lộc bình an
Ðời đời kiếp kiếp Mẹ ban phúc dầy
Như nghe thuyết kinh này chẳng tưởng
Lại bỏ qua không lượng tường tri
Mà lòng chẳng khứng thọ trì
Bị khép vào tội khinh khi Phật Trời
Tội phỉ báng bao lời xúc phạm
Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than
Ngày ấy chẳng có kêu oan
Phải đành vướng tội gian nan ngục hình
Dân nước nào chẳng tin lời Mẫu
Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha
Ðại kiếp thủy hỏa phong ba
Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi
Lòng Từ-Mẫu nghĩ suy đau xiết
Muốn hủy hoại đại kiếp phong ba
Nạn thủy hỏa sắp xảy ra
Thương cho sanh chúng phải xa cảnh sầu
Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại
Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh
Mẹ muốn bỏ sổ tử hình
Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều
Mẹ tính mãi bao điều phương kế
Chẳng đành lòng bỏ phế lãng ngơ
Tình thương vô bến vô bờ
Làm sao cứu được con thơ trở về
Mẹ dùng chước mầu phê sắc lịnh
Phán phân rằng chỉ định thế này
Truyền Thần Thiện, Ác đến đây
Chia làm hai phái lướt mây xuống trần
Người hung dữ Ác Thần dẫn dắt
Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm
Ðộc ác, tàn nhẫn, đa dâm
Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi
Bậc hiền lương phương-phi quân-tử
Thiện Thần gom lại giữ một nơi
Ðưa vào chánh giác kịp thời
Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan
Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc
Mẫu sẽ vãi ra một cái chài
Dẫu cho thiện, ác phân hai
Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung
Liên lụy kẻ tận trung hiếu thảo
Người tu hành học đạo kinh tâm
Chừng đó mới thấy diệu thâm
Mẫu-Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành
Ðược sống sót nhàn thanh đủ trí
Biết tường phân chánh lý đường tà
Thiện gần ác lại tránh xa
Từ đó các Ðạo mở ra khai hoằng
Ðồng xuôi lòng ăn năn quy tựu
Chánh Ðạo Mẫu hội đủ đêm về
Chẳng còn chia rẽ khen chê
Phân ra nhiều mối khó bề tường phân
Hình tướng chài phép Thần mầu nhiệm
Mẫu tả ra những điểm rất cần
Nhị Thập Bát Tú phân thân
Phủ vây chánh Bắc giáp gần chánh Nam
Còn phương hướng Tây Nam, Tây Bắc
Các vị thần giáp mặc bông bào
Gồm sáu mươi vị tài cao
Mẫu-Từ phán lịnh truyền trao lời vàng
Tuân lời dạy Thiên-Cang mười vị
Thập Nhị Thần định chỉ Ðịa-Chi
Tất cả Tinh-Tú các vì
Ủng hộ Hoàng-Ðế Thái-Vi hoàn toàn
Ðức Từ-Tôn Mẫu-Hoàng điều khiển
Thần Lôi-công, Lôi-điển tám phương
Phân thân trấn thủ phi thường
Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm
Hiện nguyên hình tay cầm binh khí
Ðứng dàn ra trực chỉ đó đây
Khắp trong thiên hạ đủ đầy
Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền
Cõi Trời Nam từ niên Ðinh Hợi
Ðến niên Thân Dậu mới thiệt rồi
Biết bao huyền bí nhiệm mầu
Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha
Mẫu-Từ bủa Thiên-la, Ðịa võng
Sức đại hùng vang động kinh hồn
Làm cho Thiên ám, Ðịa hôn
Thần sầu Quỷ khóc vong hồn thảm thương
Còn Tứ Ðại Thiên Vương tiếp lịnh
Bốn cửa trận Mẫu định trấn an
Tám vị Thần lực Kim-Cang
Xông vào trận hóa pháp đàn thần thông
Làm Trời Ðất hư không nghiêng ngã
Nhựt Nguyệt Tinh châu hỏa đảo xây
Cũng như chong chóng lăn quay
Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra
Mẫu thâu lại yêu tà lăng mỵ
Kẻ bất lương phải bị ngục hình
Hô phong hoán võ lôi đình
Làm cho sấm nổ nước minh mông tràn
Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ
Trận cuồng phong bảo tố khắp vùng
Mẫu tận diệt đứa bất trung
Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào
Ðến chừng đó vàng thau mới rõ
Mẫu thâu xong ngày đó bình an
Nước rút, sóng lặng, gió tan
Sẽ thấy vũ trụ dương gian tươi nhuần
Chỉ còn người hiền lương sống sót
Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng
Thế là Mẫu dụng huyền công
Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng
Kinh đô có sen vàng đua nở
Bốn phía vòng khắp ở thị thành
Các con hiếu thảo hiền lành
Ðến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân
Ðược đổi xác Kim-Thân bất hoại
Chẳng tử sanh thoát khỏi nghiệp duyên
Chứng đặng Ðại-La Tiên-Thiên
Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công
Hội Bàn-đào thưởng đồng tất cả
Các con nào đắc quả dự vào
Thế rồi vĩnh viễn về sau
Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền
Chúng con được niên niên bất tử
Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn
Giống cảnh Diêu-Ðiện Mẫu-Hoàng
Luôn hưởng lộc thọ phước an cửu trường
Phật Mẫu ngự trên thượng tầng cõi
Hoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn
Hết lòng quảng đại sắc son
Hóa sanh dạy dỗ các con phản hồi.
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINHTỤNG KINH XONG TIẾP TỤC BÀI NGUYỆN NÀYKiền thiền vọng bái Mẫu Hoàng
Chấn chỉnh đạo giáo sắp an dân tình
Độ người khỏi chốn u minh
Vọng cầu bái Mẹ nhờ tình xót thương
Chúng dân tai họa đa vương
Lạy Mẹ dạy dỗ mới tường thiên cơ
Vô Cực Từ Tôn Tây Thiên Bá Chủ
Vương Cung Tây Mẫu đê đầu lạy tạ từ ân
Hào quang rọi xuống hương lân tỉnh thành
Khắp trong dân chúng làm lành
Thương yêu dùm giúp chẳng đành bỏ nhau
Mây lành rọi tỏ năm mầu
Cỏ cây tươi tốt làu làu thái dương
Yên vui bốn bể mới tường
Cơ Trời sắp đặt luân thường vẻ vang
Diêu Trì chấn chỉnh sửa sang
Bao nguồn về cội một đàng chánh quy
Kiền thiền vọng bái từ tôn
Chuẩn y tam giáo mới tồn lý cao
Ơn trên cam lộ rào rào
Chúng con nguyện vọng ước ao thái bình
Lạy cầu Mẹ ở Thiên Đình
Độ an dân chúng pháp linh tỏ tườngNAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH (3 biến)HỒI HƯỚNGPhần kinh con mới đọc rồi
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Cho người thức tỉnh tu hành
Bến mê phút chút biến thành ao sen
Lý kinh sáng suốt như đèn
Tụng Kinh Địa Mẫu có duyên
Gặp người trí thức bạn hiền đồng tu
Ngày ngày tinh tấn công phu
Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời
Cúi xin Phật Mẫu chứng lòng
Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trìNam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng sanh Bảo mạng Chân Kinh Đại Từ Tôn ( 1 Biến )
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 1 biến )
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lạc Từ Thị Tôn Phật ( 1 biến )
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát ( 1 biến )
TAM QUIQui y Phật Mẫu cứu trần thế
Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh
Trần gian biết nẻo tu hành
Nhờ đèn trí huệ biết đường Phật Tiên
Qui y pháp là phương giải thoát
Điển huyền linh bủa khắp trần gian
Sửa tâm chứng đắc kịp thời
Linh căn Mẹ điểm hội kỳ Long Hoa
Qui y tăng nhân truyền Mẫu đại
Phải ăn chay giới luật nghiêm trang
Hữu hình gia tạm luân hồi
Vô vi thượng cảnh trở về Thiên CungCHUNG
THỜI KINH TỤNG ĐẾN ĐÂY ĐÃ HẾT
 

Hàn Sĩ Ngô

Lão làng
ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU - CẢM NHẬN TỪ MỘT HUYỀN THOẠI.​
HUYỀN THOẠI PHẬT ĐỊA MẪU
GIÁNG TRẦN VỀ MỘT GIA ĐÌNH DÒNG HỌ NGUYỄN​
Điện thờ đức Địa Mẫu tại nhà anh Vương.
Hà Nội ngày 26 / 8 / 2010 tức ngày 15 / 7 / 2010 ( năm Canh Dần )
Lời giới thiệu​
Câu chuyện mà chúng tôi kể ra sau đây là một câu chuyện ly kỳ như huyền thoại mà có thật.
PHẬT ĐỊA MẪU đã Giáng Trần về một gia đình dòng họ Nguyễn:
Tại gia đình anh Nguyễn Văn Vương, số nhà 19 ngách 87, ngõ Trại Cá, đường Trương Định, quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội. Vào đêm 17 sang ngày 18/10/2008 năm Bính Tý đúng như những vần thơ trong quyển ĐỊA MẪU CHÂN KINH mà đại gia đình anh tôi đã và đang hành trì.

Đại Từ Tôn MẪU HOÀNG cho biết
Đúng Trăng Mười vào tiết Trời Đông
Mẫu Từ xuất hiện thần thông
Vào ngày thập bát trần hồng giáng sinh.

Cuộc sống của đại gia đình chúng tôi cũng bình thường như bao gia đình khác. Chúng tôi theo đạo Phật, thường đi chùa lễ Phật cầu sự bình an. Cho đến một ngày chuyện xảy ra với đại gia đình chúng tôi đã làm thay đổi hoàn toàn cách sống và sự hiểu biết của mọi thành viên trong gia đình về thế giới tâm linh.
Tôi là Nguyễn Thị Tám, em gái thứ tám của anh Nguyễn Văn Vương xin tóm tắt sơ qua về con đường đưa chúng tôi đến ĐỊA MẪU CHÂN KINH.
Do nhân duyên của gia đình tôi nên mười mấy năm trước chị gái tôi là Nguyễn Thị Đưởng mang quyển kinh Địa Mẫu về đọc, tụng và đưa cho Mẹ tôi là bà Nguyễn Thị Tình ở chung với anh trai tôi là anh Nguyễn Văn Vương ở tại Hà Nội.
Hàng tháng cứ vào giờ Ngọ các ngày 10, 20, 30 âm lịch mẹ tôi lên ban thờ tụng kinh. Do mẹ tôi mắt mờ nên cho cháu Nguyễn Thu Hương là con gái của anh Vương đọc kinh cùng bà nội. Lúc đó cháu Hương lên 9 tuổi. Cho tới thời điểm MẪU giáng trần, cháu đã 21 tuổi, đang là sinh viên năm thứ hai trường Đại học Mỹ Thuật Việt Nam. Và sự màu nhiệm đã xảy ra. Ngẫm lại rất đúng với câu trong cuốn ĐỊA MẪU CHƠN KINH.
Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng
Điển huyền vi hữu dụng Mẹ ban.

Cháu Nguyễn Thu Hương.
Và chúng tôi quyết định viết ra cuốn sách này cho những ai đã và đang trì Kinh ĐỊA MẪU hoặc chưa được biết về quyển ĐỊA MẪU CHÂN KINH. Khi đọc cuốn sách này, các bạn sẽ hiểu được rằng PHẬT ĐỊA MẪU là ai.
Đó là một người MẸ thiêng liêng, vô hình, vô tướng đã sinh ra tất cả chúng sinh, luôn hiện hữu bên tất cả chúng ta và cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Diêu Trì Phật Mẫu hóa sanh muôn loài.
Chơn linh Mẫu xét soi vũ trụ
Điển âm dương kết tựu anh nhi
Thượng tầng Mẫu ngự phương phi
Phân ra thiên Địa trị vì chúng sanh.
Những gì tôi sắp kể ra đây là hoàn toàn có thật, do tất cả các thành viên trong đại gia đình tôi được trải nghiệm và chứng kiến từng sự việc mà anh Vương, chị thứ Sáu và tôi sẽ viết ra sau đây. Mong rằng dù tin hay không tin xin quý vị chớ nói lời phỉ báng.


Kể từ khi mẹ tôi và cháu Hương theo Kinh Mẫu từ đó cho đến ngày 11-05-2004 thì Mẹ tôi mất. Gia đình anh tôi vẫn bình thường như bao gia đình khác cho đến một ngày đầu của tháng 8 năm 2008, hôm đó anh Vương điện thoại cho tôi và nói rằng: “Đêm qua gia đình anh xảy ra một hiện tượng lạ, cháu Hương đang ngủ thì bỗng nghe thấy có tiếng mẹ tôi gọi (Mẹ tôi đã mất cách đây hơn bốn năm). Mẹ về tâm sự cùng con gái anh là cháu Nguyễn Thu Hương lúc đó cháu 21 tuổi. Mẹ nói Mẹ được đặc ân về thăm cháu. Cháu Hương nói bà để cháu lên gọi bố mẹ cháu xuống gặp bà. Bà bảo hôm nay bà chỉ nói chuyện với cháu thôi. Sau mấy tiếng đồng hồ hai bà cháu tâm sự rồi bà dạy dỗ, bảo ban cháu rất lâu. Đang lúc nói chuyện thì cháu Hương nghe thấy có một giọng khác cất lên: “Đi thôi, hết giờ rồi!” thì cháu Hương thấy bà giơ cánh tay lên bóc cái gì đó ở cổ tay ra, sau đó thì bà đi mất.

Khi mẹ tôi đi rồi cháu rất hoảng sợ, cháu chạy thẳng xuống phòng khách thì thấy cháu Dũng và cháu Biên con thứ hai, thứ ba của anh Vương đang nằm ở đấy. Hai cháu đều chứng kiến vẻ mặt hoảng sợ của cháu Hương vừa cười, vừa khóc. Rồi cháu kể lại chuyện thì cả nhà nghĩ là cháu nằm mơ”.
Tôi cũng nói anh Vương xem có phải cháu nằm mơ không.
Lần thứ hai, vào ngày 15 tháng 8 năm 2008. Đêm đó cháu Hương đi ngủ, vừa vào giường thì cháu lại nghe thấy tiếng mẹ tôi gọi rồi lại tiếng lào xào rất to như có rất nhiều người âm xung quanh cháu. Lúc đó cháu rất hoảng sợ mở cửa chạy thẳng lên phòng bố mẹ, nhẩy lên giường nằm vào giữa bố mẹ và khóc đòi ngủ với bố mẹ. Khi thấy sự việc như vậy anh, chị tôi là Nguyễn Văn Vương và chị Bùi Thị Thanh cũng hoảng sợ liền chạy lên phòng thờ thắp hương.
Anh tôi xin các cụ, ông bà và bố mẹ tôi có điều gì thì cho anh biết. Sau đó chị Thanh dẫn cháu Hương xuống phòng cháu và bảo mẹ sẽ ngủ cùng con thế rồi hai mẹ con chị xuống dưới phòng của cháu Hương. Chị dâu tôi cầm một con dao và roi dâu để vào đầu giường. Lúc đó anh Vương từ phòng thờ xuống thì cháu Hương có chỉ vào đầu giường và nói: “Mẹ bỏ dao và roi dâu vào đây bố ạ”. Lúc đó anh Vương nói: “Để dao ở đây thì các cụ, ông bà về làm sao được”. Sau đó anh Vương lên phòng còn chị Thanh ngủ lại với cháu. Khi cháu bắt đầu nằm ngủ thì như có ai dựng cháu dậy. Lúc đó bà ngoại của cháu Hương vào cháu Hương và nói: “ Sao lại để vật nhọn ở đầu giường thì làm sao các cụ, ông bà về được?”. Nghe vậy chị Thanh nói: “Con xin lỗi, con sợ có ma tà vào trêu cháu, nếu là các cụ ông bà thì con xin cất đi”.
Anh tôi thông báo cho tôi biết các cụ, ông bà vừa về rất đông khoảng gần chục người, trong đó có cả ông bà ngoại của cháu Hương (đã mất). Tất cả các cụ đều báo chung 1 tin vui là cháu Hương đã được Mẫu chứng, PHẬT ĐỊA MẪU đã chọn cháu Hương nhà chúng tôi để Giáng Trần.
Lúc này tôi nửa tin, nửa ngờ vì cho tới giờ phút đó tôi vẫn không tin rằng có một thế giới linh hồn của người đã mất. Còn về Trời Phật tôi rất mơ hồ nghĩ rằng điều đó chỉ có trong truyền thuyết.
Vậy mà cái truyền thuyết ấy lại được giáng đúng vào đại gia đình của chúng tôi. Tôi là một thành viên trong gia đình và được chứng kiến bao nhiêu là sự màu nhiệm.

Tôi xin trích đoạn anh Vương viết về buổi gặp gỡ các cụ, ông bà tại gia đình anh:
“Thế rồi hôm đó lần thứ hai tôi được biết các cụ, ông bà lên nhập vào con gái tôi sau lần đi gọi hồn ở trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Hôm đó vợ chồng tôi và con cháu trong gia đình được ngồi nói chuyện với các cụ, ông bà, có bảy cụ lên, và các cụ đều thông báo cho chúng tôi biết: “gia đình nhà ta có cháu Hương đã được Mẫu chứng và có thể tới đây sẽ đi làm việc cho NGƯỜI”.
Đây là 1 tin vui cho cả dòng họ Nguyễn, có một điều tôi tâm đắc nhất, ông nội tôi là cụ Nguyễn Văn Dương về. Cụ đã mất từ khi bố tôi còn nhỏ (lúc khoảng 13 - 14 tuổi). Cụ mất vào ngày 23 tháng chạp là ngày đưa Ông Táo về Trời. Vậy mà nay tôi lại được nói chuyện với Ông tôi, một người Ông mà tôi chỉ được biết qua bố tôi và Bác tôi kể lại.
Tôi rất mừng đã được gặp Ông, có một việc mà tôi muốn xin ý kiến của Ông. Do chiến tranh loạn lạc, hai ngôi mộ của Ông và Bà bị thất lạc. Lúc bố tôi còn sống đã cùng bác tôi đi tìm nhiều lần mà không thấy đến khi tôi và Mẹ tôi cùng anh em đã tìm được mộ Ông, Bà. Nguyện vọng của con, cháu là muốn quy tụ hai ngôi mộ của Ông, Bà về nghĩa trang. Nhưng đi xem đều không được.
Hôm nay gặp ông, tôi xin ông chuyển hai ngôi mộ này thì ông tôi nói: “Ông rất nể thằng Vương, ông đồng ý cho chuyển nhưng phải nhờ sư Đông xem giúp và sư Đông đứng ra tổ chức di chuyển”. (Sư Đông là người đã kết nghĩa cùng tôi từ khi tôi còn học tập và công tác tại CHDC Đức. Khi về Nước thầy đã đi tu, xây dựng và trù trì 4 ngôi chùa ở tỉnh Hà Nam, nơi mà Mẹ tôi lúc còn sống thường hay đi lễ chùa và chăm sóc thầy lúc thầy ốm đau. Từ đó gia đình tôi và thầy Đông có quan hệ thân thiết, và thầy coi mẹ tôi như Mẹ đẻ của thầy.)
Tôi nói với ông nội: “Ông ơi, cháu vô cùng phấn khởi vì ông đồng ý cho cháu chuyển mộ của ông, bà và cháu xin phép ông được ngồi uống rượu cùng ông vào một ngày nào đó!”. Và ông đồng ý nhận lời mời của tôi.
Tôi xin trích đoạn các sự kiện ở tại gia đình nhà anh Vương mà chị Sáu là người được chứng kiến và viết ra:
Em gái tôi ở bên Đài Loan điện thoại về và nghe chuyện gia đình như vậy, em nói với tôi: “Chị Sáu ơi, chị đi xem bói đi xem nhà mình có chuyện gì mà ông bà, các cụ về đông thế?”. Khi đó tôi nói với Lan: “Không có vấn đề gì đâu nhà mình có phúc lắm mới được như thế đấy”. Rồi tôi lại kể cho Lan nghe về những lần ông bà, các cụ lên dạy con cháu. Sau đó tôi điện thoại xuống nhà anh Vương và hỏi: “Sao các cụ ông bà về mà anh không điện cho em?”.
Anh Vương nói: “Anh đang ở cơ quan nghe cháu Dũng con trai thứ hai của anh gọi điện nói là cháu máy mắt nhiều và theo linh cảm của cháu là các cụ ông bà về”. Nghe vậy anh tôi và cháu Hương về ngay, chắc là có chuyện gì ông bà muốn gặp.
Lúc tôi gọi điện xuống thì ông nội và bố mẹ tôi vừa lên nói chuyện xong. Sau đó là ông ngoại của cháu Hương lên nói chuyện. Anh Vương chuyển máy cho tôi nói chuyện với ông, ông gọi: “Chị Sáu à, lúc nào chị cũng quan tâm và nhắc đến tôi nhiều lắm!”.
Tôi lỡ nói với ông: “Ông ơi, mấy hôm nữa cháu xuống thăm ông nh!” (nghĩa là xuống nhà anh Vương).
Ông cười và bảo: “Làm sao mà xuống thăm ông được?”.
Lúc đó tôi chợt nhận ra ý của ông là không thể xuống dưới âm thăm ông được tôi liền bảo: “Bây giờ cháu xuống ngay nhà anh Vương ông đợi cháu nhé!”.
Tôi dắt xe đi luôn xuống nhà anh Vương. Lúc đến nơi thì ông vẫn đang nói chuyện. Tôi mua nhãn và bóc mời ông ăn, ông ngồi nói chuyện với con cháu vui vẻ y như lúc ông còn sống vậy. Lúc ông gần đi thì tôi có hỏi:
- Ông ơi, sau ông thì ai lên hả ông?
Ông cười và nói:
- Không nói, tự biết.
Lúc đó tôi và anh Định (anh trai thứ tư của tôi) hiện ở tại cầu Bà Bộ TP Cần Thơ cùng điện thoại ra Hà Nội để được nghe ông bà, cha mẹ đã mất mà được về nói chuyện với con cháu. Có gì vui và hạnh phúc hơn thế! Các cụ về mừng mừng tủi tủi nhất là mẹ tôi chỉ khóc và khóc. Khi ông bà cha mẹ tôi đã đi rồi, có một người về sau cùng và khóc rất nhiều. Ông không nói ông là ai cả, và anh em tôi hỏi ông có phải là anh trai của bố tôi không thì ông mới gật đầu. Ông tên là Nguyễn Văn Huyên, mất năm mới 15 tuổi vì trận đói khoảng những năm 1945.
Tôi xin trích đoạn các sự kiện ở tại gia đình nhà anh Vương mà chị Sáu là người được chứng kiến và viết ra:
Anh Vương hỏi ông:
- Ông mất ở trên Hà Nội phải không?
Ông nói:
- Không phải
Anh Vương lại hỏi:
- Thế bây giờ ông đang ở đâu để anh em chúng con tìm ông về?
- Ông không nói được, từ từ, tự cháu Hương sẽ tìm thấy ông. Cứ đến khắc Hương sẽ thấy ông.
Sau đó tôi mở điện thoại gọi cho anh Định và em Tám ở trong Cần Thơ để nghe ông nói chuyện. Ông Huyên có bảo anh Định rằng:
- Ông chỉ nghe con thắp hương kêu đến tên ông sao không về để tìm ông hả Định?
Anh Định trả lời:
- Con sẽ thu xếp để về tìm ông, ông ạ!
Rồi cứ thế chúng tôi lại gặng hỏi ông là ông đang ở đâu để chúng tôi đi tìm ông về.
Ông lại bảo:
- Ông không thể nói được.
Ngay lúc đó cháu Hùng con trai cả của anh Vương hỏi:
- Có phải ông ở Hà Tây không ạ?
Thì lúc đó ông nói:
- Đúng rồi, đúng rồi.
Và ông khóc nhiều lắm, chúng tôi lại hỏi ông:
- Ông ơi, ông ở thôn nào, xã nào, huyện nào hả ông?
Ông ngập ngừng không nói. Sau đó ông bảo:
- Ông không có danh tánh gì nên không nói được.
Có lẽ đây cũng là một thử thách giúp gia đình chúng tôi tự tìm hiểu là ông mất ở đâu, năm nào ?
Lúc đó anh Vương bảo cháu Hùng gọi điện thoại hỏi 108 về các địa danh ở tỉnh Hà Tây. Khi hỏi ông:
- Có phải ông ở thị trấn Vân Đình- Hà Tây không ạ?
Nghe thế ông liền bảo:
-Đúng rồi, đúng rồi!
Ông mừng quá và khóc càng lớn hơn. Chúng tôi thương ông vô cùng. Sau đó chúng tôi hỏi đến xã, thôn thì biết ông ở thôn Vân Đình, xóm Vân Đình, xã Vân Đình, thị trấn Vân Đình.
Mọi người hỏi ông ở đoạn đường nào thì ông bảo:
- Cứ đến đấy thì cháu Hương sẽ tìm thấy ông.
Chúng tôi mời ông ăn hoa quả và uống nước.
Tôi nhớ ông có bảo: “Chưa bao giờ ông được ăn uống nhiều như thế này”. Chắc hẳn ông ở dưới đó đói, và rét lắm. Từ lúc ông lên đến khi ông đi ông uống hết bốn cốc nước to. Lúc đó trong lòng mỗi anh em, con cháu chúng tôi khi nghe thấy ông nói như vậy, thì chúng tôi chỉ biết ngồi khóc và trong thâm tâm của mỗi người đều rất thương ông.
Cứ thế chúng tôi nói chuyện với ông cho đến lúc chúng tôi chào ông để ông đi.
Sau ông là hai người bác tôi và một người chị con bác Nho là anh trai của bố tôi mất từ năm chị 20 tuổi. Mọi người rất vui mừng vì dòng họ mình đã tìm được Ông Huyên.
Tiếp đấy là bà ngoại của cháu Hương lên. Bà hỏi han chuyện trò với con cháu rất vui vẻ. Buổi trưa hôm đó ông bà, các cụ trong dòng họ nhà tôi lên tất cả là 13 người. Ngày hôm đó ông Huyên về để báo tin cho con cháu trong dòng họ.
Đến sáng hôm sau tôi đến nhà anh Vương thì được nghe kể lại tối hôm trước ông Huyên lên và vẽ bản đồ nơi ông nằm, để chúng tôi đi tìm.
Ngày hôm sau cháu Dũng con thứ hai của anh Vương không biết ai vào cháu nhưng lại nhận là ông Huyên. Tôi và cả nhà chưa phân biệt rõ. Lúc đó ai cũng nghĩ cháu Dũng cũng có khả năng tâm linh như cháu Hương và còn giỏi hơn cháu Hương, và nhận sẽ là người phụ giúp đắc lực cho cháu Hương.
Ngày hôm sau lúc ông bà các cụ lên, chúng tôi hỏi để xin phép về quê ở Hà Nam để thẩm định lại hai ngôi mộ của ông bà nội tôi đã thất lạc mà gia đình tôi mới tìm được, thì ông bà đều đồng ý.
Trích đoạn anh Vương viết lại chuyến về quê thẩm định hai ngôi mộ ông bà nội.
Buổi chiều hôm đó ngồi ăn cơm tại phòng ăn ở bếp nhà tôi. Cháu Biên con trai thứ ba của tôi ngồi gác chân lên bàn ăn, thì con gái tôi là cháu Hương bảo:
- Anh Biên bỏ chân xuống, không được ngồi như vậy!
Biên cười và nói:
- Anh quen rồi.
Hương quát lớn:
- Có bỏ không?
Sau đó tôi nói cháu Biên 8 giờ 30 tối đi học về, đến 42 Yết Kiêu lấy xe ô tô đưa gia đình về quê để thẩm định lại hai ngôi mộ của ông bà nội tôi. Thế rồi đúng hẹn cháu Biên đưa cả nhà về quê. Trên xe về quê có tất cả tám người trong đó có cháu Hương và cháu Dũng (lúc đó chúng tôi nghĩ là hai cháu có khả năng tìm mộ).
Trên xe về quê, chúng tôi trò chuyện với Ông Huyên như một người trần bình thường. Chỉ có điều lạ là: Tại sao trong người cháu Hương là Ông Huyên và trong người cháu Dũng cũng là Ông Huyên. Lúc đó chúng tôi chưa hiểu được tại sao lại thế? Chả mấy chốc chúng tôi cũng về tới Đồng Văn. Tôi quay sang cháu Hương để nói chuyện với Ông Huyên rằng lâu lắm rồi ông mới được về quê phải không. Ông cười và thể hiện sự xúc động…
Khi xe về đến chợ Lương, cách nhà tôi khoảng 7 km, xe mở cửa kính ra tôi thấy một điều kỳ lạ xảy ra. Con gái tôi nhìn ra ngoài, giơ tay vẫy chào và nói chuyện với người âm hay là ai thì chúng tôi không biết. Chỉ biết từ đó về đến nhà, cháu Hương nhìn ra ngoài luôn vẫy tay chào dọc đường và nói chuyện bằng một ngôn ngữ không phải là ngoại ngữ, cũng không phải là tiếng Việt…
Tôi có cảm nhận lúc đó trong con gái tôi là một vị nào đó có tước vị rất cao nên khi về được mọi người xếp hàng chào đón suốt 7 km dọc đường. Về tới nhà thì Ông Huyên vào cháu Hương nói đôi điều với tất cả con cháu. Sau đó ông nói: “Ông ra để nói chuyện với mọi người (người âm)”. Tiếp sau là mẹ tôi lên, mẹ tôi rất vui, nói chuyện với con cháu… Với nét mặt nghiêm nghị mẹ tôi nói: “Gọi thằng Biên vào đây!”.
Tôi không hiểu chuyện gì. Tôi chắp tay lạy mẹ: “Con xin mẹ, cháu có lỗi gì ạ?”. Mẹ tôi nói: “Cứ gọi nó vào đây!” Thế rồi tôi gọi cháu Biên vào để bà nói chuyện. Tôi thấy mẹ tôi chỉ vào mặt cháu hỏi: “Biết tội chưa con?”. Tôi thấy cháu Biên chắp tay lạy bà và nói: “Cháu biết lỗi rồi, cháu xin bà và cho cháu gửi lời cảm ơn ông bà, các cụ đã cứu cháu”.
Tôi ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi hỏi cháu Biên có chuyện gì thì cháu nói: “Lát nữa con nói chuyện với bố.”. Sau đó mẹ tôi ra thì bố tôi lên, ông trò chuyện với con cháu … Một lúc sau ông nói: “Thằng Biên, đã biệt tội chưa?” Cháu Biên nói: “Cháu biết tội rồi ạ! Cháu cảm ơn ông bà và các cụ đã cứu cháu”.
Ông hỏi tiếp: “Còn đau không?”. Lúc đó cháu giơ chân lên nói: “Cháu vẫn còn sưng ạ!” và ông nói: “Sẽ hết sưng thôi”…
Sau khi các cụ đi, tôi hỏi cháu Biên và cháu kể lại: “Con đang đi xe máy, tự nhiên xe vít ga lên 100km/h thì con bị ngã. Người nằm trên xe và xe bị kéo đi khoảng 50m trên đường. Ghi đông và phanh xe mài xuống đường, mòn vẹt hết mà người không làm sao chỉ bị sưng chân nhẹ”. Lúc này tôi đã hiểu được, đây là sự cảnh cáo của các cụ, ông bà về hành vi hồi sáng ngồi gác chân lên bàn và sự ngang ngược với một người cháu không nghe lời các cụ, ông bà và bố mẹ. Cháu Biên cũng nhận ra điều đó. Thế rồi chúng tôi chuẩn bị đi thẩm định lại hai ngôi mộ của ông, bà nội.

Trích đoạn lời kể của chị Sáu:
Đến trưa hôm sau chị Thanh điện cho tôi nói là rất mừng nhà mình cháu Hương tìm được 15 ngôi mộ của các cụ, ông bà và cháu Dũng là người phụ giúp. Chị bảo tôi về quê ngay. Nghe thấy thế tôi mừng quá lập tức phóng xe về ngay.
Từ nhà tôi về đến quê mất khoảng 60 km. Những lần trước khi về quê người tôi cảm thấy rất mệt mỏi nhưng hôm nay thật lạ thường. Tôi đi xe máy về một mình mà như có một động lực nào đó thúc đẩy khiến tôi không còn mệt mỏi gì cả. Về đến nhà thì những người đi thẩm định mộ đã có mặt đầy đủ. Cùng lúc đó chị Thanh bảo đã tìm được mười lăm ngôi mộ ở mảnh vườn của một người em họ. Mảnh vườn đó có hai ngôi mộ của ông bà nội tôi. Trong mười lăm ngôi mộ lại có hai ngôi mộ nhận là ông bà Tạo và hai ngôi mộ nhận là ông bà Nho. Nhưng 4 ngôi mộ trên theo tôi được biết đã được chuyển đi chỗ khác sao bây giờ lại nhận ở vườn dưới này.
Tôi rất băn khoăn muốn chạy ngay ra hỏi anh Vương và cháu Dũng đang ngồi ở võng ngoài vườn. Nhưng lúc đó như có ai đang níu chân tôi làm tôi không thể ra chỗ anh Vương đuợc.
Rồi tôi cùng mấy chị em xuống bếp nấu cơm. Trong đầu tôi lại hiện lên những câu hỏi sao chỉ có hai ngôi mộ của ông bà nội thôi mà giờ lại nhiều vong lên nhận ông bà, các cụ nhà mình thế? Lúc này trời vừa nhá nhem tối, cả nhà dọn cơm lên ăn. Vào mâm cơm anh Toản là anh họ tôi và anh Vương đang bàn xem tại sao lại có hai ngôi mộ ông bà Nho và hai ngôi mộ ông bà Tạo ở đây. Nhưng thực tế 4 ngôi mộ này lại ở một nghĩa địa khác. Anh Vương quyết định ngày mai phải thẩm định lại, tôi bức xúc nói với anh Vương: “Anh xem lại đi, hồi em còn nhỏ đã chứng kiến bác Nho bốc mộ rồi mà sao vẫn còn ở đây. Anh xem lại nhỡ có vong nào khôn ngoan nhảy vào nhận để sau này cháu Hương giúp họ thì sao”.
Lúc nói xong người tôi nổi gai ốc và ớn lạnh tôi nhìn sang cháu Hương thì thấy cử chỉ của cháu rất lạ. Cháu nhìn lên trần nhà, một lúc sau cháu lại trở lại trạng thái bình thường và cháu Hương nói:“Bố ạ, có khi những người đó có phúc nên mới nhảy vào dòng họ nhà mình để sau này mình giúp người ta”. Xong tôi lại nói: “Cháu phải tìm đến nhà người ta để giúp họ tìm được mộ”. Ngay sau câu nói của tôi cử chỉ của cháu Hương rất lạ và quát tôi: “Cháu Hương không phải đi tìm ai cả mà người ta phải tự tìm đến cháu Hương nhà mình!”.
Khi cả nhà ăn cơm xong, cháu Hương bảo đưa cho cháu quyển sách ghi chép ngày hôm đó tìm mộ để cháu xem lại. Khi cháu xem thì cử chỉ của cháu như một người khác. Trước lúc đó anh Vương có nói với cháu Hương: “Con xin, để biết xem sao lại có sự việc như vậy?”.
Cháu Hương nhìn vào quyển sổ ghi những ngôi mộ rồi cháu quát lên và chỉ tay vào những ngôi mộ không đúng đến hai ngôi mộ của ông bà thì cháu nói: “Đúng, đúng đây là hai ngôi mộ cụ Dương ông và cụ Dương bà nhà mình còn lại các ngôi mộ khác là giả”.
Cùng lúc đó mọi người hỏi đến cháu Dũng để đi thẩm định lại hai ngôi mộ gần nhà, thì lúc đó cháu Dũng đã phóng xe máy đi được mười phút. Cháu Hùng điện thoại gọi cho cháu Dũng thì cháu Dũng trả lời: “Em đang ở xa lắm không biễt chỗ nào cả, chỉ biết quanh em toàn cây thánh giá thôi”. Khi nghe thấy thế tôi bảo đưa ngay máy cho cháu Hương. Vì trong suy nghĩ của tôi lúc nào tôi cũng nhớ đến lời ông bà các cụ đã dạy và nói: “Lúc nào cũng phải nghe Vương còn đúng hay sai là cháu Hương quyết định”.
Trong đầu tôi nghĩ là cháu Hương gọi thì cháu Dũng mới dừng lại, lúc đó cháu Hương nói chuyện với Dũng: “Anh nhìn xem ở đó chỗ nào có ánh điện thì vào hỏi người ta chỗ đó là ở đâu?”.
Dũng nghe lời và đi về phía nhà có ánh sáng điện. Ngay lúc đó, cháu Hùng gọi điện thoại vào máy của cháu Dũng nói: “ Em xem nhà dân nào ở đó vào hỏi đường về”. Cháu Dũng hỏi thăm thì chủ nhà nói: “Đây là nghĩa địa của những người theo đạo Thiên Chúa Giáo ở Phó Đa”. Nơi đó cách làng tôi chừng 10 km.
Cháu Hùng bảo cháu Dũng đưa máy cho người chủ nhà và nhờ họ giữ cháu Dũng lại đó để người nhà đến đón. Rồi cả gia đình tôi lên ôtô đi tìm cháu. Anh Toản và cháu Hương thì đi xe máy để tìm cháu Dũng.
Lúc tìm cháu Dũng về, đi trên xe tôi có hỏi cháu đi đâu mà lại đến đây thì cháu nói: “Cháu cũng không biết.” Về đến nhà cháu mới nói không biết ai dẫn cháu đi, phóng xe như bay trên bờ ruộng mà không bị ngã. Từ nhà đến đấy khoảng mười km mà cháu chỉ đi trong vòng 10 phút. Ngay buổi tối hôm đó, khoảng 10 giờ cả nhà tập trung đi thẩm định hai ngôi mộ gần nhà mà lúc chiều vong lên nhận là mộ của bác Phức gái. Chúng tôi đi khoảng mười người, cháu Hương nói mọi người đứng trên bờ để cháu Hương, cháu Hiền và Cháu Dũng xuống thắp hương vào ngôi mộ mà buổi sáng nhận là bác Phức gái. Nhưng ngôi mộ của bác Phức lại nằm ở thửa ruộng trên chứ không phải nằm ở đây.
Lúc xuống đó cháu Hương bảo cháu Hiền ghi lại địa chỉ những ngôi mộ nhận giả. Cháu Hương thắp hương rồi chỉ tay xuống mộ và nói:“Là ai, là ai”? Ngay sau đó lại có một giọng khác vào cháu, chắp tay lạy và nói:“Con xin, con xin!”.Sau đó lại thoát ra và một giọng rất nghiêm khắc vào cháu Hương quát:
- Địa chỉ nhà, con cái ở đâu rồi ta thương, ta giúp!
Sau khi nói xong lại có một giọng khác vào cháu Hương và nói:
- Con cháu của họ ở Lĩnh Nam. Vong đó cầu xin:
- Con xin người giúp con vì lâu lắm rồi con không được gặp con, gặp cháu!
Rồi tiếp đến chúng tôi lên ngôi mộ ở ruộng trên đã bị liệt nấm từ rất lâu. Đến nơi, bác Phức nhập vào cháu Hương và quay sang hỏi cháu Dũng: “Dũng à, bà ở đây cơ mà chiều cháu tìm ai hả Dũng?”. Vì cháu Dũng là người nhận hỗ trợ cho cháu Hương tìm vị trí nơi có mộ để cháu Hương hỏi vong ở vị trí đó…
Khi đã thẩm định xong thì cả nhà đi về. Anh em chúng tôi đều hoang mang không biết sự việc đó là như thế nào.
Sáng hôm sau tôi nghe bạn gái của cháu Dũng nói với chị Thanh:
“Anh Dũng đêm hôm trước đi đâu mà sáng về quần áo dính đầy bùn đất…”. Khi nghe nói vậy, tôi nghĩ ngay đến tối hôm qua cháu Dũng cũng có điều gì đó rất lạ vì cháu chạy một mạch đến nghĩa địa của những người theo đạo thiên chúa giáo. Cả nhà đều có chút gì đó nghi ngờ về những hành động của cháu. Anh Vương có kể lại: “Dũng nói với anh, đêm hôm qua con có gặp chú Toản con ông Tuy bị giam trong ngục. Con thắc mắc chú Toản còn sống mà tại sao lại bị giam ở dưới này, và con chạy vào xin cho chú ấy”…
Ngày hôm đó anh Vương nhờ cháu Thuỷ là bạn cháu Dũng luôn phải trông chừng cháu Dũng, không cho ra khỏi nhà để cả nhà đi thẩm định những ngôi mộ còn lại. Lúc đến nơi, đi đến từng ngôi thì các vong ở vị trí đó đều van xin, khóc lóc và đọc địa chỉ nhờ người cứu giúp. (Tương tự như ngôi mộ đêm hôm trước đi thẩm định). Còn hai ngôi mộ của ông bà thì bị sai lệch, khi đó ông nội tôi lên, anh Vương có hỏi:“Ông ơi tại sao ngày trước ngôi mộ của ông ở đằng kia tại sao bây giờ lại ở đằng này hả ông?”. Nhưng lúc đó ông nội tôi cười rất tươi và nói nhỏ: “Ở đây không tiện.”…
Lúc thẩm định xong thì chủ của khu vườn đó là chú em rể họ tôi có thái độ miệt thị chúng tôi và nghĩ chúng tôi mê tín dị đoan… Người chủ nhà bức xúc nói: “Vườn nhà tôi chứ có phải nghĩa địa đâu mà các anh chị đưa thầy về thích làm gì thì làm”... Lúc đó người trong cháu Hương rất giận dữ nhìn theo người chủ một lúc rồi nói: “Người này đáng ra là được hưởng phúc lớn, nhưng như thế này thì mất hết phúc”. Nói đến đây cháu bảo tất cả chúng tôi đi về.
Qua những việc như vậy, có rất nhiều người trong làng đến chứng kiến từ đầu đến cuối, họ cũng có nhiều lời ra, tiếng vào về việc này… Chính trong bản thân mỗi chúng tôi cũng đều đặt ra các câu hỏi tại sao lại có những sự việc thật thật, giả giả như vậy?
Đồng thời từ những sự việc này, anh em con cháu chúng tôi cũng nhận ra những điều huyền bí về thế giới tâm linh.
Phải chăng đây là những thử thách đầu tiên của anh em, con cháu trong dòng Họ Nguyễn chúng tôi về chữ Hiếu.
Khi về nhà có mấy bà hàng xóm cũng theo về nhà tôi. Đúng lúc đó mẹ tôi vào cháu Hương. Mẹ tôi nhận ra tên mấy bà mà ngày mẹ tôi còn sống thường hay đi lễ Chùa cùng nhau, mẹ tôi ôm mấy bà khóc và trò chuyện… Nói xong thì mẹ tôi đi, còn lại mấy chị em tôi ngồi trên tầng hai nói chuyện thì thấy cháu Dũng chạy lên hỏi: “Mọi người đang nói chuyện gì vui thế?”. Lúc đó chúng tôi cảm thấy có điều gì không bình thường ở cháu Dũng. Không ai bảo ai chúng tôi trả lời:
- Không có chuyện gì đâu.
Nghe mọi người nói vậy cháu Dũng trả lời:
- Tưởng có chuyện gì vui thì lên.
Thấy cử chỉ đó của cháu, chúng tôi lại nghi ngờ và đặt dấu hỏi. Điều này đã được chứng minh khi chúng tôi xuống nhà dưới. Tôi nhìn thấy cháu đứng với bạn ở ngoài sân nói chuyện, nhưng cháu lại đứng một chân mà còn nhún nhún trông rất bất thường...
Ngày hôm sau tôi gọi điện thoại cho anh Vương và anh Định nói về những cử chỉ bất thường của cháu Dũng...
Chiều tối ngày hôm đó, anh Vương và cháu Dũng ngồi trên võng ở ngoài vườn hồng. Không biết cháu đã nói gì với anh mà khiến anh rất sợ không muốn nghe tôi nói chuyện và anh bảo: “Thôi anh biết hết rồi em không phải nói gì cả”.
Lúc chưa nói được với anh tôi rất bức xúc. Lúc đó trời đã nhá nhem tối. Cả nhà lên xe về Hà Nội, tôi và cháu Hùng thì đi xe máy. Ngoài trời thì mưa rất to trên đường đi tôi nói với cháu Hùng: “Hùng ơi, cô thấy trong người thằng Dũng có điều gì đó không bình thường, chắc là ma nhưng mà giỏi và siêu phàm lắm”...
Về đến nhà tôi điện cho anh Vương thì anh bảo xe bị thủng xăm đang dừng ở Đuôi Cá để sửa.
Sáng hôm sau tôi xuống nhà anh Vương thì anh có kể lại trên đường đi có một vụ tai nạn. Người ta nhờ xe nhà mình nhưng cháu Dũng lại nói đi đi thế là cháu Biên lái xe đi luôn. Khi về đến nhà mọi người mới nghĩ ra xe nhà mình không dừng lại để làm phúc đưa người ta đi cấp cứu là sai.
Gia đình tôi lúc này vẫn còn mông lung lắm, chúng tôi cũng chưa hiểu gì.
Sau buổi tối hôm đó tôi về nhà nhưng cả đêm tôi không ngủ được. Sáng hôm sau tôi điện cho anh Vương đang làm việc trên cơ quan và nói với anh: “Em nhìn cháu Dũng có nhiều cử chỉ không bình thường, tối hôm nay anh về nhớ hỏi lại cháu Hương những điều mà ông nội, bố mẹ và bác Huyên đã dặn nhiều lần, là mọi việc trong gia đình người quyết định cuối cùng là anh, còn đúng hay sai mới là cháu Hương”.
Dặn anh song tôi vẫn lo anh quên…
Sau khi dập điện thoại tôi gọi ngay cho chị dâu và dặn chị nhớ bảo anh hỏi cháu Hương vì em thấy trong người cháu Dũng không bình thường...
Nhưng lại có điều rất kỳ lạ là tôi với chị Thanh đang nói chuyện với nhau thì người trong cháu Dũng phát hiện ra và hình như người đó biết đang có người nghi ngờ cháu Dũng. Từ trên nhà cháu chạy xuống phòng hỏi chị Thanh: “Mẹ đang nói chuyện với ai đấy?”. Khi tôi nghe thấy cháu nói như vậy qua điện thoại thì tôi sởn hết gai ốc và nghĩ người trong cháu Dũng đã phát hiện ra tôi và chị Thanh đang nói chuyện về cháu. Lúc đó chị Thanh trả lời: “Có nói chuyện gì đâu.” Xong chị dập máy, hai phút sau tôi thấy số điện thoại nhà anh Vương điện lên nhà tôi rồi lại tắt luôn. Tôi đoán ngay là cháu Dũng đã phát hiện ra tôi đã nghi ngờ nên điện thoại lên nhưng không nói gì. Tôi điện ngay lại thì cháu Dũng nhấc máy tôi hỏi:
- Sao Dũng điện lên không nói gì với cô. Rồi cháu Dũng bảo:
- Cháu gọi lên xem có Hồng ở đó không?
Tối hôm đó không biết ai tác động vào trong suy nghĩ của tôi, lúc tôi đi ngủ thì tôi cứ Niệm Phật, xin Mẫu, và các cụ ông bà: “Nhà mình có phúc cho cháu Hương được như thế này thì con xin Mẫu và các cụ, ông bà cho con biết hiện tại trong nhà anh Vương đang có phái thiện, phái ác và trong người cháu Dũng có nửa thiện nửa ác không?”.
Cứ thế tôi nằm Niệm Phật, cầu xin Mẫu và các cụ, ông bà khai sáng cho anh con là Nguyễn Văn Vương để giải quyết vấn đề trong gia đình, cho anh em chúng con biết đường mà lội, biết lối mà đi. Tôi cứ Niệm Phật… đến khi ngủ thiếp đi.
Khoảng 9 - 10 giờ sáng tôi thấy nóng ruột, tôi xuống nhà anh Vương thì thấy chị Thanh kể lại: Sáng nay, khi cả nhà đang ngồi ở bàn ăn thì cháu Dũng đi học nhưng quay về với vẻ mặt hoảng hốt và cháu nói: “Nó đang chờ ở cầu Chương Dương, đến đấy thì nó chém chết!” Nói xong, cháu Dũng chỉ vào mình và nói: “Nó đây này, từ ngực xuống là nó, trên đầu này là của con”. Khi nói thì miệng cháu bị bóp méo, cả nhà nghe không rõ. Sau đó anh Vương hỏi: “Mày là ai mà lại vào làm hại con tao?”. Cháu Dũng định nói ra thì miệng bị bóp méo không thể nói được. Lúc đó anh Vương chỉ vào mặt Dũng và nói: “Mày là người đi theo thằng Thành từ Đồng Văn lên vào con tao…” Thì người vào Dũng liền nói: “Phạm quy”. Lúc đó Dũng tự phân bua với chính mình là: “ Đấy là bố nói chứ không phải Dũng nói”...
Sau đó anh Vương lên ban thờ thắp hương. Chị Thanh hỏi cháu Dũng: “Mày là ai mà lại vào làm khổ con tao mấy chục năm nay?” Dũng không nói gì thì chị Thanh quát to: “Thì ra bây giờ tao mới biết mày là người đi theo thằng Thành và vào con tao”…
Thì lúc đó người trong cháu Dũng mới lộ ra và nhận là một vong ở Đồng Văn theo cháu Thành, con rể tôi lên chơi với cháu Dũng và theo cháu Dũng từ đó…Lúc này trên bàn, chị Thanh để đĩa xôi thắp hương thì cháu Hùng con trai lớn của chị Thanh với tay định bốc. Chị nhìn thấy liền quát: “Xôi để thắp hương sao lại thế!” . Nghe vậy cháu Hùng rụt tay lại và nói:“Con không biết tự nhiên sao con lại thế?”. Ngay lúc đó người trong cháu Dũng chỉ vào anh Định và cháu Hùng nói:“Là người của bọn nó đấy”…
Đến trưa mọi người lên phòng cháu Dũng thì thấy có người vào cháu Dũng và tự nhận là Ông Huyên nói rằng: “Thằng Dũng nó giỏi lắm các con ơi, nó có thể xoay chuyển được cả trái đất…” (Mãi về sau này chúng tôi mới hiểu ra và biết được người vào cháu Dũng hôm đó không phải là ông Huyên mà là một người khác mạo nhận.).
Đến trưa chị Thanh đi chợ về với ý định đuổi người ở trong cháu Dũng ra khỏi nhà không để nó hành hạ con mình nữa. Chị chạy thẳng lên phòng ngủ lấy một lá bùa trị tà bỏ vào trong người đề phòng người trong cháu Dũng hại chị. Sau đó chị chạy thẳng lên phòng Dũng, vừa chạy vừa khóc ầm ỹ. Lúc này ở phòng cháu Dũng có mặt đông đủ mọi người, chị Thanh chỉ thẳng vào mặt cháu Dũng quát to: “Mày làm khổ con tao, mày làm khổ cả tao mấy chục năm nay, bây giờ tao sẽ đuổi mày ra khỏi nhà tao!”. Lúc đó người trong cháu Dũng nhìn thẳng vào chị Thanh với vẻ mặt sợ sệt và khóc lóc và nói: “Nhà có phúc thế này đi làm sao được”. Thế rồi chị Thanh cứ hai tay đấm vào ngực mình và kêu khóc không ai can ngăn được. Mọi người dìu chị Thanh xuống phòng. Lúc đó ông Huyên vào cháu Hương nói: “Thanh con, hãy tỉnh táo lên, đừng mắc lừa họ, con đang bị bệnh tim!”. Khi đó, chị Thanh nhận ra ngay mình đang bị người khác điều khiển, nên chị kìm chế lại.
Sau đó anh Vương gọi điện thoại cho chị Đưởng ở Đắc Lắc và nói với chị rằng: “ Chị về ngay để đi tìm mộ ông Huyên!”. Tôi ghé tai vào điện thoại thì nghe rõ tiếng chị Đưởng nói với anh Vương:
- Việc của nhà ngươi ta ở trong này ta biết hết, để xem nhà ngươi có nhắc gì đến ta không, rồi ta sẽ về.
Nghe thấy thế anh Vương hoảng hốt nói:
- Người về giúp con và đi tìm mộ bác Huyên.
Tôi thấy anh rất lo sợ. Anh bảo anh muốn chị Đưởng về ngay để kịp đi tìm mộ Bác Huyên.
Từ trước đến nay, anh Định và chị Thanh luôn luôn va chạm và xích mích những chuyện đời thường. Chúng tôi cũng chỉ là những con người bình thường nên không tránh khỏi những sai lầm. Nhưng khi ông Huyên lên, ông rất khéo léo giải hòa cho hai chị em (chị dâu, em chồng) không còn giận nhau nữa.
Nhờ có ông phân tích, hai chị em đã hiểu rõ vấn đề đã bỏ qua mọi chuyện cũ và đoàn kết một lòng. Hôm đó, có ai đó vào chị Thanh nói:
- Từ nay không được nghe Vương chỉ nghe Thanh.
Thấy thế thì Ông Huyên vào cháu Hương nói:
- Khôn ngoan nhỉ, tất cả chỉ nghe Vương không được nghe Thanh.
Lúc đó tôi lại nhớ đến câu ông nội dạy tất cả mọi việc trong gia đình chỉ nghe Vương ngoài ra không được nghe ai hết. Lúc đó tôi biết ngay là có người vào chị Thanh để làm xáo trộn gia đình anh chị.
Ngay lúc nghe cháu Hương nói như vậy, tôi thấy chị Thanh bình tĩnh lại và nhận ra mình đã bị người khác nhẩy vào để phá nhưng anh em chúng tôi đã phát hiện kịp thời.
Còn riêng tôi, tôi cảm nhận được một điều rất kỳ lạ là khi tôi nóng ruột và trong người cứ nôn nao, tôi lại xuống ngay nhà anh Vương thì chắc chắn được nghe ông bà các cụ dạy bảo. Theo tôi nghĩ đó là một linh cảm thiêng liêng. Ngày hôm sau tuy tôi không có mặt ở đó nhưng lại được anh Vương kể lại là bố mẹ tôi lên dạy bảo con cháu. Hôm đó anh Vương tôi chọn ra những người trong đại gia đình để đi tìm mộ bác Huyên. Tất cả là mười ba anh em, con cháu trong dòng họ.
Mỗi ngày sau đó, anh em chúng tôi đã nhận ra được những điều thật và giả trong gia đình. Sau đó anh Vương mới kể chuyện cho mọi người trong gia đình về chuyện của cháu Dũng hôm về quê để thẩm định lại mấy ngôi mộ. Cháu Thủy – bạn của Dũng có kể với anh Vương là có người dẫn Dũng ra bờ ao, bảo cháu cầm chai nước lên và nói vào tai:
-Mày uống đi!
Nhưng tai bên kia lại có người nói:
-Thuốc sâu đấy đừng uống!
Lúc nghe anh Vương kể ra chuyện này thì tôi nghĩ là các cụ ông bà nhà tôi đã đi theo để bảo vệ cháu. Còn phía bên kia là ai xui cầm thuốc sâu uống thì chúng tôi chưa được biết. Sự việc cứ thế xảy ra và anh Vương là người chủ chốt xử lý mọi vấn đề. Còn cử chỉ của cháu Dũng nhiều lúc rất bất thường. Anh em chúng tôi thường xuyên bàn luận và tìm cách giải quyết, vì đã nhận ra trong người cháu Dũng có cái thật, cái giả, cái thiện, cái ác.
Gần đến ngày đi tìm mộ ông Huyên thì cháu Dũng nói với bố xin thầy Đông cho con một lá bùa để tránh ma tà. Lúc đó anh Vương đã biết trong cháu Dũng có cái gì đó không đại diện cho cái thiện, rất cao siêu cho nên bùa của thầy Đông không có tác dụng gì. Khi đó chúng tôi mới vỡ lẽ câu nói của Phật: “PHẬT cao một thước, ma cao một trượng”. Trong con đường tu của chúng ta, bất cứ ai xin đừng quên câu nói này. Nhưng xin quý vị đừng quá hoang mang vì chân lý bao giờ cũng thuộc về cái thiện. Chỉ một điều làm cái ác khuất phục được, đó chính là lòng TỪ BI.
Khi đó anh Vương có nói với cháu:
- Sẽ có người cho con bùa nhưng không phải là bùa của thầy Đông.
Rồi anh Vương bảo cháu Hương:
- Con là người làm bùa cho thằng Dũng.
Ngày hôm sau, thấy cháu Hương chưa viết, anh Vương sốt ruột nhắc cháu thì cháu bảo từ từ. Hôm sau, cháu Hiền- con dâu cả của anh Vương sang thì cháu Hương bảo cháu Hiền:
- Chị vào viết cho em và đừng nhớ làm gì.
Sau đó, cháu Hương đọc cho cháu Hiền viết mấy điều cấm kị: “Cấm không được rủ rê, dẫn dắt Dũng…!”. Cháu Hương ký tên và đưa cho anh Vương. Anh Vương cầm bùa xem, rồi đưa cho cháu Dũng thì cháu Dũng bảo con không có ví. Anh Vương đi mua cho cháu Dũng một cái ví và dặn cháu phải luôn giữ bùa ở trong người. Anh hỏi lại là ai viết lá bùa này, thì cháu Hiền nhận Hương đọc cho con viết.
Anh Vương hỏi tiếp: “Thế con viết gì?”. Cháu Hiền trả lời : “Con không nhớ gì hết. Con chỉ biết, khi Hương ký và đánh một mũi tên chỉ lên trời thì ngay lập tức trời đất chuyển mưa sầm sập”. Mưa liên tục mấy ngày liền. Cả thành phố Hà Nội ngập hết và đó là đợt mưa lụt kéo dài từ ngày 30-10 đến ngày 04-11-2008 (dương lịch). Thời gian đó đã đánh dấu mốc lịch sử của đại gia đình tôi: Đi tìm mộ ÔNG HUYÊN và cũng là năm PHẬT MẪU giáng trần.
Mãi sau này khi chúng tôi đã biết Ông là ai, và khi sắp xa chúng tôi, Ông mới nói: “ Ông chính là một bộ CHÂN KINH ĐẠO NGHĨA đã về một gia đình dòng Họ Nguyễn”.
Hôm sau, cháu Dũng nói chuyện với anh Vương:
- Con đi ra đường, có người nói vào tai con cầm cái này về cho bố.
Rồi cháu đưa cho anh Vương một mẩu giấy và nói: “Bố cứ làm theo ý bố. Bố bảo sao con làm vậy.” Anh Vương có hỏi cháu là ai đưa cho con mảnh giấy này thì cháu trả lời con không biết. Anh Vương hỏi cháu bố có đọc được không. Dũng nói bố cứ đọc.
Trong tờ giấy có viết một số điều, nội dung như sau:
- Ao
- Hoa
- Ngày giỗ của Ông Huyên (mùng 04 tháng 02)
- Đi tìm mộ Ông Huyên
- Bỏ Thủy
- Mua hoa ly ly tặng Thủy
- Tại một quán trà đá.
- Trước khi đi. Tìm mộ ông Huyên
Và nói chờ ý kiến của bố. Cháu hỏi lại trong giấy người ta viết cái gì đấy thì anh Vương trả lời cái này chỉ bố biết thôi. Thấy vậy, anh Vương rất băn khoăn và suy nghĩ nhiều. Vì đã xử lý bao nhiêu sự việc thật giả nên anh đã đưa ra một quyết định đúng đắn: Việc nào thiện anh làm, việc nào không thiện anh bỏ. Rồi anh Vương bảo cháu Biên mở cái đĩa mà một người đi chùa đã đưa cho cháu Hùng từ mấy tháng trước nhưng chưa có ai xem. (Vì cháu Hùng làm ở viện Mỹ Thuật - Trường ĐH Mỹ Thuật Việt Nam, chuyên đi sưu tầm các hoa văn cổ ở các Đình,Chùa làm tư liệu cho Viện ).
Hôm đó như có ai xui khiến, anh Vương lại mở cái đĩa đó, bắt tất cả mọi người trong gia đình ngồi nghe và tụng theo. Nội dung đĩa đó là: “Sám cầu siêu độ chúng sinh nơi địa ngục”. Khi nghe xong hai đĩa này thì đã là 11h đêm, mọi người đi ngủ. Cháu Biên mang đĩa này lên phòng cháu Dũng mở bằng máy tính cho Dũng nghe. Vì lúc cả nhà ngồi nghe và tụng thì Dũng không nghe. Lúc đó, anh Vương đang nằm ngủ cháu Dũng hốt hoảng chạy xuống phòng gõ cửa và nói:
- Bố ơi, thằng Biên nó mở cái gì mà nghe sợ thế? Bố bảo nó tắt đi!
Nghe thấy vậy anh Vương liền bảo:
- Bố bảo nó mở thì con phải nghe.
Dũng lên giường nằm, người run bần bật, chân tay co rúm rồi lăn lộn và nói: “ Chỉ sợ một lúc thôi”. Lúc đó, anh Vương quát: “Mày phải ra khỏi nhà tao!” Và bảo chị Thanh mở hết cửa ra để đuổi “nó” đi. Người trong Dũng nói: “ Nhà có phúc dầy thế này thì làm sao mà đi được”.
Nói xong anh ghi bốn câu niệm Phật:
- Nam mô bổn sư Thích Ca Mô Ni Phật.
- Nam mô Đại Từ Di Lạc Tôn Phật.
- Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
- Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát.
Rồi dán trong phòng của cháu Dũng nhưng khi đi ngủ thì cháu lại quay ngược lại để không nhìn thấy những câu niệm Phật đó.
Trưa hôm sau, anh Vương đang nằm ngủ trong phòng thì cháu Dũng chạy lên bảo:
-Bố ơi, Bố bảo mọi người cất hết dao đi!
Anh Vương nghe vậy vội vàng làm theo vì sợ người trong Dũng làm điều gì nguy hiểm đến mọi người. Sau đó anh lên phòng thì chị Thanh nói: “ Anh à, ma nó sợ dao đấy!”. Anh Vương nghĩ lại ngay, mình lại bị “nó” lừa rồi. Và liền nghĩ ra: Hình như người trong Dũng sợ những vật sắc nhọn. Anh tự mình cắm mấy cái kim khâu dưới nệm ngay đầu giường và chân giường cháu Dũng ngủ mà không cho cháu biết.
Sau một đêm thì điều kỳ lạ đã xảy ra:
Sáng hôm đó, cháu Dũng soi gương và thấy một vệt rạch dài chạy dọc khuôn mặt. Cháu chạy xuống bảo với mọi người:
- Không hiểu tại sao hôm nay mặt cháu có một vết rạch đỏ chạy thẳng từ trán xuống sống mũi chia mặt cháu ra làm hai nửa.
Anh Vương kiểm tra lại mấy cây kim vẫn nằm im ở dưới nệm. Thế rồi, mọi người trong gia đình nhận ra, trong Dũng có hai phái: Thiện, Ác đang lôi kéo.
Thế rồi anh em tôi quyết định ngày đi tìm mộ ông Huyên về đoàn tụ cùng với ông bà, cha mẹ tôi ở Hà Nam. Lúc đó anh em tôi không hề biết đó là một thử thách mà PHẬT ĐỊA MẪU đưa xuống để thử lòng đại gia đình tôi. Mà người đứng đầu là anh trai tôi - Nguyễn Văn Vương . Lúc này, anh em tôi chỉ biết rằng, bằng một tấm lòng của một người con, cháu thấy bác mình khổ quá không thể chậm trễ, phải đưa bác về càng sớm càng tốt.
Thế là không bao lâu, anh em tôi quyết định ngày đưa bác về là ngày 6/10/2008 (âm lịch). Anh Vương chọn danh sách những người đi tìm mộ bác. Tất cả con cháu là mười ba người, trong đó có tôi và anh Nguyễn Văn Định ở Cần Thơ. Anh Định về trước tôi mấy ngày(đi bằng xe đò). Anh đi chuyến xe Thành Lộc từ Cần Thơ ra Hà Nội. Khi ra tới Ninh Thuận Phan Rang, xe đò anh bị lật xuống vực, chết mấy người nhưng anh chỉ bị thương nhẹ vào bệnh viên hai ngày rồi vẫn quyết tâm về Hà Nội vì một lý tưởng cao đẹp - về tìm mộ bác.
Còn tôi đúng ngày 5/10/2008 (âm lịch) tôi mới lên máy bay về Hà Nội. Không hiểu sao tôi quyết tâm về Hà Nội cho bằng được. Sau này tôi mới hiểu đó là sự sắp đặt của Trời Đất và là định mệnh. (NGƯỜI khiến tôi phải về). Tôi đã mua vé máy bay và thử thách đầu tiên dành cho tôi đó là sân bay Tân Sơn nhất xảy ra hỏa hoạn (ngày 27-10-2008 dương lịch) nhằm ngày…………Có thể đó là sự trùng hợp, hay sự thử thách làm lung lạc tinh thần tôi để tôi sợ mà không dám về. Tôi theo dõi thấy sân bay vẫn hoạt động bình thường nên vẫn quyết định về.
Trưa ngày 4/10 tôi nằm nghỉ trưa và suy nghĩ miên man về chuyện gia đình và tôi rất hoang mang về chuyến đi này. Ông xã vì lo sợ nên không đồng ý cho tôi về, đòi hủy vé máy bay. Không hiểu sao, tôi vẫn quyết định về cho bằng được.
Đang nằm suy nghĩ miên man tôi nghe tiếng người nữ nói bên tai tôi. “Con Tám chuyến này về chết mà không gặp con Bảy”. Bảy ở đây là chị gái trên tôi. Tôi giấu ông xã chuyện này vì sợ ông xã không cho về. Tôi nghĩ chết có số, nếu số chết ở trong nhà cũng chết. Chị Sáu điện thoại cho tôi dặn dò tôi lên máy bay phải niệm Phật. Sau này tôi mới hiểu đó là sự thử thách thứ hai dành cho tôi. Nghe lời chị, tôi lên máy bay và niệm Phật ra tới Hà Nội. Đúng thời gian này, Hà Nội xảy ra mưa rất lớn, nước ngập lụt hết thành phố Hà Nội. Mãi sau này chúng tôi mới biết đó là sự linh hiển của Trời Đất trước khi PHẬT ĐỊA MẪU giáng trần và cũng là thử thách của NGƯỜI ban xuống cho môt đại gia đình nhỏ bé của chúng tôi. (Nói là một đại gia đình nghĩa là tất cả anh em, con cháu chúng tôi, nhưng lại rất nhỏ bé trước sự thử thách của thiên nhiên lúc đó). Tôi xuống sân bay Nội Bài trời mưa xối xả. Cả Hà Nội chìm trong biển nước. Gia đình tôi không ai đi đón tôi được vì đường trong thành phố ngập hết. Thật lạ như có sự sắp đặt, có anh tài xế taxi hứa sẽ tìm đường đưa tôi vào trong thành phố. Tôi đi tắc xi lòng vòng tránh đường ngập nước mấy tiếng đồng hồ rồi cũng về được chợ Mơ. Tâm niệm tôi chỉ mong sao mua được một bó hoa về cúng Phật và ông bà. Lạ thay, xe taxi bỏ tôi xuống ngay một tiệm bán hoa. Tôi mua một bó hoa, một tay vác valy, một tay ôm bó hoa lếch thếch lội dưới nước, dưới trời mưa như trút nước. Tự nhiên có một anh xe ôm cứ đi theo tôi mời tôi lên xe. Anh hứa sẽ tìm đường đưa tôi về đến ngõ Trại Cá, đường Trương Định. Rồi tôi cũng về đến nhà anh Vương. Sau khi sắp lễ để lên ban thờ thắp nhang xong, anh kêu tôi phải ra ngồi nghe đĩa kinh “Cứu độ chúng sinh nơi địa ngục” liền, vì anh sợ những điều không tốt sẽ làm hại tôi.
Anh kể cho tôi nghe tất cả mọi chuyện. Tôi thấy mọi việc trở nên bí hiểm. Tôi nghe anh tôi thông báo đêm nay, mười hai giờ đêm sẽ đi tìm mộ bác. Lúc này phần vì mệt, vì say máy bay, phần vì không hiểu tại sao anh tôi lại quyết định đi tìm mộ khi trời đang mưa lụt thế này. Tôi suy nghĩ, thành phố Hà Nội có nơi ngập gần một mét nước thì ngoài cánh đồng ở Hà Tây sẽ ra sao? Tôi thầm thắc mắc trong lòng nhưng cũng không nói gì. Anh em chúng tôi đều đồng lòng và chuẩn bị những thủ tục để đi tìm mộ bác rất chu đáo. Lúc chuẩn bị lên đường thì tâm trí của anh em chúng tôi rất hoảng sợ.Thấy vậy ông nội, bố mẹ và bác Huyên lên để căn dặn chúng tôi một điều là: “Tâm của các con vững thì không ai làm gì các con được. Các con cứ đi rồi sẽ thành công, không sợ bất cứ điều gì”. Và chúng tôi tin vào điều đó.
Khi chúng tôi lên xe, trời đổ cơn mưa như trút nước. Tôi thấy lo sợ nhưng không dám nói gì. Trời rất lạnh, tôi chợt nghĩ, nếu cứ mưa thế này chắc chưa tìm được mộ bác, anh em chúng tôi đã bị cảm lạnh hết.
Tôi thầm trách anh tôi sao không để qua đợt lũ lụt này hãy đi tìm Bác. Sau này tôi mới hiểu hết được giá trị về quyết định sáng suốt của anh. Nếu không có quyết định “khác người” ấy, liệu cái phúc (phước) có đến với gia đình tôi ngày hôm nay không? Tôi ngồi trong xe nói với các anh chị em, tất cả cùng niệm Phật nhé. Tôi chưa hiểu biết gì về Phật Pháp lắm nhưng cũng vẫn cứ niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn cho anh em chúng con tìm được bác con về”. Kỳ lạ thay mười lăm phút sau đó, Trời tạnh hẳn như một phép màu cũng là lúc chúng tôi đến đất Hà Tây.
Các anh tôi đã mua mấy chục tấm tôn và hơn chục cây tre để phòng khi mộ nằm sâu dưới nước thì phải cắm tôn xung quanh để chặn và tát nước để tìm cho bằng được mộ bác. Tôi ngồi bên cháu Hương. Lúc này bác tôi (tức ông Huyên) vào cháu Hương vừa xúc động vừa vui mừng vì con cháu đã đi tìm ông trong đêm mưa ngập lụt như vậy.
Đúng ba giờ sáng, ông dẫn chúng tôi ra một bờ sông, giữa cánh đồng mênh mông nước, thuộc thôn Vân Đình, xóm Vân Đình, xã Vân Đình, thị trấn Vân Đình, tỉnh Hà Tây. Khi chúng tôi đi đến một chiếc cầu bắc qua con mương, chúng tôi thấy cháu Hương chạy ngược lại bờ mương. Tất cả anh em đều bỏ dép ra mà chạy theo không kịp. Trên bờ mương, cây gai xấu hổ mọc cao lưng chừng người. Đến một lùm cây rậm cạnh bụi tre thì thấy cháu Hương đứng lại dậm chân, khóc và nói: “ Ông ở đây các con ơi!”.
Tôi vui mừng khi thấy bác chỉ trên một bờ đất khô chạy dọc bờ sông. Khi chúng tôi tới nơi Trời lại đổ mưa như trút nước. Tất cả cháu trai tập trung căng bạt, còn các cháu gái thì bưng lễ vật để cúng thổ công thần đất ở đó. Mọi việc đang diễn ra thuận lợi thì đột nhiên cháu Hà - con gái thứ hai của chị Sáu, mặt cháu tái mét như không còn máu, chân như không còn đứng vững được nữa. Chị tôi đỡ cháu thì cháu ngất gục xuống tay chị. Mọi người bảo cháu bị trúng gió. Ngay lúc đó, chị Sáu và cháu Hùng bế cháu Hà ra xe. Chị tôi lấy dầu và đánh gió cho cháu được một lúc thì cháu Hà tỉnh hơn và nói với chị Sáu:
- Mẹ ơi, mẹ bảo chị Hiền ra với con. (Hiền là vợ của cháu Hùng)
Chị Sáu nghe vậy giận và quát lên:
- Đến đây để làm chứ không phải đến đây để trông mày. Quát xong chị tôi lại nghĩ, nhà mình đang có chuyện như thế này rồi người ta hại cháu chết thì sao?
Nghĩ vậy chị tôi lại buộc túi ni-lon vào chân cháu để cõng cháu ra bờ mương ngồi.
Đúng bảy giờ sáng, chúng tôi bắt đầu đào chỗ bác chỉ. Đào được khoảng hơn 1m, tất cả chúng tôi đã mệt nhoài. Tôi và anh Vương đi vào làng thuê người đào giúp. Nhưng lạ thay, ông không cho người lạ đào mà phải chính tay chúng tôi đào mới được. Lúc đó tôi phân vân, bác không thương chúng tôi sao mà không cho người ta đào giúp? Sau thấy chúng tôi mệt quá ông cũng đồng ý. Sau này, tôi mới hiểu đó là thử thách của MẪU về chữ hiếu và tình thương của gia đình chúng tôi đối với một người bác rất nghèo khổ, chết vì đói rét như thế nào.
Cứ thế anh em con cháu người thì xúc đất, người thì múc nước, đào được đến đâu thì nước chảy vào đến đó. Vì vậy, chúng tôi cứ vừa đào, vừa múc nước, cứ một xô đất đào lên thì chị em tôi lại nắn xem có hài cốt của ông bị lẫn vào đó không. Cứ thế đến khoảng tám giờ sáng, anh em con cháu cũng mệt, vừa đói, vừa rét, vừa thức đêm, vừa say xe. Vì thương bác nên anh em chúng tôi lại tiếp tục đào đất.
Lúc bấy giờ anh Vương nghe Ông Huyên nói bây giờ con cháu phải trực tiếp đào chứ không để người ngoài đào. Anh Vương nhẩy ngay xuống hố. Lúc anh ấn xà beng xuống khoảng tám mươi phân thì thấy Ông Huyên nói đào đến đó thì dừng lại.
Một lúc sau, khi đã đào gần đến độ sâu đó, mọi người đang rất cố gắng để chiến đấu với cái đói và mệt, thì chị Sáu thấy trong người bủn rủn, chân tay rã rời. Chị tôi chạy tới bên cạnh cháu Hương ngồi cách đó khoảng vài mét để nghỉ cho đỡ mệt thì đột nhiên tôi thấy ông vào cháu Hương khóc to, ông nói: (Trích lời kể của chị Sáu)
- Các con cố lên sắp tới rồi! Ông sẽ theo các con về và chứng cho
các con.
Nghe vậy tôi ôm ông và nói:
- Ông ơi, Ông yên tâm chúng con sẽ cố gắng tìm bằng được ông về!
Nói xong, tôi đứng dậy và ra xách những xô đất. Lúc đó, tôi thấy trong người khoẻ khoắn, tỉnh táo đến kì lạ như vừa có một liều thuốc diệu kỳ. Anh em con cháu vẫn tiếp tục đào thì anh Vương cầm bản đồ cháu Hương vẽ trước đó mấy ngày mà tôi không biết. Lúc mang bản đồ ra xem, thì tôi thấy bản đồ và chỗ đào hiện tại sao lại giống nhau đến thế.
Khi cháu Hùng, cháu Biên đang đào đến độ sâu gần 4m, lúc đó là 11 giờ trưa thì nghe tiếng ông vào cháu Hương và nói:
- Tới rồi, dừng lại! Các con hãy bốc tất cả những cái gì ở dưới đấy lên rồi ông sẽ theo các con về và chứng cho các con.
Chúng tôi làm theo lời Ông dặn, bốc hết phần đất ở độ sâu đó đưa vào một cái tiểu sành được lót bằng một tấm vải đỏ, và tiến hành đầy đủ các thủ tục như một nghi lễ sang cát. Khi anh em chúng tôi khiêng tiểu ra xe Trời lại đổ mưa. Tôi có cảm giác như chưa bao giờ Trời lại mưa lớn như thế. Lúc này, tôi đã cảm nhận được điều gì đó quá linh thiêng của Trời Đất. Mãi sau này tôi mới hiểu được đó là môt sự thử thách, một sự theo dõi, một sự cảm động của cả một cộng đồng Phật, Trời, Thánh, Thần đang nhìn và chứng cho tấm lòng thành của một đại gia đình nhỏ bé đối với người bác của mình.
(Trích lời kể của chị Sáu)
Chúng tôi lên đường về Hà Nam lúc đó khoảng một giờ chiều. Mọi người vừa đói, vừa rét, vừa say xe nên ghé vào quán ăn lót dạ, xong lại lên xe để về ngay cho kịp giờ. Trên đường về thì mưa nhỏ nhưng dai dẳng. Đường bị ngập mênh mông nước vì mấy ngày hôm đó mưa rất to. Trong suy nghĩ của tôi lại lo không biết ngoài nghĩa địa gần nhà chỗ đưa bác về có ngập không? Và tôi bảo anh Vương điện cho sư Đông lên nghĩa trang cắm hướng để mộ. Khi chúng tôi về tới nghĩa trang quê tôi thì trời lại mưa như trút nước. Lúc chúng tôi khiêng quách xuống để làm thủ tục thắp hương và hạ huyệt thì trời ngớt mưa. Khi đào nhát xẻng đầu tiên thì trời hửng nắng, lúc đó vào khoảng năm giờ chiều. Tôi thấy rất lạ là tại sao trời đang âm u mà lại hửng nắng ngay như vậy.
Lúc đó chị Thắm đi trên thành mộ bên cạnh và nói:
-Tao bảo nắng là nắng mà mưa là mưa có sai đâu. (Chị Thắm là chị gái trên tôi). Chúng tôi cố làm xong trước khi trời tối và công việc đến đây cũng đã ổn.
Anh em chúng tôi lên xe đi về. Lúc về đến nhà thì trời cũng vừa tối. Tôi và chị Thanh nói với nhau, hai chị em lên thắp hương các cụ còn để đến ngày mai mời sư Đông lên rồi làm mâm cơm cúng. Xong chị em tôi đi nấu cơm ăn như thường lệ. Ăn cơm xong, cháu Hùng, Hiền, Biên, Hà lên ôtô về Hà Nội để ngày hôm sau đi làm. Anh em chúng tôi chuyện trò ai nấy đều rất mừng và phấn khởi vì đã tìm được mộ của bác.
Đến khoảng mười giờ đêm thì chúng tôi đi ngủ. Vừa nằm một lúc thì cháu Hùng điện thoại về nói rằng xe bị chết máy. Anh Vương xuống nhà thông báo cho chúng tôi là xe của cháu Hùng bị chết máy. Tôi không ngủ được. Một lúc thì tôi thấy chị Thắm cứ lẩm bẩm nói:
- Bảo làm mâm cơm thắp hương tìm thấy mộ bác mà không làm thì xe chết máy là đúng.
Nghe vậy tôi ngồi dậy và đập vào vai chị và hỏi:
- Chị tỉnh hay mơ thế?
Chị Thắm hẩy tôi một cái và nói:
- Ngủ đi!
Tôi nhìn vào mặt chị thì thấy hai mắt của chị đỏ ngàu, còn khuôn mặt thì rất dữ dằn. Vừa lúc đó thì chị Nương (chị gái thứ ba nhà tôi) và em Bẩy bật dậy khi nghe chị Thắm lại nói:
- Tìm được mộ bác Huyên, các con không làm mâm cơm thắp hương thì xe chết máy là đúng.
Lúc đó, chị Nương và em Bẩy rất sợ hãi quay ra bảo tôi:
- Không làm mâm cơm thắp hương mẹ về trách đấy. Lúc đấy người tôi cứ run bắn lên, tôi bảo:
- Không phải mẹ, mà các cụ ông bà nhà mình cũng không trách đâu, mà là tà ma đấy.
Tôi lại quát to:
-Lên gọi anh Vương, chị Thanh xuống đây và gọi cháu Hương bên nhà bác Toản về đây.
Lúc đó, anh Định nằm ở giường bên cạnh cũng nghi ngờ không biết có phải mẹ hay không thì anh Vương và chị Thanh ở trên lầu xuống, anh hỏi:
- Thắm có biết anh là ai không?
Chị Thắm nói:
- Anh là anh Vương của em đứa nào mà động đến anh Vương thì tao đánh cho bỏ mẹ. Anh Vương lại nói tiếp:
- Đã bóc mẽ ra rồi mà vẫn còn nhảy vào giả làm mẹ à?
Lúc đó người trong chị Thắm luôn miệng nói:
- Bảo làm mâm cơm thắp hương không làm thì xe chết máy là đúng.
Cùng lúc đó thì cháu Hương ở bên bác Toản về đến nhà, anh Vương có nói với cháu:
- Con ngồi vào đây xin cho bố gặp bà.
Cháu Hương ngồi vào giường, ngay lúc đó mẹ tôi vào cháu Hương, anh Vương liền hỏi:
- Mẹ ơi!công việc chúng con đi tìm mộ bác Huyên hôm nay có sai xót điều gì không hả Mẹ?
Mẹ tôi bảo:
- Các con không sai gì cả, mà cả họ mừng lắm, không trách các con điều gì đâu.
Nói vậy xong, mẹ tôi ra khỏi người cháu Hương. Lúc đó, người vào chị Thắm để giả làm mẹ cũng ra khỏi người chị Thắm vì đã bị anh em chúng tôi bóc mẽ.
Xong rồi cả nhà đi ngủ. Tầm nửa đêm có một tiếng nổ rất to mà cả bốn chị em tôi đều bật dậy, riêng cháu Hương thì ngủ rất ngon như không hề nghe thấy gì. Bốn chị em tôi người thì bảo tiếng lốp ôtô nổ, người thì bảo cái ghế đổ, người thì bảo cái gì nổ to thế. Còn riêng tôi nghĩ thì tiếng nổ đó là chứng giám của Trời Phật cho đại gia đình chúng tôi về sự hiếu thảo của con cháu đối với các cụ, ông bà… Vì đã làm được một việc lớn.
Sáng ngày hôm sau, cả gia đình chúng tôi mỗi người mỗi việc, người thì nấu cơm, người thì cắm hoa… chờ Sư Đông lên làm lễ. Sau khi xong việc, chiều hôm đó anh em chúng tôi lại chuẩn bị lên Hà Nội. Tôi nghe anh Vương nói tìm được mộ bác Huyên về thì không còn lo sợ gì nữa.
Về đến nhà thì tôi và cháu Hà đều có cảm giác kì lạ là cả hai mẹ con tôi đều rất run sợ. Tôi và cháu còn không dám soi gương, chưa bao giờ tôi có cảm giác như thế. Tôi thấy trong người cứ nóng ruột, tôi lại lấy xe đi xuống nhà anh Vương. Khi xuống đến nơi thì anh Vương nói với tôi và cả nhà là tìm được mộ bác Huyên, anh mới có một giấc ngủ ngon. Khi nghe thấy anh nói thế thì người tôi lại càng lo lắng, tôi nói với anh rằng:
- Vẫn còn điều gì chưa biết được nên em vẫn thấy có cảm giác sợ lắm.
Anh Vương nghĩ ra và bảo cháu Hiền, con dâu của anh về nhà cầm quyển sổ mà hôm đầu tiên đi thẩm định những ngôi mộ mang sang cho anh xem lại. Khi xem xong thì anh phát hiện ra những vong giả nhận là người trong dòng họ, ở vùng nào thì ở đó đều có người trong gia đình chúng tôi sinh sống. Lúc anh Vương phát hiện ra điều đó thì tôi thấy điều lạ lùng là cái cảm giác nặng người và run sợ đó hết ngay.
Và tôi hỏi cháu Hà con gái tôi cháu cũng không còn cảm giác như thế nữa.
Buổi tối hôm đó tôi lại xuống nhà anh Vương, tôi lại được nghe bố mẹ, bác Huyên và ông nội tôi lên nói chuyện. Khi tìm được mộ bác Huyên thì con cháu trong dòng họ Nguyễn không còn lo sợ đến tính mạng nữa. Nghe vậy tôi có suy nghĩ sự việc trong gia đình chúng tôi là một sự việc rất quan trọng mà anh em chúng tôi chưa hề hay biết, chỉ nghĩ rằng nhà mình được phúc nên đã tìm được mộ bác với tấm lòng hiếu thảo của con cháu trong dòng họ Nguyễn.
Từ đó “Ông Huyên” một cái tên mà chúng tôi đã thân mật gọi ông như thế. Ông đã ở luôn trong gia đình anh tôi mọi lúc, mọi nơi. Ông ngự luôn trong người cháu Hương đi chơi với chúng tôi, chia sẻ mọi niềm vui nỗi buồn của đại gia đình chúng tôi. Chúng tôi rất hạnh phúc và quí ông vô cùng. Ông luôn ở trong cháu Hương và dạy dỗ tất cả chúng tôi từ anh Vương tôi trở xuống cho đến cháu nhỏ nhất là cháu nội của anh tôi.
Chúng tôi vẫn thân mật với Ông, kính trọng Ông như một người cha trong gia đình. Ông không bao giờ giận chúng tôi dù có một số con cháu đã làm Ông buồn rơi nươc mắt. Ông vào cháu Hương đi bán hoa tết, tuy bán không được lời bao nhiêu nhưng Ông rất vui, Ông nói:“Để cho các con biết kiếm đồng tiền cực khổ như thế nào?”.
Những con cháu nào tính tình nóng nảy mắc nhiều lầm lỗi, Ông dạy dỗ nhiều hơn. Ông kiên trì đến mức kinh ngạc, Ông khuyên nhủ chúng tôi lấy chữ hiếu làm đầu.
Mãi sau này dần dần chúng tôi phát hiện ra những lời dạy dỗ của Ông không giống như một người cha, người bác bình thường. Trong những lời dạy dỗ đó có chứa đựng sự Từ Bi, Hỉ, Xả của Phật Pháp mà chỉ người Trời mới có được. Chúng tôi mới nhận ra Ông chính là một vị bồ tát mà Phật Địa Mẫu đã ban Ông xuống trần gian vào gia đình tôi, để dạy dỗ và dẫn dắt đại gia đình chúng tôi tu theo con đường của Phật Địa Mẫu.
Hồi đó anh Định tôi rất hay đi câu cá giải trí và mỗi lần đi câu còn mang rất nhiều cá về ăn và còn cho anh em nữa. Ông đã rất khéo léo dạy dỗ và khuyên bảo
Tôi xin trích ra lời khuyên của Ông:
“Con nói rằng con đi câu cá giải trí mà vẫn đem cá về ăn, nếu con đặt cần câu xuống, cá cắn câu con không giật thì đó mới là con đang thiền. Và ngày hôm đó con đã câu được trăm con cá có tâm nó không mắc lưới vào đầu con”.
Tôi đã nhận ra ông đang hướng gia đình tôi đi vào con đường nào và tôi hàng ngày khuyên anh Định bỏ đi câu cá. Ít lâu sau đó anh đã bỏ hẳn. Rồi Ông dạy: “Cái đạo làm người khác nhau con vật. Con vật còn biết thương nhau huống chi là con người, huống chi là ruột non, ruột già. Năm châu bốn bể còn là một lòng huống chi là anh em, vợ chồng”.
(Câu này Ông dạy dỗ chung bao gồm rất nhiều thành viên trong gia đình tôi. Nhờ câu nói này mà chúng tôi, mỗi thành viên trong gia đình đã nhận ra phải sống đoàn kết, sống vị tha hơn và tha thứ tất cả lỗi lầm cho nhau.)
Điều đặc biệt là Ông không bao giờ cho chúng tôi biết Ông là một vị Bồ Tát. Cho tới khi chúng tôi tự nhận ra, Ông mới nói: “Ông ở trong ngôi Tam Bảo. Bất kỳ ngôi chùa nào cũng có ông nhưng là ai thì khi các con tu chánh niệm Ông sẽ cho các con biết”.

Tôi xin trích nguyên văn một số lời dạy của Ông để quý vị tham khảo.
“Khi các con vào trong chùa, Ông sẽ nhìn sâu vào ánh mắt đứa nào đó trong đại gia đình các con dù đứa nhỏ hay là lớn. Ông sẽ giác ngộ vào ánh mắt cho con biết Ông là ai. Nước mắt con sẽ dòng ra thì đó là Ông cho con biết. Nhưng phải tu chánh niệm thì mới biết được Ông là ai, nếu nhìn sai thì cần phải thêm nữa”.
Và thật may mắn cho tôi, tôi là người trong dòng họ được nhìn thấy Ông tại chùa Long An (hay còn gọi là chùa Ông Một) tại Quận Cái Răng TP Cần Thơ. Tôi sẽ kể phần này sau để cho phù hợp với trình tự của câu chuyện.
Và Ông nói: “Ông chính là Chân Kinh Đạo nghĩa.”
Cháu Hùng con anh Vương hỏi: “ Ông ơi, Ông nói Ông là Chân Kinh Đạo Nghĩa là như thế nào? Ông giải thích cho cháu”.
Ông Huyên hỏi lại chúng tôi: “Các con giải thích thế nào là Chân Kinh Đạo nghĩa?”
Cháu Hùng: “Theo cháu Chân kinh nghĩa là Chân thật ạ!”.
Anh Định: “Theo con Chân Kinh nghĩa là chân lý”.
Ông mỉm cười giải thích cho chúng tôi: “Chân kinh không phải thường thường như trên mạng viết. Đó là sự chan chứa, sự huyết mạch mới thể hiện được chân kinh giác ngộ. Nó chính là chân thật và chân lý. Nhưng hiểu như thế thì thường quá. Nó phải từ huyết mạch ra. Mất máu thì chết, cái huyết là ở chỗ đấy, phải bao trùm toàn thân mới ra những đường gân này, mạch này, máu này. Nó khác là ở chỗ đấy. Chân lý quá bình thường, máu mà đã ra thu không có được. Đó là Chân Kinh thường gọi là chân lý”.
Chúng tôi vô cùng kính trọng ông. Anh Vương tôi đề nghị Ông cho biết chân dung của Ông để tạc một pho tượng. Khi hoàn thành điện thờ Mẫu, chúng tôi sẽ đưa hình tượng của Ông thờ dưới hình Tượng của Phật Địa Mẫu.
Ông rất cảm động, Ông khóc và nói rằng:
“Ông vui vì câu nói này, các con không thỉnh Ông cũng về mà. Ông tưởng trần gian bạc tình, bạc nghĩa như trên Ông vẫn thấy. Ông không ngờ trần gian còn có một gia đình họ Nguyễn ấm lắm, ấm lòng vô cùng. Ông chỉ thấy người ta đến chùa cầu giàu sang để làm nhiều tiền. Họ ấm chứ ông đâu có ấm. Thắp nhang ấm hơi lửa chứ không ấm lòng. Ông thấy trần gian bạc tình, bạc nghĩa. Con cái cầm dao chém mẹ, chồng giết vợ cũng chỉ vì đồng tiền.”
Ông ở với gia đình tôi gần một năm. Trong thời gian này, tự tâm chúng tôi, nói đúng hơn là gia đình anh Vương tôi đã thấu hiểu được công ơn của Phật Địa Mẫu: NGƯỜI đã vì chúng sinh nhân loại, vì những đứa con của NGƯỜI mà từ bỏ sự cao sang, thanh tịnh nơi cõi thiêng liêng mà xuống trần gian để dạy dỗ, cứu vớt chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp này. Vậy mà chúng ta đã có ai nhắc đến tên Phật địa Mẫu chăng? Có một lần gia đình chúng tôi về đền Tiên La (Thái Bình), Ông cũng đi cùng. Khi về nhà, Ông vào cháu Hương khóc rất nhiều, khóc đến nghẹn lời:
“Đi Đền Tiên La mà tủi thân lắm con ơi! Trời mưa ngập lụt, có một nơi mà ai ai cũng biết ra vào cung nghinh, đẹp Trời, đẹp lòng. Nhưng phải chăng đã có ai biết được cái tâm nguyện của NGƯỜI (Mẫu) chỉ cần một cái ngôi thờ nho nhỏ như trên( ý nói là như gia đình tôi). Không cần chi cả, không cần tiền bạc nhiều chi mà rắc đầy giám hố, chỉ cần tâm các con giác (giác ngộ) là được lắm rồi. Cái tâm nguyện nho nhỏ như vậy thôi. Trời mưa! Ông tới Ông nhìn trời mưa, thứ nhất là ngày giỗ, thứ hai là giờ ai ai chư Phật cũng hiểu rằng NGƯỜI về đã lên tiếng. Không chỉ các con ngồi đây mà chư Phật khắp nơi đều thương thay cho cái tâm nguyện của NGƯỜI và tâm nguyện đó sẽ hoàn tất dần dần từ gia đình ta. Truyền lưu, vạn phát đến khắp toàn Đông, Tây, Nam, Bắc. NGƯỜI tủi thân vô cùng. Các con của NGƯỜI có nơi, có nhà, có thờ phụng, có con cháu, có phật tử đi theo. Nhưng đã có ai đi đúng đường của Phật Địa Mẫu đâu. Đều từ mê tín mà đi lên. Mê tín thì làm sao NGƯỜI dẫn đường, dẫn lối”.
Và gia đình tôi đã hoàn thành ngôi thờ PHẬT ĐỊA MẪU tại gia, ở nhà anh Vương tại địa chỉ số 19 ngách 87, Ngõ Trại Cá Đường Trương định, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Ông cho chúng tôi biết nhiệm vụ của Ông đã hoàn thành một nửa. Đó là Mẫu cho Ông xuống trấn an gia đình tôi và dẫn dắt Đại gia đình tôi vào con đường tu. Nếu không có Ông thì gia đình tôi mỗi người hiểu một phách, mỗi đứa chạy một nơi, mỗi người tu một kiểu. Bị ma quân dẫn dắt lung tung, không thể đúng đường được.
Ông nói rằng:
“NGƯỜI cho ma quân xuống gia đình ta, đều là NGƯỜI giáng xuống để gia đình này biết thế nào là đúng thế nào là sai, thế nào là Đạo, thế nào là ma. Trong đại gia đình biết và nhìn, nghe, và thấy, để sau này người ta không hiểu và thắc mắc thì phải chỉ dẫn ra cho người ta biết thế nào là ma quân, thế nào là chân lý. Ma quân không bao giờ có chân lý. Chỉ có những người tu đúng đường mới có chân lý”.
Và Ông cho chúng tôi biết rằng nửa đường đi còn lại, chúng tôi đi đúng đường hay không là do tâm của các con. Ông dặn dò chúng tôi rất nhiều trên con đường tu và hẹn gặp lại ở miền Nam (tức Cần thơ), nơi mà gia đìmh tôi và gia đình anh định đang sinh sống nếu chúng tôi tu tốt. Anh Định xin ông vào nhà anh để dạy dỗ vợ con anh. Ông nói rằng:
“Ông sẽ gặp con ở Cần Thơ, đó là cái phúc Ông để ngoài. Ông đặt dấu hỏi xem bản thân con, người mà ông lưu tâm, lưu ý có đến được đến đích không? Ông mới cho cái chỗ trống, dấu hỏi đó vào danh đề. Còn nếu không được Ông sẽ đi và cuộc gặp gỡ của Ông cháu ta chỉ đến đây.Trong tâm các con Ông sẽ tồn tại mãi mãi. Các con cố gắng lên, Ông luôn mở rộng để đón chờ các con, các cháu. Không phân biệt là nam hay nữ, giàu, nghèo hay sang trọng, ai ai Ông cũng đón và chờ. Chỉ mong các con, các cháu quyết tâm, quyết chí để thực hiện trọn cái kiếp làm người ở nơi này và sau này sẽ làm tròn những điều ở nơi khác, mà các con chưa từng biết. Sống làm người nhớ giữ trọn cái tình cái nghĩa của một con người. Chớ chui rúc mua gian, bán lận, cướp giật, tranh giành ở ngoài đường. Rồi sau này sẽ nhận lại. Sống phải ngẩng mặt lên Trời để nhìn thiên hạ, nhìn con người với con người chứ đôi mắt con người mà chỉ nhìn con vật. Phải nhìn cuộc sống thực tại, biết vực lên sau khi ngã. Thấy lội cứ bước, rồi sẽ qua. Chớ nhìn thấy lội mà nản quay về, hay tìm đôi qiày, đôi sục mà bước. Không gian truân các con không nên người. Không vượt gian, vượt khó các con không thành đạt. Ông sẽ chờ các con, các cháu ở một nơi hoan hỷ. Trước khi ông đi, Ông chúc cho đại gia đình các con, từng con cháu, dù bé như cháu Kim (cháu nội anh Vương) trở lên, Ông chúc rằng, sau này phải chăng kiếp này hay kiếp sau Ông được đón nhận ai đó trong đại gia đình các con trên hội Bàn Đào, để Ông mỉm cười. Ông chúc các con tu tại gia cho tốt, giữ cái phúc cho tròn. Các con chớ buồn rầu vì không còn Ông mà hãy vui, phấn khích trên con đường tiếp theo của từng con cháu để nối dõi dòng họ Nguyễn lưu truyền kinh Địa Mẫu”.
Gần tới ngày gia đình tôi đưa hình tượng Mẫu lên thờ thì Ông tạm biệt chúng tôi.
Trở lại thời gian tôi ở Hà Nội. Khi đã tìm mộ Ông Huyên về và công việc đã ổn định, tôi ở luôn dưới quê Hà Nam vì gia đình chồng tôi cũng ở đó. Tôi ở lại đến ngày 16/10/2008 (âm lịch) thì đi Hà Nội để thu xếp vào Cần Thơ. Đêm đó các cụ, ông bà và bố mẹ tôi vẫn về dạy con cháu bình thường. Các cụ dặn dò tôi vào Miền Nam lo làm ăn cho tốt…
Và đêm ngày 17/10/2008 cũng vậy, ông nội tôi và bố mẹ tôi về. Các cụ có giải thích cho chúng tôi về ngày “Thập bát trăng mười” là ngày lễ rất quan trọng của Mẫu. Một năm mới có một ngày và ngày mai - ngày 18 tháng 10 năm 2008 là ngày lễ đầu tiên của Mẫu tại gia đình tôi. Mẹ tôi bảo mẹ tôi được đặc ân lắm nên mới được ở lại từ tối nay đến trưa ngày mai, khi nào lễ Mẫu xong là mẹ tôi đi…
Trích lời kể của chị Sáu:
Anh em chúng tôi trò chuyện với nhau thêm một lát rồi đến chín giờ tối thì chúng tôi đi ngủ. Lúc đó cháu Hương vào ngủ trước, tôi vào sau và nói với cháu:
- Hương ơi, hôm nay cháu ngủ đâu thì bà ngủ ở đó phải không?
Cháu quay lại nói với tôi:
- Cô ơi, mọi hôm bà vào cháu thì cháu thấy bình thường nhưng hôm nay thì cháu thấy đau hết người và đau một chòm lưng cô ạ.
Tôi bảo:
- Đúng đấy lúc còn sống bà bị đau lưng mà.
Khi nói đến đây, tôi quay ra nhìn lại cháu thì thấy cháu nằm giống y như lúc mẹ tôi còn sống. Lúc đó tôi hỏi:“Mẹ hả?”. Mẹ tôi khóc, tôi nói với mẹ rằng:
- Lúc mẹ sống thì mẹ khổ với các con, các cháu nhiều rồi, bây giờ chúng con chỉ muốn mẹ vui lên, vì nhà mình có phúc nên mẹ con mình mới được nói chuyện như thế này.
Nói xong thì mẹ tôi bảo:
- Hôm nay mẹ được đặc ân ở đây, đến ngày mai lễ Mẫu xong mẹ mới đi. Mẹ về lại đau lưng và cử chỉ nhỏ nhất của mẹ cũng là thật, y như lúc mẹ còn sống. Bây giờ mẹ đau như thế này nhưng xong thì cháu Hương lại khỏe.
Lúc đó tôi có suy nghĩ là nhà mình có phúc nên mới được chăm mẹ một đêm hôm nay. Nghĩ vậy, tôi muốn xoa lưng cho mẹ cả đêm không ngủ. Lúc đó, tôi định gọi em Tám là mẹ về, nhưng tôi lại nghĩ mẹ thương em, mẹ lại khóc nên tôi không gọi.
Khi gặp các cụ xong, tôi xuống lầu đi tắm và chuẩn bị hành lý để vào Nam. Đến gần mười giờ đêm mới xong. Tôi bước vào phòng thì cháu Hương đã đi ngủ. Vừa bước vô phòng thì nghe tiếng mẹ tôi gọi: “ Tám ơi, Tám!”. Tiếng gọi đúng như lúc mẹ tôi còn sống vậy. Tôi không tin vào tai mình vội vàng bỏ chậu quần áo chạy lại giường cháu Hương đang nằm. Mẹ đã vào cháu Hương từ bao giờ chờ tôi. Mẹ khóc sưng hết mắt. Tôi và chị Sáu ôm mẹ khóc, mẹ dặn dò tôi đi vào miền Nam lo làm ăn, rồi mẹ sẽ phù hộ cho con. Mẹ khóc nhiều quá, tôi và chị sợ mẹ mệt, (cháu Hương mệt) nên chị em tôi không dám khóc nữa. Mẹ kêu đau lưng, tôi và chị Sáu cứ nằm xoa lưng cho mẹ. Mẹ nói:
- Hôm nay, gia đình mình có phúc lắm hai đứa mới được ngủ với mẹ như thế này.
Mẹ khuyên hai chị em tôi ngủ cho khỏi mệt nhưng làm sao chúng tôi ngủ được. Tôi nằm lén nhìn mẹ, mẹ nằm đó hai mắt nhắm nghiền nhưng vẫn khóc thầm, sợ chị em tôi biết. Điều kỳ diệu là từ khuôn mặt đến cử chỉ, giọng nói của cháu Hương giống mẹ tôi như đúc. Tôi và chị Sáu thấy lạ quá liền kêu hết cả nhà dậy, lúc đó là hơn mười một giờ đêm ngày 17/10/2008. Cả nhà ai cũng nhận ra là mẹ, là bà nội thật sự chứ không phải trong mơ, cũng không phải một hay hai người thấy mà có tất cả tám người con trai, con gái, con dâu và cháu nội được nhìn thấy mẹ. Mẹ nói với tất cả chúng tôi, đêm nay là đêm không bao giờ có được, mẹ được đặc ân về với các con cháu, y như lúc mẹ còn sống, để cho các con chăm sóc mẹ. Mẹ nói đây là cái phúc ngàn đời mà không ai có được. Lúc đó, anh em tôi không nghĩ được gì khác mà chỉ biết chăm lo cho mẹ. Hai anh tôi ôm mẹ vào lòng, còn tôi và chị dâu đi lấy nước cam và sữa cho mẹ uống. Thấy mẹ đau quá chúng tôi không biết làm thế nào. Sau này anh Vương và chị Sáu nói với cháu Hương:
- Con là người được Mẫu chọn, con xin Mẫu cho bà nội hết đau nhé con.
Cháu Hương nói:
- Bố không phải dặn, con tự biết xin cho Bà.
Chúng tôi cũng đâu biết rằng Phật Địa Mẫu đã dành một đặc ân cho gia đình chúng tôi, để anh em tôi được gặp người mẹ đã mất cách đây năm năm. Chúng tôi cứ nghĩ đó như là chuyện lạ mà có thật. Và đó cũng là thử thách cuối cùng của NGƯỜI về lòng hiếu thảo của con cháu đối với một người mẹ, người bà đau ốm trước khi NGƯỜI quyết định giáng trần về gia đình chúng tôi, vào cháu Nguyễn Thị Thu Hương.
Khoảng gần mười hai giờ đêm, mẹ bảo chúng tôi đi gọi chị Đưởng sang. (Chị Đưởng là con gái lớn nhất của mẹ tôi và cũng là người đầu tiên đưa Kinh Địa Mẫu cho mẹ). Vì hôm nay là ngày đặc biệt. Mẹ không nói rõ là ngày gì mà chỉ nói là rất quan trọng. Chúng tôi điện thoại cho chị Đưởng nói rằng Mẹ muốn gặp chị, chị không sang và nói rằng:
- Mẹ về thì chúng mày gặp mẹ đi, khuya rồi tao không sang.
Chúng tôi cho cháu Dũng, cháu Biên sang gọi, chị cũng không đi.
Mẹ nói:
- Các con ơi, nhanh lên sang kêu chị mày sang đây!
Anh Vương thấy mẹ tha thiết quá, phần vì thương mẹ khóc nhiều quá nên anh đích thân sang nhà kêu chị sang, vì nhà chị Đưởng cũng rất gần. Khi chị sang mẹ tôi chỉ khóc và nói rằng:
- NGƯỜI đã đi rồi, NGƯỜI đã quay lưng đi rồi, uổng phí công con tu mười mấy năm trời rồi Đưởng ơi.
Và mẹ khóc ngất lịm đi. Tôi còn nhớ như in cử chỉ và lời nói của chị Đưởng khi chị ngồi xuống giường kéo chăn đắp lên chân mình rồi nói:
- Mẹ muốn nói gì với con? Con nói cho mẹ biết nhá. Con là người đầu tiên đưa kinh Mẫu cho mẹ và cháu Hương - Chị vừa nói vừa chỉ chỏ.
Thời gian đầu, các cụ, ông bà, bố mẹ tôi về báo tin vui Phật Địa Mẫu chọn cháu Hương để giáng trần và khuyên chị sang nhà anh Vương để được nghe Mẫu dạy. Chị đã bức xúc cho rằng mình là người tu theo Mẫu đầu tiên và rất lâu rồi, mà tại sao phải theo cháu Hương và anh Vương. Có lần các cụ về gặp chị khuyên bảo thì chị nói: “Không nói chuyện với người âm”, cho nên chị mới có thái độ như vậy.
Chị còn nói nhiều tôi không nhớ hết. Mẹ tôi khóc lặng người đi và cháu Hương không thở được. Chúng tôi nóng ruột quá vì thương Mẹ, lại sợ cháu Hương mệt quá nên kéo chị ra ngoài, hay nói một câu khó nghe là đuổi chị về. Chị tôi không hề biết rằng con đường tu khó vô cùng. Có người cả đời tu mà vẫn sai đường và còn phải do duyên nghiệp nhiều đời, nhiều kiếp. Lúc đó đúng không giờ - thời khắc “Khai thiên tịch địa”, từ giữa đêm ngày 17/10 sang ngày 18/10/2008(âm lịch). Khi qua giờ phút thiêng liêng ấy, mẹ tôi mới nói rằng, mẹ không còn đau nữa, vì đó là Mẫu thử lòng chúng tôi nên cho mẹ về như thế. Và mẹ không được phép nói trước cho chúng tôi biết điều gì. Rồi mẹ chỉ lên trần nhà và nói:
- Vừa rồi NGƯỜI đã giáng về soi xét hết các con. Mẹ tiếc cho con Đưởng, nó mất hết công tu mười tám năm nay. NGƯỜI đã quay lưng đi rồi, chỉ được cháu Hương thôi. (Vì cho tới lúc ấy gia đình tôi chỉ có cháu Hương và chị Đưởng là tụng Kinh Địa Mẫu). Và mẹ khóc lặng đi. Tôi thấy thương mẹ vô cùng. Đúng là tình thương của một người mẹ không gì so sánh được. Lúc sống thì từng giờ, từng phút dõi theo con. Khi mất đi cũng vẫn từng giờ, từng phút lo lắng cho con. Mặc dù người con ấy đã không hiểu mẹ mình.
Chị tôi cũng là một người con có hiếu và lo lắng cho chúng tôi cùng với cha mẹ. Vì gia đình nghèo nên chị lo cho chúng tôi từ manh áo. Tôi không bao giờ quên những ngày đó. Chúng tôi gặp hoạn nạn gì, bằng tình thương của một người chị, chị sốt sắng lo lắng, cúng bái cho chúng tôi. Nhưng khi đã được Ông Huyên và các cụ dạy bảo và tìm hiểu sâu về Phật Pháp. Tôi mới hiểu được rằng cúng bái, thày bà là theo tà đạo. Tiếc rằng trên con đường tu chị tôi đã cố chấp và luôn cho rằng mình đã tu đắc đạo, đã thành thần thành thánh. Mỗi lần chị em tôi nói chuyện để bảo ban nhau về đường tu sao cho đúng thì chị nói chúng tôi không hiểu biết gì và thế là chị em tôi lại không thể nói với nhau được nữa.
Chị đã phạm một sai lầm đáng tiếc vào đêm 18-10 hôm đó với mẹ.
Tiện đây tôi xin nói với chị vài lời: “Tôi mong rằng khi đọc được cuốn sách này, chị không giận chúng tôi, mà tìm hiểu thật kỹ về Phật Pháp để tìm ra mình sai ở chỗ nào. Chúng tôi luôn ở bên chị. Ông bà, bố mẹ luôn ở bên chị và Mẫu cũng luôn ở bên chị khi chị đi đúng con đường tu chánh niệm. Tôi mong chị hiểu rằng, tất cả anh, chị, em cũng đang tu sửa từng ngày, từng giờ. Vì chúng ta là người trần nên bất cứ ai cũng phạm sai lầm nhưng nếu nhận ra và sửa đổi, không bảo thủ thì sẽ tốt hơn trên con đường tu của mình. Chúng tôi đã nhận ra rằng: Tu, tu nữa và tu mãi không bao giờ đủ. Các vị Bồ Tát còn vẫn phải tu kia mà. Tôi mong chị hiểu điều này”.
Và đêm đó cả nhà tôi thức trắng không ai ngủ được. Mẹ cứ khóc như thế đến bốn giờ sáng thì mẹ đi. Ngày hôm đó chính là ngày 18/10/2008 - năm Bính Tý.
Sau này khi đã trì kinh Địa Mẫu, chúng tôi mới thấy được sự huyền diệu của những vần thơ trong kinh Địa Mẫu:
“Hội Tý Sửu Khai Thiên Tịch Địa
Vạn Sự Thành Hiếu Nghĩa Vi Tiên”
NGƯỜI đã giáng trần và lựa chọn đại gia đình chúng tôi, thử thách chúng tôi cũng bằng chữ hiếu. Vì MẪU là một người Mẹ, nên đã lấy một người mẹ để thử lòng chúng tôi. Và đúng như lời NGƯỜI dạy, vạn sự thành bằng chữ hiếu nghĩa.
Đây là ngày Phật Địa Mẫu Giáng Trần đúng như lời Mẫu nói trong cuốn ĐỊA MẪU CHÂN KINH đã có từ bao giờ tôi cũng không biết nữa.
Đại Từ Tôn Mẫu Hoàng Cho Biết
Đúng Trăng Mười (tháng 10) Vào Tiết Trời Đông
Mẫu Từ Xuất Hiện Thần Thông
Vào Ngày Thập Bát (ngày 18) Trần Hồng Giáng Sinh.
Đến sáng hôm sau anh em chúng tôi bảo nhau mỗi người một việc. Người thì đi chợ mua hoa quả, người chuẩn bị hương, nến, đèn, nước, bầy sẵn lên ban thờ đúng như trong Kinh Mẫu dạy:
Sắm lễ vật cung nghinh Từ Mẫu
Trong các ngày kỵ Mẫu lập đàn
Gồm có sáu ngọn đăng quang
Quả hoa tươi thắm hương phàn năm cây.
Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ.
Và đây là ngày đầu tiên đại gia đình tôi cùng nhau trì Kinh Địa Mẫu.
Lúc này, anh em chúng tôi rất thành tâm và mong mỏi đến giờ ngọ để được nghe Mẫu giảng kinh. Ai nấy đều ngồi lắng nghe cháu Hương đọc. Khi cháu đọc đến phần Sám Kinh Địa Mẫu thì đột nhiên có một giọng nói miền Trung rất già như một lão bà, ngay lúc đó anh em chúng tôi đều nhận ra là Mẫu đã ngự vào cháu Hương để giảng kinh cho chúng tôi nghe. Cả buổi giảng kinh hôm đó hầu như NGƯỜI khóc từ đầu đến cuối, như các vần thơ trong kinh:
Phật Mẫu đã ngự đó rồi
Mẹ đứng ra làm thầy trước nhất
Đạo hoằng khai lời thật huyền linh
Phổ thông truyền bá chơn kinh
Cả nhà tôi có một số thành viên không cầm được nước mắt. Sau này tôi mới nghiệm ra rằng những ai nghe Kinh Mẫu mà khóc được thì đó là những người rất nhạy cảm với kinh sách và đã có căn tu từ nhiều đời, nhiều kiếp.
( Xin xem tiếp bài 4 )
 

Hàn Sĩ Ngô

Lão làng
ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU - CẢM NHẬN TỪ MỘT HUYỀN THOẠI.
HUYỀN THOẠI PHẬT ĐỊA MẪU
GIÁNG TRẦN VỀ MỘT GIA ĐÌNH DÒNG HỌ NGUYỄN
Sang ngày 19/10, các anh chị đưa tôi lên tàu trở về Cần Thơ. Tôi đang chia tay các anh chị để đi thì thấy chị Thắm (chị gái thứ năm của tôi) khuôn mặt bần thần khóc giữa sân ga. Tôi chạy lại thì thấy chị khóc mà cái miệng y như miệng mẹ tôi vậy. Tôi biết đó là tình cảm thật của mẹ tôi vào chị để tiễn tôi. Và tôi vẫn phải chia tay vì đã đến giờ tàu chạy.
Trích lời kể của chị Sáu:
Hôm đó khoảng tám giờ tối chúng tôi chuẩn bị đưa em Tám vào Cần Thơ, cả gia đình có tám người đi, những thành viên khác ở lại nhà. Lúc tầu gần chạy tôi nói với chị Đưởng:
- Em muốn nói chuyện với chị…
Tôi định thuyết phục chị tin và quay đầu nghe lời dạy của các cụ, ông bà, thì chị lại ngắt lời tôi:
- Mẹ đang ở trên đầu, trên cổ tao.
Rồi chị quay mặt đi không muốn nghe tôi nói nữa. Tôi biết trong suy nghĩ của chị lúc này là không muốn nghe bất kì ai nói . Vì chị nghĩ là chị tu kinh Địa Mẫu trước nên luôn coi mình là đúng. Ngay lúc đó tôi quay sang nhìn chị Thắm thì như có ai vào người chị, nhận là mẹ và ôm em Tám khóc rất nhiều. Lúc đó anh em chúng tôi rất bối rối không biết là mẹ hay là ai. Tôi lại nhớ tới lời ông nội dạy, các cụ ông bà nhà mình chỉ vào cháu Hương ngoài ra không vào ai hết. Tôi nói với anh Định:
- Anh điện thoại ngay về hỏi cháu Hương xem có phải mẹ vào chị Thắm không?
Sau khi anh Định điện về, anh Vương gọi cháu Hương và xin gặp mẹ. Lúc mẹ vào cháu Hương, anh hỏi:
- Mẹ ơi, mẹ có ra sân ga tiễn em Tám không?
Mẹ nói : “Mẹ có”
- Mẹ có vào em Thắm không?
Mẹ trả lời: “Mẹ có vào em Thắm”. Rồi anh điện ra ga thông báo cho mọi người.
Lúc tầu chạy, anh em chúng tôi đi về được một đoạn thì có ai đó vào chị Thắm và nói:
- Con Đưởng láo, con Đưởng mất dạy!
Tôi lại sợ có người khác vào chị Thắm giả làm mẹ nên tôi gọi anh Định chở chị Thắm. Bởi tôi nghĩ trong gia đình lúc này đang thật giả lẫn lộn. Rồi mấy anh em lại đưa chị về nhà anh Vương thì thấy cháu Lĩnh (con trai chị Đưởng) đã chở chị Đưởng về nhà anh Vương trước rồi. Lúc đó chị lại nói mẹ đang ở trên đầu, trên cổ chị nặng trĩu. Tôi nghĩ, chỉ có người khác chứ không phải mẹ tôi. Một lúc sau, mẹ tôi vào cháu Hương chỉ khóc. Tôi hỏi mẹ:
- Mẹ có quay lại vào chị Thắm không?
Mẹ tôi bảo, mẹ có vào chị Thắm để đưa chúng tôi về. Còn ai vào chị Đưởng giả làm mẹ thì chúng tôi không biết. Nhưng chị Đưởng lại nói mẹ đang ở trên đầu chị. Tôi nghe thấy vậy bực quá nói:
- Ai ở trên đầu chị chứ không phải mẹ, mẹ không có vào chị!
Qua chuyện này, anh em chúng tôi mới nhận biết được trong gia đình có những sự việc thật giả lẫn lộn.
Sau đó tôi về nhà nhưng nằm mãi mà không ngủ được. Tôi niệm Phật, xin Mẫu và các cụ ông bà linh thiêng cho tôi biết trong chị Đưởng có vấn đề gì không? Cứ thế một lúc sau, tôi chợp mắt được khoảng năm phút thì tôi nằm mơ. Giấc mơ là tôi đi lên một chiếc cầu thang tự nhiên cúi nhặt một chiếc đầu lâu lên mà không có sợi tóc nào, tôi nhìn chỉ thấy bộ lông mày nhớn lên. Tôi sợ quá vứt xuống và chạy lên cầu thang, lúc đó giật mình tôi tỉnh dậy, giấc mơ đó cho tôi biết điều gì?
Qua ngày 18/10 tôi đã không còn lý do gì để nghi ngờ về một thế giới tâm linh nữa. Cuộc sống của tôi bắt đầu thay đổi. Khi vào Cần Thơ, lần đầu tiên tôi tự trì kinh Mẫu là ngày 10/11/2008. Tôi về kể hết mọi chuyện cho gia đình ở Cần Thơ nghe. Mọi người đều nghi ngờ và không tin đó là sự thật.
Tôi không nói gì và cùng con gái là Nguyễn Hải Đăng lên ban thờ trì Kinh. Lần đầu tiên tự trì kinh Mẫu tôi thấy trong người rất lạ. Một nửa đầu và người bên trái tôi luôn có hiện tượng rợn ốc và tê tê…
Sau này tôi mới biết đó là một cái duyên và một sự nhạy cảm của tôi với kinh sách nói chung và Kinh Địa Mẫu nói riêng. Nói cách khác là tôi có căn tu.

Cứ thế qua ngày 10, 20/11/2008 tôi vẫn trì kinh Địa Mẫu cùng con gái. Tôi thuyết phục ông xã lên nghe kinh nhưng ông xã không lên. Cho đến một ngày, hôm đó là 30/11/2008 là ngày giỗ bố chồng tôi. Tôi chuẩn bị hết mọi thứ từ sớm để đến giờ Ngọ thì trì kinh Mẫu. Tôi dặn ông xã tiếp khách và đừng phiền tôi lúc trì Kinh.
Lúc đó tôi điện thoại ra nhà anh tôi ở Hà Nội để được nghe Mẫu giảng trực tiếp thì có sự trùng lặp giữa nhà anh tôi và nhà tôi. Đó là sự sắp đặt mà cả gia đình tôi đều được chứng kiến. Khi Mẫu đang giảng kinh thì có hai người bạn của tôi đến đám giỗ bước vào phòng thờ cũng là lúc nhà anh tôi ở Hà Nội cũng vậy.
Từ trong điện thoại Mẫu nói: “Hai người mới đến nghe đây, các con là người ngoài dòng tộc, nhưng đã đến đây là phước của các con, gắng mà giữ lấy”. Lúc đó ai cũng ngạc nhiên, bạn tôi thì ngơ ngác không hiểu chuyện gì.
Ông xã tôi lúc đó nửa tin, nửa ngờ…
Đợt đó có trận đá bóng giữa đội tuyển Thái Lan và đội tuyển Việt Nam đang bàn tán xôn xao. Tôi nhớ rất rõ hôm đó là ngày 24/12/2008 (lịch tây) vì đó là ngày lễ NOEN. Nếu những ai đã từng xem trận đá bóng này chắc hẳn không bao giờ quên được. Vì Việt Nam hơn 10 năm qua chưa bao giờ thắng Thái Lan. Ông xã nói tôi:
- Nếu Mẫu linh nghiệm như thế thì em cầu xin cho Việt Nam thắng đi anh mới tin.
Tôi là người không thích bóng đá nhưng vì thấy ông xã không tin là có Mẫu giáng Trần, nên tôi quyết tâm cầu xin. Tôi nói:
- Nếu em cầu xin được anh tính sao?
- Anh sẽ làm nô lệ cho em suốt cuộc đời.
- Em không cần nô lệ, em chỉ cần anh lên ban thờ quỳ dưới chân Mẫu ba tiếng đồng hồ và đọc hết cuốn ĐỊA MẪU CHÂN KINH là được.
Ông xã tôi đồng ý ngay và nói:
- Quỳ 10 tiếng anh cũng quỳ chứ đừng nói là 3 tiếng. và cháu Nhất con chị Thắm kêu tôi bằng dì giơ tay hưởng ứng:
- Nếu đúng như vậy cháu cũng quỳ ba tiếng nữa.
Tôi lặng lẽ lên ban thờ Phật đúng vào giờ Ngọ ngày hôm đó cầu xin Mẫu. Nguyên văn lời cầu xin như sau:
“Con tên Nguyễn Thị Tám 39 tuổi, ở tại số nhà 166 đường 3 tháng 2 phường Hưng Lợi- quận Ninh Kiều- Thành phố Cần Thơ. Con cầu xin Mẫu cho đội tuyển Việt Nam được thắng trận đá bóng này, con không cá độ về tiền bạc, cũng không có mục đích gì khác. Con chỉ cầu xin NGƯỜI cho người dân Việt Nam một ngày hạnh phúc vì đã hơn chục năm nay chưa bao giờ người dân Việt Nam được vui vì điều đó. Điều thứ 2 con cầu xin cho chồng con là Nguyễn Văn Bốn tâm phục, khẩu phục mà quỳ dưới chân NGƯỜI ba tiếng đồng hồ và đọc hết cuốn kinh Địa Mẫu. Con cầu xin NGƯỜI cho Việt Nam được thắng chung cuộc”.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam thắng 2-1 tại đất Thái Lan. Đêm đó ông xã tôi và cháu tôi lên ban thờ quỳ và đọc Kinh từ lúc 21giờ (hết trận đấu) đến 0 giờ 7 phút mới dám đi ngủ. Từ đó ông xã tôi tâm phục, khẩu phục đều đặn một tháng ba lần lên ban thờ trì kinh Địa Mẫu.
Đến trận lượt về tại sân Mỹ Đình Hà Nội, tôi vẫn cầu xin cho Việt Nam thắng chung cuộc. Tôi xem ở quán cà phê nhà anh trai tôi tại Quốc lộ 91b (nhà anh Định). Lúc đó rất đông người ngồi xem. Hết hiệp một Thái Lan được một trái, mọi người lo lắng và buồn bã. Tự nhiên tôi an ủi mọi người cứ yên tâm đến phút cuối cùng của trận đấu Việt Nam sẽ thắng. Tôi kêu ông xã chở tôi về nhà. Thấy ông xã buồn, tôi động viên cứ an tâm, Việt Nam sẽ thắng vào phút chót… Tôi cũng không ngờ lời nói ấy lại là sự thật.
Đúng phút cuối cùng của trận đấu đá bù giờ, đội Việt Nam được một trái và thắng chung cuộc. Những người chứng kiến câu nói của tôi điện thoại cho tôi và nói rằng không thể tin được.
Khi trận đấu kết thúc, tôi lên ban thờ thắp nhang lễ tạ Mẫu. NGƯỜI đã nghe thấu được lời cầu xin của tôi. Sau đó tôi khoác một lá cờ đỏ sao vàng cùng ông xã hòa nhập vào dòng người để mừng chiến thắng…
Vào một lần giảng Kinh khác, khi cả nhà tôi đang nghe Mẫu giảng kinh ở lầu thượng thì ở tầng trệt có điện thoại của khách thuê xe. Tôi nóng ruột thấy điện thoại lâu quá nên ra hiệu cho ông xã xuống nghe điện thoại. Khi ông xã vừa nhổm người lên định đi thì ở ngoài Hà Nội nhà anh Vương cũng có cháu Dũng xuống lầu. Lúc đó tất cả mọi người đều nghe từ trong loa phát ra: “Ta đã chọn gia đình con sau này tôn thờ ta, tụng niệm ta, tại sao con lại xuống dưới nhà?”
Ông xã tôi không dám đi nữa cứ ngồi nhìn lên tượng Mẫu.
Tôi xin nói sơ qua tại sao trong nhà tôi lại có tượng Mẫu ở thời điểm này:
Căn nhà hiện tại tôi mua của anh chồng tôi. Thời gian trước đó khoảng 10 năm anh chồng tôi đi thỉnh một pho tượng Mẫu cao khoảng ba tấc về thờ. Khi anh chị đi rồi tôi cũng không biết đó là tượng của vị Phật nào và cũng không thờ cúng gì. Sau này tôi mới hiểu đó đúng là nhân duyên.
Rồi Mẫu lại nói:
- Những người nghe ta giảng không được nhìn ta trực tiếp.
Ông xã tôi sợ quá không dám nhìn nữa.
Lần thứ ba là ngày 30 tết năm 2008 lại một sự trùng lặp đến kinh ngạc. Nhà anh tôi có hai người con gái xin đến nghe kinh và nhà tôi cũng vậy cũng có hai người con gái xin tôi đến nghe nhưng lại không đến.
Hôm đó trong lúc giảng Kinh, NGƯỜI nhắc nhở rất rõ:
- Có hai người con gái xin đến để được nghe mà không đến, mất phúc, mất đức. Không đến được thì đừng hứa, mà đã hứa thì phải đến, không đến thì đừng trách tại sao mà bị đau nghe chưa.
Những lần sau này còn nhiều điều trùng lặp giữa nhà tôi và nhà anh tôi ngoài Hà Nội. Chúng tôi ngầm hiểu được rằng đó là sự sắp đặt để cho chúng tôi nhìn thấy, nghe thấy sự màu nhiệm.
Kể từ đó tôi bắt đầu khám phá những điều kỳ diệu về Phật Pháp. Tôi trở thành một người khác hẳn. Tôi tự kiểm điểm hàng ngày về mình và sửa chữa từng ly từng tí trong tất cả mọi lĩnh vực. Thời gian này tất cả các gia đình của anh em tôi đều xảy ra những xáo trộn...
Chúng tôi nhận thấy, mỗi người đều có khuyết điểm của mình. Khi tất cả đại gia đình tôi bước vào con đường Tu tại gia, những ai có tật xấu gì đều bùng phát lên mạnh mẽ.
Ông xã tôi thường ngày hay đi nhậu với bạn bè, bắt đầu từ thời gian đó mỗi lần đi nhậu là đầu óc quay cuồng và đau không chịu nổi và phải bỏ về.
Một ngày hai con trai của tôi, đứa 17 tuổi, đứa 16 tuổi đang ngồi chơi điện tử tại phòng khách trong nhà, đều nghe tiếng hai người đàn bà nói chuyện bên tai mà không nghe rõ được nói chuyện gì? Chúng bảo nhau đi tìm xem tiếng nói phát ra từ đâu nhưng không có ai cả.
Bể cá cảnh nhà tôi có ba ngăn nước bằng nhau, sau một đêm ngủ dậy một ngăn bên trái đầy tràn nước. Cả nhà tôi không thể nào hiểu nổi cố tìm hiểu nguyên nhân xem nước chảy đường nào, nhưng cũng không tìm ra.
Tôi gọi bạn bè đến để tìm hiểu xem nguyên nhân từ đâu và cũng không hiểu nổi? Sau đó tôi điện thoại ra Hà Nội hỏi anh Vương, thì thấy anh nói lại là: “Hồ cá nhà tôi là do Ông Huyên và Mẹ tôi làm như thế để những ai trong gia đình không tin sẽ được chứng kiến sự màu nhiệm và cũng để chúng tôi biết rằng gia đình có được cái phước và lộc rất lớn”.
Tiếp theo sau đó là những ngày tháng mà tôi được chứng kiến và giải quyết nhiều sự việc.
Thời gian này gia đình anh Định đang rất lộn xộn. Các thành viên trong gia đình anh đều bộc phát yếu điểm của mình. Anh tôi cũng không ngoại lệ. Sau này tôi mới hiểu ra rằng: Trong mỗi một con người chúng ta ai cũng có nửa thiện và nửa ác. Khi bước vào đường tu thì người nào tâm thiện nhiều hơn thì cái thiện sẽ thắng. Tâm ác nhiều hơn, thì cái ác sẽ bùng phát lên dữ dội. Nói một cách khác là ma vương vào tất cả những người tâm chưa vững để quấy phá con đường tu của người đó.
Tôi bắt đầu hoang mang khi thấy tất cả mọi người, mỗi người một tật xấu âm ỉ bấy lâu nay bộc lộ ra tất cả. Thời gian này tôi bị chấn động mạnh lúc đầu không hiểu nên có những suy nghĩ lệch lạc rằng: “Tại sao chúng tôi thành tâm với Mẫu, với ông bà cha mẹ như thế mà gia đình vẫn bị xáo trộn?”. Có thể nói rằng ma quân quấy phá từng thành viên trong gia đình, từ anh tôi, chị dâu tôi và cháu gái tôi. Duy nhất còn một cháu gái út là Thúy Nga phần vì nó còn nhỏ, phần vì bản tính nó cái thiện nhiều hơn nên được bình yên.
Về phần tôi phải nói là bản tính từ hồi còn rất nhỏ tôi rất thương anh em, con cháu. Có thể nói là mọi người thân ruột thịt của tôi, ai gặp chuyện không vui tôi không thể nào yên ổn được. Thấy anh tôi tiều tuỵ, tính cách trở nên nóng nảy…
Chị dâu tôi thì biết anh như thế lại càng chọc tức để cho anh đánh. Chị cứ lôi chuyện ngày xưa anh phạm lỗi này, lỗi kia ra để gây chuyện. Mối quan hệ vợ chồng anh chị càng căng thẳng. Nhiều khi anh tôi nổi nóng khùng lên và đánh chị. Con gái lớn của anh thì thời điểm này hay bỏ học, nói dối đi chơi. Mỗi lần như vậy anh sợ con hư thì lại đánh rất đau, nhưng chỉ được mấy ngày lại xảy ra như vậy.
Tôi hiểu anh tôi cũng vì rất thương vợ, thương con, muốn có một gia đình hạnh phúc và hoàn thiện nhưng càng hy vọng thì anh lại càng thất vọng sự việc lại càng tồi tệ hơn.
Anh tôi đâu biết rằng để đạt được điều đó đâu phải dễ và đâu phải một ngày, một bữa. Tất cả mọi thành viên trong gia đình đều phải tự nhìn nhận ra lỗi của mình mà tu và sửa. Mỗi người phải bỏ hết thói hư tật xấu của mình thì mới được yên ổn. Trên con đường tu mỗi người đều phải trả nghiệp mà mình đã gây ra. Tôi nhận ra rằng vì có những điều đó thì người tu mời rèn luyện được bản thân mình, mới bỏ được thói hư tật xấu. Người nóng nảy sẽ phải nhẫn nhịn hơn, người ích kỷ sẽ vị tha hơn, người ham chơi sẽ tự kiểm điểm lại mình và sửa đổi.
Tôi đã dùng tất cả nghị lực và tình cảm của mình để dàn xếp, hoà giải cho gia đình anh tôi. Đứng ra quán xuyến công việc làm ăn cho gia đình anh chị với suy nghĩ, khi gia đình anh tôi yên ổn sẽ giao lại. Trong thời gian này, tôi nhận được những cử chỉ, thái độ của chị dâu và các cháu mà nếu là người khác họ đã bỏ nhà anh chị từ lâu rồi.
Thời gian đó đầu óc tôi rất căng thẳng, bản thân thì như một cái máy chạy đi, chạy lại nhà anh chị tôi để dàn xếp. Gia đình anh bán quán cà phê. Mỗi lần có chuyện, nhân viên ở quán lại điện thoại cho tôi lên để giải quyết vấn đề. Nhưng khi tôi về rồi thì hai anh chị lại có chuyện… tâm chị dâu tôi không được yên ổn thế là chị lại bỏ bê quán không làm.
Anh Định cũng cố gắng hết mức nhưng đã có lúc chán nản phó mặc tất cả. Tôi tiếc công gây dựng quán và sợ mất khách phải làm lại từ đầu rất khó nên tôi lên quán xuyến mọi công việc và thu chi ở quán. Ba cháu kêu tôi bằng dì ở nhà tôi, chúng biểu tình không cho tôi lên nhà anh Định vì sợ tôi phải chịu thiệt thòi, ấm ức.
Tôi chỉ biết khóc và gạt bỏ mọi tự ái để làm một người thừa trong mắt chị dâu tôi để mong cứu vãn gia đình anh chị. Tôi gần như bị khủng hoảng trầm trọng. Trí nhớ tự nhiên mất đến 50%, tôi không nhớ được gì nhiều. Tôi là chủ một doanh nghiệp tư nhân mà khách hàng điện thoại đặt xe mà vừa buông điện thoại ra thì tôi không còn nhớ được gì nữa. Tôi tự hỏi mình có phải mình sắp bị điên rồi không? Lúc đó ông Huyên và bố mẹ tôi vẫn ở Cần Thơ rất bức xúc chuyện gia đình anh chị tôi nhưng không vào ai được mà dạy dỗ. Các cụ nói rằng các cụ chỉ vào cháu Hương thôi không vào bất kỳ ai vì cháu Hương được đặc ân của Mẫu.
Từ lúc ông Huyên vào Cần Thơ, tất cả mọi thành viên trong dòng họ nhà tôi trai, gái, dâu, rể, cháu nội, cháu ngoại đều bị đau đầu kinh khủng. Chúng tôi tất cả là 12 người đều bị đau cùng một thời điểm. Sau này tôi nhận ra ngay đó là Mẫu đang cho soi xét cái tâm của chúng tôi.
Mấy ngày sau ông Huyên vì bức xúc với những chuyện như thế ở trong này mà không thể vào ai để nói ra được. Về Hà Nội, Ông vào cháu Hương, gặp anh Vương. Anh tôi đề nghị Ông vào Cần Thơ để dạy dỗ con cháu và Ông nhận lời. Anh Vương điện thoại cho tôi hẹn bốn giờ chiều ngày hôm đó tất cả con cháu tụ họp lại trước bàn thờ bố mẹ tôi ở nhà anh Định để ông dạy dỗ.
Tôi không biết ông sẽ dạy bằng cách nào nhưng cũng tụ họp đầy đủ mọi người trước bàn thờ. Tôi bắt đầu đề nghị anh chị tôi nói ra bức xúc của mình để tháo gỡ và cũng để ông và bố mẹ tôi chứng kiến và tìm hướng giải quyết.
Anh tôi nói ra bức xúc trong lòng. Đến lượt chị dâu tôi nói, chị xin các cụ cho anh chị ly dị vì không thể sống chung. Chị đề nghị tài sản chia đôi. Tự nhiên tôi thấy người tôi bắt đầu lắc mạnh, lắc bên phải, lắc bên trái và quay tròn cho đến khi tôi chóng mặt và không còn làm chủ được bản thân nữa. Tôi thấy một luồng điện rất mạnh chạy khắp người tôi, toàn thân tôi cứng đơ như một thanh sắt. Tôi không thể cử động được chỉ nói được một câu “điện giật”.
Chị dâu tôi và hai cháu sợ quá khóc và bóp chân tay cho tôi. Tôi thấy máu trong người chạy rần rần như vậy khoảng 10 phút tôi mới duỗi tay chân ra được. Ông Huyên vì quá giận những câu nói của chị trong thời gian ở đó theo dõi nên đã định để tôi tát vào mặt chị. Trong thâm tâm tôi lúc đó rất minh mẫn vẫn biết hết mọi việc xung quanh. Tôi chống lại ông vì tôi sợ nếu lỡ ông mượn tay tôi tát chị dâu. Người đời không hiểu, các cháu không hiểu sẽ cho là tôi mượn cớ đánh chị dâu.
Sau này tôi mới nhận ra bản chất của việc đó là như thế nào. Ông Huyên đã thử tôi, đã soi xét tâm can tôi. Hay một vị Bồ Tát nào đó đã truyền một năng lượng vào người tôi.
Tôi đặt dấu hỏi và chỉ là cảm nhận vậy thôi. Tất cả vẫn là một ẩn số mà con người không thể giải thích được. Ông chỉ vào tôi một tí và ra ngay. Tiếp sau đó là mấy vong hồn khác thừa cơ lúc tôi không làm chủ được mình nhập vào tôi lập tức. Họ giả là Ông Huyên mắng chị dâu tôi là không có tâm, ông bà, các cụ vào mà tới bữa không mời ăn cơm.
Họ còn nói chị muốn bỏ anh Định thì sẽ cho chị chết đường, chết chợ. Hai cháu con chị Hằng nghe vậy sợ quá liền cầu xin ông để mẹ cháu sửa đổi.
Lúc đó anh Vương tôi lên nhà chị Sáu ở Hà Nội điện thoại vào nghe trực tiếp. Chị Sáu tôi phát hiện ra là họ giả (vì ông Huyên không bao giờ dọa như thế). Tôi nghe trong điện thoại, chị tôi nói: “Họ giả ông Huyên đấy Tám ơi! Ông Huyên ra rồi!”.
Tôi lập tức dùng lý trí của mình chống lại và không cho trú ngụ trong tôi nữa. Vong đó xuất ra thì lại một vong khác nhập vào tôi nói lảm nhảm mắng chị dâu tôi. Tôi nghe ông xã nói đi lấy nước tiểu tạt vào mặt tôi. Tôi giận lắm nghĩ bụng (anh mà tạt vào mặt tôi khi bình thường trở lại sẽ biết tay tôi.) Kỳ lạ thay khi tôi vừa nghĩ thì miệng tôi lảm nhảm nói:
- Cái Tám nó nói mày mà tạt nước tiểu vào mặt nó khi tao đi rồi mày biết tay nó. Người đó nói đi, nói lại bốn, năm lần và nói rất nhanh. Anh Định tôi thấy vậy lấy tay chỉ vào mặt tôi hỏi:
- Mày là ai, mày là thằng nào? - Tôi nói như một cái máy:
- Tao không phải là thằng, tao là đàn bà. Tao ở Hà Nội, vì gia đình nhà mày có phúc nên tao theo để hưởng phúc thôi. Tao không hại gì gia đình nhà mày đâu. Tao sợ ông bà nhà mày. Ông bà nhà mày quá linh thiêng, con Tám nó không cho tao ở.
Anh Định lấy tay nhá nhá vào mặt tôi. Trong đầu tôi suy nghĩ: “Chắc anh ấy định đánh mình giống chị Thắm đây. Nếu đánh mình đau khi vong xuất ra rồi sẽ chết với mình.” Tôi vừa dứt suy nghĩ thì miệng tôi lại lảm nhảm:
- Cái Tám nó nói mày đánh tao là mày đánh nó, mày đánh nó là mày đánh tao. Mày mà đánh nó khi tao đi rồi mày tới số với nó.
Vong đó nói rất nhanh và liên tục như một cái máy, tiếng con gái Hà Nội dẻo quẹo. Lúc đó tôi rất tỉnh táo nghe hết mọi câu và thầm buồn cười trong bụng vì sự liến thoắng của vong hồn đó. Vong đó cứ đòi gặp anh Vương để xin lỗi vì đã phá gia đình tôi nhưng anh Vương tắt điện thoại không nghe. Vì anh tôi đã gặp ở ngoài Hà Nội quá nhiều rồi. Anh Định mang một ly nước kêu vong đó uống đi rồi đi. Tôi quyết định dùng lý trí của mình xua đuổi ra khỏi người tôi. Và vong đó xuất ra.
Sau đó tôi không thể đứng dậy được. Chân tay tôi run lẩy bẩy, ông xã và cháu tôi phải kèm tôi về nhà. Tôi bị hoảng loạn tinh thần, nhìn đâu cũng thấy ma quỷ, thậm chí tôi sợ cả xem ti vi. Tôi thấy toàn ma, quỷ trong ti vi. Mất khoảng nửa tháng sau tôi mệt mỏi không làm gì được. Ông xã kêu bác sĩ đến truyền nước biển cho tôi. Toàn thân tôi như bị tê liệt. Chân tay không cử động được, chỉ còn cái đầu là tỉnh táo.
Bác sĩ đến truyền nước cho tôi nhưng không thể lấy được mạch. Ông lấy mạch bốn, năm lần không được, đều bị sưng phù. Tôi nhận ra đang có người phá không cho truyền nước vào người tôi. Tôi động viên bác sĩ bình tĩnh và tôi nằm niệm “Nam mô A DI ĐÀ PHẬT”. Sau khi tôi niệm Phật thì truyền được ngay. Lúc này toàn thân tôi không thể cử động được. Tôi tưởng mình sắp chết và trăng trối. Tôi kêu ông xã đi dọn ban thờ, nhà cửa và điện thoại cho cháu Hương và anh Vương vào. Tôi điện thoại cho cháu Hương. Cháu kêu tôi lấy tay phải đánh vào tay trái thật mạnh và ngược lại. Tôi cố làm theo một lúc sau thì thấy tay chân trở lại bình thường.
Sau đợt đó tôi tìm hiểu về kinh sách rất nhiều, nhất là xem băng đĩa các khoá tu ở chùa Hoằng Pháp tại Hóc Môn TPHCM. Tôi nhận ra một điều là đã bước vào con đường tu, dù là tu tại gia, chữ tu đi đôi với chữ hành. Cũng như con người ta, để đi đến một sự thành công nào đó thì phải trải qua biết bao gian nan, thử thách, thăng trầm, đôi khi có cả máu và nước mắt. Con đường tu cũng vậy, nếu nghiệp chướng mình gây ra ở kiếp này, kiếp trước hoặc bao nhiêu kiếp trước nữa khi bước vào tu thì phải trả nghiệp. Trả cho những gì mình đã gieo ra và trên con đường tu Ma vương luôn song hành. Nhưng nếu vững tâm, quyết chí một con đường chánh đạo thay đổi những thói hư tật xấu của mình, không oán trách những gì mình đang phải trả. Mọi chuyện đều lấy sự từ bi mà đối đãi với mọi người và bắt đầu bằng chữ nhẫn thì không ai có thể hại được mình.
Và tôi hiểu được rằng phước nhà mình rất lớn mới được biết Phật Pháp sớm để được trả nghiệp ở kiếp này thì cái nghiệp đó sẽ được trả nhẹ nhàng và đi đến con đường giải thoát. Đó là lòng Từ, Bi, Hỉ, Xả của Phật. Cũng như chúng ta có những đứa con ngỗ ngược, không nghe lời làm nhiều điều sai trái. Khi chúng biết ăn năn, quay đầu làm thiện, hiếu thảo, chúng ta sẽ mở rộng vòng tay yêu thương và đón chào chúng vậy.
Và cứ như thế đều đặn một tháng ba lần, Mẫu về giảng Kinh cho chúng tôi. Lúc đọc, giọng của Mẫu nghẹn ngào vừa như có chút oán giận chúng sanh trên trái đất này không ai biết đến Mẫu, lại vừa như thương xót cho những đứa con trần gian lầm đường lạc lối, như những vần thơ trong cuốn kinh Địa Mẫu:
Chốn dương trần con lành tọa hưởng
Bao nhiệm màu Mẹ thưởng hồng ân
Tất cả do lịnh Mẫu thân
Công dày chẳng thấy người trần ghi tâm.
Mẹ thương con dạ thầm đau thắt
Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu
Cứ đọc đến đâu thì Mẫu lại khóc đến đó, anh em chúng tôi lúc này mới hiểu được Mẫu là một người mẹ đứng trên quả địa cầu nhìn thấu được chúng sanh. Vì chúng sanh đã tạo ra nhiều nghiệp chướng nên bây giờ đang phải chịu nhiều tai họa lớn. Mẫu thương chúng sanh đã xuống trần giảng kinh và dạy dỗ chúng sanh. Mẫu cho chúng sanh hiểu kinh kịp thời để cứu vớt những đứa con biết quay đầu hướng thiện.
Có một lần khi đang giảng kinh, Mẫu quay qua anh Vương nói rằng:
Trích lời kể của chị Sáu:
“Chín ngàn sáu trăm, ta mới chọn được một gia đình nhà Vương để ta về. Ta mong rằng các con đừng để cho ta buồn vì ta đã chọn đúng người.”
Nói xong Mẫu ra khỏi người cháu Hương, lúc này giọng cháu Hương lại trở lại bình thường và cháu đọc nốt phần kinh còn lại.
Tối hôm đó, ông nội và bố mẹ tôi lên nói chuyện. Chúng tôi nói với ông, hôm nay Mẫu lên giảng kinh. Tất cả chúng con đều thấy cảm động đến mức cả nhà đều khóc. Nghe xong, ông nội tôi nói:
- Ông còn phải khóc nữa là các con. Nhà mình có phúc lắm nên mới được Mẫu về giảng kinh như vậy. Rồi ông cháu tôi lại chuyện trò rất vui vẻ. Lúc ông đi thì bố, mẹ tôi lên trò chuyện, dặn dò anh Vương và tất cả chúng tôi phải vững vàng.
Hôm sau, tôi xuống nhà anh Vương nghe anh chị kể lại là ông nội, bố mẹ và bác Huyên lên nói chuyện. Ông nội bảo anh Vương lên danh sách con cháu để chuyển mộ cho ông bà, ngày giờ chuyển mộ là do sư Đông quyết định. Khi đưa ông bà về nhà mới thì để anh Định và cháu Biên khiêng hai đầu. Ông bảo, vì nhìn hai thằng này người trần cũng sợ và người âm cũng sợ nên không ai quấy phá được. Rồi anh em chúng tôi chuẩn bị chuyển mộ cho ông bà nội.
Tháng 11 năm 2008, cuộc hành trình về quê để chuyển mộ ông bà nội. Tối hôm đó, anh em chúng tôi chuẩn bị thủ tục đầy đủ và xuất phát đi chuyển mộ vào khoảng một giờ đêm. Lúc đến nơi, thầy Đông làm thủ tục thắp hương. Để công việc thuận tiện, anh em chúng tôi chia làm hai tốp. Chẳng ai bảo ai, với tấm lòng hiếu thảo và mong muốn được chuyển mộ ông bà từ lâu lắm rồi, tất cả anh em chúng tôi tập trung đào đến ba giờ sáng thì xong. Và đúng như lời ông nội dặn, anh Định và cháu Biên khiêng hai đầu quách, còn mọi người phụ cùng. Khi cho được quách lên xe, chúng tôi đưa ông bà về nghĩa trang để quy tụ về một nơi.
Đến nơi, thầy Đông cùng anh em chúng tôi làm thủ tục thắp hương và hạ quách về nhà mới. Công việc đến đây đã ổn, anh Vương cử cháu Biên và cháu Dũng ở lại trông coi, còn mọi người thu xếp dụng cụ đi về. Ngay lúc tôi bảo mọi người ra thắp hương cho mẹ tôi cách đó khoảng 100m thì tôi nghe tiếng mẹ tôi vào cháu Hương gọi:
- Sáu ơi, mẹ ở đây không phải lên chỗ mẹ đâu, mẹ cũng cùng về với các con.
Lúc này anh em chúng tôi đều thở phào nhẹ nhõm vì công việc của ông bà đến đây cũng tạm ổn. Về đến nhà, rửa chân tay xong thì các cụ lại vào cháu Hương. Anh em chúng tôi lại ngồi quây quần xung quanh. Ông nội lên cám ơn các con các cháu đã đưa ông bà về nơi an toàn. Sau đó là bà nội tôi, bà cũng gửi lời cảm ơn và nhắc đến anh Định là bà rất vui khi nhận được lời hỏi thăm của anh. Tiếp đó, bố tôi lên ôm chầm lấy cổ anh Vương và anh Định nói:
- Bố cảm ơn hai con trai của bố. Các con, các cháu đã làm được việc mà lúc bố mẹ còn sống chưa làm được. Bố mừng lắm, cả họ nhà ta mừng lắm.
Sau bố là mẹ tôi lên, bà cũng ôm chầm lấy anh Vương và anh Định. Bà quàng tay ôm tất cả chúng tôi vào và nói:
- Mẹ mừng lắm, cả dòng họ hãnh diện về các con, các cháu. Mẹ và các cụ cảm ơn các con, các cháu. Mẹ chỉ nói vậy thôi để các con đi nghỉ kẻo mệt.
Sau mẹ tôi là bác Huyên lên, bác cười rất tươi và nói:
- Bác cũng cảm ơn các cháu rất nhiều. Lúc này cũng đã hơn năm giờ sáng, bác chỉ nói thế thôi để các con đi ngủ lần sau lại nói chuyện.
Chúng tôi lúc đó ai nấy đều mệt mỏi nhưng tinh thần mọi người đều rất vui vẻ và mừng quá đến nỗi không ngủ được. Sáng sớm hôm sau, tất cả anh em chúng tôi lại lên để xây mộ ông bà. Người thì nhặt gạch, người thì xúc vữa còn mấy người nữa thì nhặt cỏ, xúc đất. Cứ như thế khoảng hai mươi ngày thì hoàn thành xong ba ngôi mộ của ông bà nội và bác Huyên.
Hôm khánh thành mộ ông bà là vào ngày 09 tháng 12 năm 2008, anh em chúng tôi làm cơm thắp hương để mời thầy Đông lên cúng. Lúc xong việc thì thầy Đông xin cho thầy nói chuyện với mẹ tôi. Lúc đó mẹ tôi vào cháu Hương và nói chuyện với thầy Đông, mẹ nói:
- Cảm ơn thầy đã giúp tôi và gia đình!
Nghe vậy thầy Đông nói:
-Bà còn nhớ không, hồi xưa bà nói, tôi mà chữa khỏi bệnh cho bà thì bà về quét chùa ba năm.
Mẹ tôi nói:
-Tôi còn nhớ chứ.
Thầy Đông lại nói tiếp:
-Tôi coi bà như mẹ tôi nên bà cứ yên tâm.
Mẹ tôi cảm ơn thầy.
Tối hôm đó, bác Phức, là anh trai của bố tôi lên. Bác cảm ơn tất cả các con,các cháu rồi nói chuyện với anh Toản (con trai bác):
-Thằng Vương, thằng Định nó ngửa tay xin việc để sửa nhà cho bố mà sao con không đồng ý hả Toản? Ông bà và anh em của bố đều có nhà mới, còn nhà của bố thì cũ. Bố nói con không nghe thì đừng động vào nhà của bố. Tại sao con không nghe bố, nghe mọi người hả Toản?
Lúc đó anh Toản nói:
- Bố muốn đánh con thì bố cứ đánh đi.
Lúc đó anh Toản vẫn nửa tin, nửa ngờ và đòi lên đập mộ của bác Phức là bố anh. Chúng tôi thấy bác Phức rất giận dữ và tát vào mặt anh Toản mấy cái. Bác nói:
- Thằng mất dạy, bố thương hai đứa con của mày bố mới dạy. Bố có thương thì mới về không thì bố cũng không thèm về nhà mày.
Nói xong bác cảm ơn anh Định, anh Vương, con Thắm, con Sáu rồi bác khóc rất nhiều và nói:
- Bác không cần nữa.
Thấy bác nói thế chúng tôi quay ra xin bác và bảo để chúng cháu khuyên anh Toản dần dần cho anh hiểu. Bác nói:
- Bác cảm ơn các con, các cháu. Con bác đẻ ra để bác dạy - Và bác cứ khóc mãi không thôi.
Sau bác là ông nội tôi lên. Lần nào về ông cũng đều rất vui vẻ và phong độ. Nhưng hôm nay khi lên thì ông lại rất buồn và bảo:
- Ông nhường cho thằng Phức lên để dậy con nó nhưng ông chứng kiến hết rồi. Ông để Phức dậy con nó chứ để ông dậy thì chỉ có lết đến mà xin.
Ngay lúc đó, cháu Long và cháu Linh, là con anh Toản cúi xin cụ và ông nội tha cho bố. Rồi ông tôi nói với cháu:
- Linh, lần trước ông Huyên cứu con, con có biết không?
Đợt trước cháu Linh bỏ nhà đi và bị lừa bán đi Trung Quốc nhưng đã được ông Huyên run rủi cho tìm thấy đón về. Hôm đó, cháu Long và cháu Linh rất sợ hãi, hai cháu nói:
- Cháu cảm ơn cụ và ông bà!
Ông lại nói:
- Ngày hôm nay là ngày vui không nhắc đến chuyện cũ nữa - Và ông ngồi nói chuyện với con cháu rất vui vẻ. Tiếp đó là bố tôi lên, lần nào cũng vậy, ông rất nghiêm khắc và nói:
- Bố cảm ơn các con đã làm được những điều mà bố mẹ chưa làm được.
Lúc sau, mẹ tôi lên, bà vừa mừng, vừa khóc. Nhắc đến anh Vương, anh Định, mẹ mừng lắm mẹ cảm ơn các con, các cháu, xong mẹ tôi đi.
Tối hôm đó, cháu Hương rất mệt là do bác Phức lên khóc rất nhiều cho nên cháu đã nằm đến trưa ngày hôm sau. Ngày hôm đó cũng chính là ngày mùng mười, ngày lễ Mẫu, anh em chúng tôi tổ chức buổi lễ ngay tại phòng thờ ở quê. Mỗi người mỗi việc, người thì đi mua hoa quả, người thì chuẩn bị đèn nến. Đến 11 giờ 30, cũng chính là giờ ngọ, giờ lễ Mẫu, anh Vương dâng hương và chuẩn bị tụng kinh Mẫu. Mọi người đều rất nghiêm túc. Cháu Hương đọc hết phần dâng hương, dâng hoa. Rồi chúng tôi lại nghe thấy giọng Mẫu vào giảng kinh. Cũng như lần trước Mẫu giảng và khóc rất nhiều. Còn tôi hôm đó cảm thấy người rất lạ. Bỗng dưng tôi bật khóc rất to khi nghe Mẫu giảng kinh. Hôm đó, Mẫu giảng được một lúc thì Người quay sang bảo: “Các con có muốn cứu con Đưởng không?”. Cả nhà đồng thanh đáp : “ Có ạ!”
Thế rồi Mẫu nói:
- Điện thoại cho con Đưởng để nghe tiếng chuông, tiếng mõ của ta.
Nghe thấy vậy, anh Định gọi điện ngay cho chị Đưởng ở Hà Nội để cho chị được nghe Mẫu giảng kinh nhưng chị không tin và tự lên làm lễ ở nhà chị. Mẫu có nói với chị Đưởng:
- Ta ở đây con làm lễ cho ai?
Lúc đó chị Đưởng trả lời:
- Con đang lễ Mẫu đấy chứ.
Mẫu nghe thấy vậy rất giận liền quát lên:
- Ta đang ở đây con làm lễ cho ai? Ông bà các cụ cả người âm lẫn người trần đều xin ta cứu con mà con không biết.
Nói đến đây dừng lại giây lát Mẫu lại bảo:
- Ngồi yên để nghe tiếng chuông, tiếng mõ của ta, để cho người ngồi trên đầu, trên cổ con họ cũng được nghe tiếng chuông, tiếng mõ của ta, để họ ra khỏi người con.
Nhưng chị Đưởng không nghe, không hiểu và không tin. Lúc bấy giờ Mẫu khóc, tiếng chuông và tiếng mõ của Mẫu rất to. Sau đó, Mẫu đứng lên và bảo đưa cành liễu cho ta. Đây là cành liễu mà ông bà, các cụ và ông Huyên đã dặn con cháu chuẩn bị từ hôm trước. Khi đó, anh Vương đưa cành liễu cho Mẫu. NGƯỜI cầm cành liễu và cốc nước trên bàn và bảo:
- Nước này của các con múc lên thờ nhưng bây giờ là nước của ta.
Nói xong Mẫu cầm cành liễu chấm vào ly nước và vẩy vào tất cả các con, các cháu đang ngồi tụng kinh tại buổi lễ. Riêng anh Vương thì Mẫu vẫy vào đầu, thấy vậy cháu Hùng cũng đưa đầu ra chờ Mẫu vẩy nước nhưng Mẫu lại nói với cháu:
-Người này đưa tay ra!
Và Mẫu đã vẩy nước vào hai bàn tay của cháu Hùng. Còn tôi, thời gian đó tôi mất ngủ, Mẫu vẩy vào mặt tôi. Đến đây, Mẫu lại nói:
- Ta để ông bà các cụ về dạy các con.
Lập tức ngay lúc đó mẹ tôi lên, bà khóc rất to và bảo:
- Hai cơ hội Người dành cho con Đưởng mà nó đánh mất.
Mẹ tôi tiếc cho chị Đưởng và khóc nức lên bà chỉ nói được đến đây rồi ra khỏi người cháu Hương. Ngay sau mẹ là ông Huyên vào cháu Hương, ông nói:
- Khổ thân bà Đước (tức mẹ tôi), lúc còn sống khổ vì con, vì cháu. Lúc mất rồi vẫn khổ vì con, vì cháu, bà vừa chạy theo NGƯỜI xin cho con Đưởng lại bị vấp ngã ngoài kia rồi.
Chúng tôi nghe thấy vậy vừa giận chị Đưởng, vừa thương mẹ tôi nhưng không biết làm sao. Bây giờ công việc đã hoàn tất, anh em chúng tôi chuẩn bị lên Hà Nội. Anh em tôi quây quần với nhau và nghĩ lại chuyện ở quê mới hiểu ra rằng: Mẫu vẩy nước vào đầu anh Vương để anh sáng suốt giải quyết mọi vấn đề đang xảy ra trong gia đình. Còn cháu Hùng là hoạ sĩ nên Mẫu vẩy nước vào hai bàn tay để sau này cháu vẽ chân dung của NGƯỜI và làm các công việc khác. Còn tôi, sau khi được Mẫu vẩy nước vào mặt thì tối hôm đó tôi ngủ rất ngon, còn mấy tháng trước thì tôi không thể nào ngủ được.
Anh em tôi ngồi nói chuyện và nghĩ đến những việc xảy ra từ tháng tám đến bây giờ như bộ phim Tây Du Ký vậy. Cứ thế, hễ lúc nào thấy nóng ruột, tôi lại đi xe sang nhà anh Vương thì lại được gặp ông bà các cụ và bác Huyên lên dạy bảo con cháu. Các cụ, ông bà và bác Huyên dạy chúng tôi những điều hay, lẽ phải và dặn dò con cháu con đường tu khó lắm không phải dễ đâu. Nếu mà dễ thì ai cũng tu được, các con cứ vững tâm thì không ai làm gì được.
Tôi còn nhớ, có hôm bố mẹ tôi lên và bảo các con, các cháu được ông Huyên dạy bảo thì chúng con phải biết trân trọng, đừng để ông giận bỏ đi thì mất phúc. Lúc đó nghe vậy chúng tôi ngồi nói với nhau, tìm được mộ bác Huyên mà bác cũng là người ở trong dòng họ. Sao các cụ ông bà lại nói vậy, chắc có điều gì bí ẩn mà anh em mình chưa biết?
Hôm sau, bác Huyên lên, khi đó tôi cũng có mặt ở đó thì anh Vương hỏi bác:
- Ông ơi, con muốn hỏi ông một điều!
Ông gật đầu đồng ý.
- Ông ơi, chúng con tìm được mộ ông hôm mưa bão đấy có phải là tìm được bộ chân kinh sống của phật Địa Mẫu phải không ạ?
Lúc đó tôi nhìn thấy cử chỉ của ông rất xúc động rồi ông gật đầu, ông nói:
- Đúng rồi!
Anh Vương lại nói:
- Con rất cảm ơn ông vì ông đã về dạy bảo tất cả con cháu trong dòng họ.
Rồi ông nói:
- Ông chính là Chân Kinh Đạo Nghĩa.
Hôm sau, chị Thắm đi hội chợ về. Chị lên thắp hương cho các cụ rồi tự nhiên ai vào chị tự nhận là mẹ tôi, cử chỉ rất dữ dằn. Thấy vậy, chị Thanh (vợ anh Vương) sợ quá, gọi điện gọi tôi và anh Định xuống ngay xem ai vào Thắm rồi tự xưng là mẹ tôi. Lúc đó, khoảng hai giờ chiều, nghe chị nói vậy, tôi bảo anh Định về nhà anh Vương ngay. Khi anh Định về đến nhà thì anh có hỏi chị Thắm:
- Là ai sao lại giả làm mẹ tôi?
Rồi hai người giằng co với nhau, anh Định tát chị Thắm một cái. Lúc đó, tôi sốt ruột quá gọi điện xuống nhà anh Vương thì nghe thấy người trong chị Thắm chửi anh Định:
-Thằng Định mày đánh giả mẹ.
Và người trong chị Thắm lại chửi anh Định những câu rất ngoa. Tôi khoá cửa và phóng xe xuống ngay nhà anh Vương. Khi xuống đến nơi thì người trong chị Thắm vẫy tôi vào và bảo:
- Sáu à, thằng Định nó đánh giả mẹ.
Lúc đó tôi lại hỏi:
- Là ai mà nhảy vào giả làm mẹ tôi thế? Mẹ tôi hiền chứ không như thế đâu.
Nói xong, chúng tôi xuống phòng khách ngồi vì sợ ở trên tầng người ta vào chị Thắm nói nhiều. Chúng tôi sợ chị mệt nên để chị ở trên phòng nhưng chị cứ nói lảm nhảm. Khi thấy chúng tôi xuống nhà được một lúc thì chị cũng xuống theo. Lúc bấy giờ, chúng tôi lại hỏi người đó là ai thì người trong chị Thắm tức giận, định cầm ly nước ném tôi. Tôi bối rối không biết làm sao, tôi bấm điện thoại cho cháu Hương thì cháu bảo:
- Ở nhà mẹ và cô cứ pha nước mời họ uống, họ không hại gì nhà mình đâu.
Chúng tôi pha nước mời người đó uống thì người trong chị Thắm lại nói họ không thèm uống. Chị Thanh bảo:
-Là ai mà cứ nhảy vào nhận mẹ tôi như thế?
Người trong chị Thắm lại nói:
- Con Thanh!Thằng Định nó doạ mày mấy năm nay rồi mà không kinh à.
Xong người trong chị Thắm lại nói:
-Tao không thèm nói chuyện với con Thanh, thằng Định và con Sáu nữa, tao chờ thằng Vương và cháu Hương về.
Một lúc sau, cháu Hùng về và mở lại cuộn băng ghi lại cuộc nói chuyện mà hôm thẩm định ngôi mộ của ông bà nội ở quê. Ngay lúc đó, người trong chị Thắm cuống lên. Lúc thì xưng bằng mẹ, lúc thì xưng là ông, lúc thì xưng bằng anh. Được một lúc thì người trong chị Thắm bị tê liệt toàn bộ rồi nói:
- Đưa mẹ lên phòng nghỉ!
Lúc đó anh em tôi nháy nhau và nói:
- Lên tầng ba phải không?
Người trong chị Thắm nói:
- Không, lên tầng hai, giường mà mẹ nằm ngày xưa cùng cháu Hương.
Nhưng chúng tôi không cho lên thì người trong chị Thắm lại khóc và gọi tôi:
- Sáu à, đưa mẹ đi vệ sinh.
Tôi và chị Thanh dìu lên nhà vệ sinh. Tôi cầm tay không cho khoác lên vai thì người đó lại cố rút tay lên và quàng qua vai tôi, giả vờ như hôm mẹ tôi về trước ngày 18 tháng 10 năm 2008 để tôi và mọi người tin . Nhưng do tin vào lời ông bà các cụ trong dòng họ nên chúng tôi đã nhận biết được đâu là thật, đâu là giả và không tin người trong chị Thắm vì ông bà các cụ chỉ vào cháu Hương.
Sau đó người trong chị Thắm lại khóc và gọi tôi:
- Sáu ơi, lúc mẹ ốm con chăm sóc mẹ như thế mà sao bây giờ con không chăm mẹ hả Sáu?
Vừa lúc đó, anh Vương đi làm về. Người đó lại gọi anh Vương và nói:
- Vương vào đây mẹ bảo.
Cái tay của người đó bắt chước giống hệt mẹ vì lúc còn sống mẹ tôi bị ngã gãy tay.
Anh Vương hỏi:
- Thế là ai mà cứ nhảy vào giả làm mẹ tôi thế?
Người đó lại nói:
- Tao không thèm nói chuyện với thằng Vương mà chờ cháu Hương về.
Thấy anh Vương không tin, người đó ngồi im một lúc. Anh Định hỏi thì hai người giằng co nhau rất mạnh. Nhưng khi anh Định bình tĩnh và nói ngọt với người đó:
- Mình là đàn ông thì có gì nói với nhau còn để cho em Thắm đi làm ăn để nuôi con, cứ thế này thì nó làm ăn gì được.”
Lúc đó người trong chị Thắm mới nói:
- Anh đánh em, rồi em lại sửng cồ với anh, thế thì anh em mình huề huề nhé.
Nghe vậy anh Vương liền nói:
- Huề sao không nhận mà cứ nói dối thế?
Người đó lúng túng nói:
- Không nói dối thì các anh các chị không tin.
Rồi quay sang bảo với anh Định:
- Người âm vào không hại gì đâu chỉ phù hộ cho làm ăn thôi.
Nói chuyện một lúc thì người đó hứa từ nay sẽ không vào chị Thắm nữa. Lúc này khoảng sáu giờ tối, người này mới chịu ra khỏi người chị Thắm.
Sau đó, anh em chúng tôi ai về nhà nấy. Đến sáng hôm sau, chị Thắm lên nhà tôi ở Phương Mai để đi hội chợ. Bước đến cửa thì tôi cảm nhận chị Thắm vẫn còn người âm bên cạnh. Lúc vào chị Thắm nhận là ông Bình, bố chồng của chị Thắm. Lúc đó, tôi không tin đấy là ông Bình. Người đó quay sang nói với anh Cường (chồng chị Thắm):
- Con trai mà không nhận ra bố à?
Rồi người đó quay sang bảo tôi:
- Con Sáu giúp chị Thắm rồi lại thỉnh thoảng cho tiền bà Bình. Cả thằng Vương, thằng Định cũng cho tiền bà Bình, không thấy thông gia nào lại được như vậy.
Nghe thấy thế tôi rất bối rối không biết có phải ông Bình không, hay lại người khác giả, khi đó ông lại nói với tôi:
- Ông là ông Bình con có tin ông không? Nếu không thì chờ cháu Hương về đây thì cháu ấy sẽ nhận ra ông.
Tôi lấy điện thoại ra gọi cho anh Vương và cháu Hương về nghe người trong chị Thắm nói chuyện. Khi về đến nơi thì người đó bảo với cháu Hương, ông là ông Bình đây. Ông nói hôm nay sẽ tan hội chợ, không đi bán hàng nữa. Một lúc sau cháu Hương nói ông Bình chỉ vào một chút thôi còn lại là người khác, mà là mấy người chứ không phải là một người.
Rồi chị Thắm đi bán ở hội chợ nhưng người đó vẫn cứ ở trong người chị Thắm. Khoảng hai ngày sau người đó mới đi. Họ còn bán hàng cho chị Thắm. Sau hôm đó thì chị Thắm tự làm chủ được bản thân. Cứ có người nói vào tai chị kêu nghỉ bán hội chợ về nhà sẽ cho chị Thắm ngồi không mà muốn gì được nấy (ý là sẽ làm thầy bói). Nhưng do tin và nghe lời ông bà các cụ nhà mình nên chị tự trấn tĩnh lại. Và mỗi lần như thế, chị Thắm lại gọi điện cho anh Vương.
Hôm đó, chị nghe thấy có người nói vào tai chị là:
- Không được động đến cháu cụ Dương (tức ông nội tôi).
Nghe vậy chị liền gọi điện thoại cho anh Vương nhờ anh hỏi cháu Hương xem các cụ, ông bà nhà mình có xuống hội chợ không. Cháu Hương nói:
- Các cụ ông bà không ai xuống hội chợ và cô không được nghe ai nói gì cả.
Nghe cháu Hương nói vậy chị Thắm mới hiểu ra là mình đang bị họ lừa. Chị nghĩ trong đầu mình lúc này chỉ luôn luôn nghĩ đến ông bà, các cụ và Mẫu nên từ hôm đó chị tỉnh táo hẳn lên.
Khoảng thời gian đó, cháu ngoại của tôi ở nhà là Nguyễn Tài Nguyên rất quấy, lúc nào cháu cũng cúi mặt xuống không nhìn ai hết. Khi mọi người bế cháu thì cháu cứ gục vào nách và khóc. Cứ như thế mấy ngày mấy đêm liền, cả nhà tôi đều mất ngủ. Tôi nghĩ trong đầu, chắc có ai vào trêu chọc cháu nên tôi xuống ngay nhà anh Vương để hỏi tại sao lại như vậy. Anh Vương dặn tôi tìm roi dâu và máu chó xem có đỡ không thì thấy mọi việc không tiến triển gì cả. Tối hôm đó tôi và bà nội của cháu Tài Nguyên bế cháu nhưng cháu cứ khóc mãi. Bà nội cháu nghĩ, có ai vào trong người cháu nên bà nội cháu liền cầm con dao và nói:
- Xem mày là ai mà vào cháu tao, để tao rạch mặt mày ra.
Tôi cảm thấy rất lạ vì khi bà nói dứt lời thì cháu khóc thét lên rất to mà từ trước đến nay cháu chưa bao giờ cháu khóc như thế.
Hôm sau, tôi lại xuống nhà anh Vương thì ông Huyên và bố tôi lên dặn tôi về bảo với cháu Hồng (là mẹ của cháu) cứ phải nhìn thẳng vào mặt con và nói những lời âu yếm, dỗ ngọt cháu. Lúc đó, chị Thắm ngồi ở đấy, thấy vậy chị Thắm mới kể, lúc chị bị nhiều người vào thì có người giang tay chị ra và cù vào nách rất khó chịu. Tôi hiểu ra nguyên nhân cháu Nguyên nhà tôi cũng bị những người đó trêu và cù vào nách cháu. Hôm đó, bố tôi và bác Huyên có hứa với tôi là bố và bác sẽ xuống nhà tôi xem ai vào phá cháu.
Rồi tối hôm đó, tôi cảm thấy rất kỳ lạ như có một phép mầu, tôi thấy cháu không còn khóc và quấy như những ngày trước nữa.
Đến ngày lễ Mẫu tiếp theo, anh em chúng tôi vẫn chuẩn bị chu đáo như những ngày lễ Mẫu trước. Buổi trưa hôm đó, Mẫu giảng kinh và khóc rất nhiều, Mẫu nói:
- Các con chuẩn bị sửa phòng thờ của các cụ ông bà và phòng ngủ của con gái con. Ta sẽ về và nghỉ ở đó.
Sau đó, tôi về nhà nhưng trong lòng cứ thấy nóng ruột. Tôi lại phóng xe xuống nhà anh Vương thì thấy chị Miên (chị con bác tôi ở Tây Nguyên ra) nằm ở phòng cháu Hương. Chị bảo chị bị sưng mộng răng. Thấy chị Miên nằm ở đó tôi rất lo lắng. Giường của cháu Hương thì Mẫu thường xuyên ngự ở đó mà chị Miên lại đau răng như vậy, tôi thấy không yên tâm. Tôi chạy lên phòng anh Vương thì lại được nghe bố mẹ và bác Huyên lên nói chuyện. Mẹ tôi và bác Huyên dặn tôi tối nay ngủ lại ở đây. Lúc chuẩn bị đi ngủ, tôi chạy xuống phòng cháu Hương thì thấy cháu Hương nằm trong, còn chị Miên vừa nằm vừa rên vì đau.
Trong lòng tôi lại càng lo lắng. Tôi hỏi chị: “Chị ăn gì chưa?” Chị bảo: “Không ăn gì”. Tôi có nói với chị: “Có thân thì phải lo, chị không ăn mà tụt huyết áp thì lại làm khổ người khác”. Tôi chạy xuống bếp pha cho chị gói bột ngũ cốc để chị uống cho tỉnh táo. Chị uống xong được một lúc tôi thấy chị nằm im. Lúc đó, tôi chưa ngủ thấy cháu Hương quay sang nói với tôi:
- Cô ơi, cô sờ người cháu xem, sao cháu lại đổ mồ hôi trộm nhiều đến thế?
Tôi xoa vào cổ, vào lưng, vào người cháu Hương thì thấy mồ hôi ướt đầm đìa. Cháu Hương nói:
- Cô ơi, hôm các cụ ông bà lên thì cháu thấy bình thường mà hôm nay cháu thấy khác, hình như là NGƯỜI về cô !.
- Đúng rồi Hương ạ, chắc Mẫu về đấy!- Tôi nói
Nói xong, cháu Hương nhắm mắt lại thì tôi thấy hơi thở như tiếng gió, tiếng sáo. Tay tôi ôm qua bụng cháu thì thấy cháu thở thắt cả bụng vào và thở rất mạnh, rồi lại thấy cháu Hương nói:
- Cô ơi, Người về thật cô ạ!
Lúc này tôi nghĩ, đúng là Mẫu vào cháu Hương để nghỉ. Cứ lặp đi lặp lại như thế, cháu lại thở như tiếng gió bốn lần, một lúc sau cháu bảo tôi:
- Hình như Người đi rồi cô ạ!
Một lúc sau, tôi lại thấy tiếng ngáy như tiếng gió, rồi cháu nói:
- NGƯỜI vẫn còn ở đây cô ạ!
Cháu quay mặt vào phía trong một lúc rồi nói với tôi:
- NGƯỜI đi rồi và cháu chào NGƯỜI. NGƯỜI nói vào tai cháu, con Sáu có tâm nhiều lắm, ta cho ngủ được. Rồi NGƯỜI lại nói, bao nhiêu năm nay ta mới có giấc ngủ thế này.
Lúc đó, tôi cảm thấy rất thương Mẫu vì NGƯỜI vất vả với chúng sanh nhiều rồi mà người trần không ai biết đến. Khi tôi vừa nghĩ đến đây thì cháu Hương nói tiếp:
- NGƯỜI nói chưa bao giờ NGƯỜI ngủ với chúng sanh như thế này.
Thời điểm này cũng là lúc anh em chúng tôi bắt đầu sửa phòng thờ và phòng ngủ của cháu Hương. Chúng tôi gọi thợ đến sửa còn người trong gia đình thì phụ giúp. mỗi người một việc. Riêng đồ gỗ và nội thất trong phòng thì chính Mẫu lựa chọn và quyết định. Lúc đi chọn màu gỗ thì dường như không còn là cháu Hương nữa mà anh em chúng tôi đều biết chính Mẫu đã lựa chọn những màu nội thất đó.
Công việc sửa phòng thờ các cụ và phòng ngủ cho cháu Hương diễn ra trong vòng khoảng ba ngày. Cũng như những ngày trước, hôm đó, tôi đến nhà anh Vương để dọn dẹp, lau chùi nốt phòng thờ thì thấy anh Vương điện cho cháu Hương và nói không cho cháu đi chơi với bạn. Một lúc sau, khi cháu về thấy vẻ mặt cháu rất buồn. Tôi thấy Mẫu vào cháu Hương rồi hai hàng nước mắt ròng ròng. Khi nhận ra, tôi và anh Vương, chị Thanh chào Mẫu. Anh Vương liền hỏi:
- Chúng con sửa phòng thờ và phòng cháu Hương có sai sót gì không ạ?
Mẫu lắc đầu và nói:
- Con gái các con được như thế này không sung sướng gì. Ngoài lúc ta và ông bà, các cụ ngự vào con gái các con thì còn nhiều phái khác lôi kéo. Vì thế còn thời gian thì phải để con gái các con đi chơi với bạn, không phải lo. Lúc nào ta cũng ở bên cạnh con gái các con để dạy bảo.
Đến ngày hôm sau cũng chính là ngày lễ Mẫu, anh em chúng tôi cũng chuẩn bị chu đáo như những lần trước. Mẫu đang giảng kinh thì lại quay sang cháu Hùng và bảo:
- Con là người vẽ hình tượng cho ta.
Cháu Hùng chưa hình dung ra được như thế nào thì Mẫu lại nói:
- Con cứ vẽ đi, lúc vẽ ta sẽ ở bên cạnh con.
Nói xong Mẫu quay sang nhìn để tìm cháu Dũng thì không thấy cháu, Mẫu hỏi:
- Người con trai ngồi đây đâu rồi?
Cháu Hùng chạy xuống gọi cháu Dũng lên thì Người quay sang nói:
- Ta là người cứu con, vì vậy các buổi lễ con nên lên để nghe ta giảng kinh.
Mẫu lại nói tiếp:
- Các con bước vào con đường tu thì không như làm bài toán đố chỉ ra đáp số đúng là đúng, mà đã đi theo con đường tu thì tự tâm các con phải giác ngộ.
Rồi Mẫu giảng Kinh đến đoạn:
Ai mà đáp nghĩa đền ơn
Phải sùng am tự, Hoạ sơn tượng hình
Rồi dâng lên hương linh thờ phượng
Tạo lập thành tâm tưởng bái Tôn
Đến đoạn này, Mẫu thường khóc rất nhiều. Khi xong buổi lễ thì anh em chúng tôi lại ngồi nói chuyện với nhau về buổi giảng Kinh của Mẫu. Cuối cùng, chúng tôi hiểu ra một điều, NGƯỜI đã vì chúng sanh, nhân loại mà giáng trần để cứu độ cho tất cả chúng sanh trong thời kỳ mạt pháp này. Vậy mà có mấy ai biết đến PHẬT ĐỊA MẪU chăng? Tất cả các chùa chiền, đình, miếu đều thờ phượng các vị Phật, Thần Thánh ra vào cung nghinh, mà có mấy ai nhắc đến Mẫu đâu.
Khắp ở trong thiên hạ xứ nào
Lập chùa,tạo miếu đền cao
Phụng thờ thần thánh ra vào cung nghinh
Còn Mẫu đây riêng mình ai nhớ
Đến tánh danh cũng nhớ tưởng chi
Cõi trần chẳng có chi chi
Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không.
NGƯỜI rất buồn tủi vì không ai biết đến. Thế là anh Vương tôi quyết định xây điện thờ tại gia. Nhưng lấy đâu ra hình tượng thật của NGƯỜI để mà thờ phượng? Chợt chúng tôi nhớ ra có lần Mẫu vẩy nước vào tay cháu Hùng và bảo:“Con là người sau này vẽ hình của ta!” (Cháu Hùng là họa sĩ đang công tác tại Viện mỹ thuật- Trường ĐH Mỹ thuật Việt Nam.)

[FONT=Arial, sans-serif]
[/FONT]
Thế là anh Vương quyết định cháu Hùng là người vẽ. Muốn vẽ hình tượng của Mẫu thì phải có đất, có sông, có núi, có mây, có trời. Và cháu Hùng bắt tay vào vẽ chân dung của Người. Lúc đầu, cháu Hùng cũng không biết vẽ thế nào. Hôm đó, Người vào cháu Hương thì có anh Vương và cháu Hùng ở đó. Anh Vương đang phân vân về hình tượng vủa Mẫu không biết vẽ đứng hay ngồi thì thấy cháu Hương đứng dậy đến trước mặt anh Vương, chị Thanh và cháu Hùng. Mọi cử động của cháu Hương lúc này đều do Người nắn toàn thân cháu từ bàn chân, dáng đứng cho đến cánh tay và ngón tay. Thấy vậy, anh Vương bảo cháu Hùng lấy máy ra quay phim và chụp ảnh lại để làm tư liệu khi vẽ. Và từ hôm đó, mỗi lần lên giảng kinh, Người bảo mang bức hình đang vẽ dở lên phòng thờ để Người chỉnh sửa.
Thế rồi vào buổi giảng kinh ngày 30 tết năm 2008, Người nói:
Ta là người đứng trên quả Địa cầu sinh ra vạn vật, sinh ra các con nên cái tòa sen nó nhỏ thôi . Tràng hạt ta rất thích. Trong đôi mắt của ta có độ rưng của mắt, độ bầu tình thương. Sự ròng rã trong đôi mắt thức trắng đêm để coi các con, thức trắng ngày không ngủ, năm này qua năm khác. Trăm năm và trăm năm ta phải nhìn, nhìn đến mức mà mắt ta không mở to hơn được nữa, mở to không được vì sao? Các con khổ ta mở ta thương lắm. Cái bàn chân của ta chưa được. Nó phải thể hiện sự trải nghiệm, là sự gian khổ. Là những bước chân của ta phải đi ròng đi rã để cứu các con. Những nơi nóng, những nơi lạnh, những nơi sâu, những yếu hèn ta phải bước qua. Nó phải có độ sần, nó phải có độ gờ, sự gian khổ ta lặn, ta lội để giờ được về giảng Kinh cho các con. (chúng tôi có ghi lại đĩa)
Một thời gian sau, cháu Hùng đã hoàn tất công việc. Hình tượng của Người bắt đầu có từ đó và ban thờ cũng đã hoàn tất. Đại gia đình chúng tôi rất hoan hỷ chọn ngày lành đưa hình tượng của Người lên thờ phượng tại TP Hà Nội. Đó là ngày 29-03-2009 (Âm lịch). Và cứ như thế, mỗi tháng ba lần, chúng tôi vẫn đều đặn trì kinh. Lần nào cũng vậy cứ tới đoạn kinh:
Khắp ở trong thiên hạ xứ nào
Lập chùa tạo miếu đền cao
Phụng thờ thần thánh ra vào cung nghinh
Còn Mẫu đây riêng mình ai nhớ
Đến tánh danh cũng nhớ tưởng chi
Cõi Trần chẳng có chi chi
Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không.
Tới đoạn này, Mẫu khóc tới nghẹn lời (ở Hà Nội). Từ trên ban thờ nhà tôi ở Cần Thơ tự nhiên có một chung nước cúng đổ xuống và chảy thành hai hàng ngay giữa ban thờ, giống như hai hàng nước mắt vậy. Tôi hiểu được sự tủi thân của Người. Và thế là gia đình tôi quyết định lập điện thờ tại gia, tại TP Cần Thơ cho trang nghiêm hơn. Chúng tôi điện thoại ra Hà Nội cho anh Vương xin ý kiến và đề nghị anh lo phần hình tượng của Người.Vì tôi nghĩ, gia đình tôi tuy đã có tượng Mẫu từ lâu nhưng hình tượng của Người về gia đình tôi chắc chắn là đúng nhất vì đã có sự dẫn dắt và chỉnh sửa trực tiếp của Người, mà tôi đã được chứng kiến.
Thời gian tôi hoàn thiện xong điện thờ là hai tháng. Khi tôi đặt ban thờ cũng có nhiều chuyện xảy ra. Tôi ký hợp đồng với một doanh nghiệp đồ gỗ có đóng dấu hẳn hoi và đặt cọc, vậy mà khi làm nửa chừng họ phá hợp đồng, nói rằng lỗ và đòi thêm bảy triệu. Tôi vui vẻ trả thêm để mong sao sớm hoàn tất kịp ngày làm lễ. Vậy mà mọi việc vẫn không được xuôi chèo. Tôi đặt họ trạm trổ hai con rồng quấn quanh hai cây cột, họ lại để trơn. Tôi lại phải trả thêm tiền công trạm trổ. Họ làm không đúng quy cách như hợp đồng đã ký, tôi không đồng ý và họ lại xin thêm tiền. Tôi rất bực nhưng cũng không hơn thua gì, cho thêm ba triệu nữa. Nếu là việc ngoài đời trước đây, tôi đã căn theo hợp đồng mà làm. Và tôi hiểu được đây là thử thách lòng kiên nhẫn của tôi khi làm công việc kính lễ Phật Trời này.
Khi đang làm ban thờ, anh thợ chính có một con chó hay cắn đồ nên đã làm thịt ăn. Khi ăn xong những ai đã ăn thịt chó thì bị sốt, chân tay run lẩy bẩy không thể nào đứng được. Đi bác sĩ cũng không hết bệnh, bệnh như giả đò lúc nóng, lúc lạnh. Sợ quá, anh điện thoại cho tôi tới kể sự việc và nói rằng không thể đứng nổi mà làm ban thờ kịp ngày tôi làm lễ. Anh nói tôi về xin Mẫu giúp anh. Tôi hỏi tên tuổi và về nhà cầu xin Mẫu tha thứ vì là người trần nên không hiểu biết. Ngay chiều hôm ấy, anh đó điện thoại cho tôi nói rằng đã trở lại bình thường, anh nói sẽ sợ tới già. Rồi ban thờ cũng hoàn tất. Đến ngày tôi làm lễ an vị Phật Mẫu là ngày 29-05(nhuận) năm 2009 sau điện thờ nhà anh Vương tôi ba tháng.
Ngày tôi làm lễ an vị, các anh, chị và các cháu ở Hà Nội vào tám người. Người quan trọng nhất là cháu Hương vì lúc đó Mẫu vẫn ngự vào cháu Hương để giảng kinh. Anh Vương tôi vì bận công tác nên cận ngày, anh cùng cháu Hương đi máy bay vào và lại một sự kiện ly kỳ xảy ra. Hôm đó là ngày 27-05 (nhuận) năm 2009 (âm lịch). Anh và cháu Hương đi chuyến bay Hà Nội - Cần Thơ lúc sáu giờ sáng. Anh điện thoại cho tôi lên sân bay Trà Nóc đón anh lúc tám giờ. Gần tới giờ đón, tôi thấy anh điện lại nói rằng máy bay bị trục trặc, phải đáp ở TP HCM. Tôi giật mình lo sợ. Rồi anh kể, lên máy bay là anh ngủ thiếp đi. Khi máy bay đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, anh giật mình thức dậy hỏi cháu Hương: “Đến Cần Thơ rồi hả con?”. Cháu Hương lần đầu tiên đi máy bay nên không hề biết sợ là gì cả, trả lời anh tôi: “Không, mới tới TP Hồ Chí Minh bố ạ!”. Anh Vương giật mình hoảng hốt khi nghe cháu Hương nói: “Con nghe người ta báo máy bay bị trục trặc nên phải đổi hướng đáp ở TP Hồ Chí Minh. Con thấy trên máy bay xôn xao con lại nói: Đáp ở đâu thì đáp. Con nói vậy mà sao mọi người xung quanh tròn xoe mắt nhìn con hả bố?”.
Anh tôi buồn cười vì sự ngây thơ của con gái. Anh tôi và cháu đã ở TPHCM mấy tiếng đồng hồ. Sau đó, nhà ga đổi một máy bay khác về Cần Thơ. Chúng tôi đi lên sân bay Trà Nóc đón anh và cháu Hương. Về tới nhà nhìn lại đồng hồ đúng 12giờ trưa ngày 27-05 (nhuận) năm 2009. Sau khi tắm giặt và lên ban thờ đốt nhang xong, chúng tôi xúm xít lại ngồi bàn chuyện cho ngày lễ sắp tới. Ông xã tôi đề nghị đưa luôn pho tượng Mẫu trước đây vào thờ chung trong điện thờ mới. Anh Vương thì không chịu, nói rằng để nguyên chỗ cũ. Vì mình là người trần không biết làm như thế đúng hay sai. Hơn nữa hình tượng mới, mới là hình tượng mà Mẫu chọn. Ông xã tôi không chịu và nghĩ rằng mình là chủ nhà nên vẫn quyết định mang vào. Khi anh em đang tranh luận thì ông Huyên (vị Bồ Tát) vào cháu Hương lập tức. Tất cả nhà tôi không ai bảo ai im lặng và đều chạy ào đến chào. Ông mừng mừng, tủi tủi vì từ khi hoàn thành ban thờ Mẫu ở nhà anh Vương, ông đã chào tạm biệt đại gia đình tôi và hẹn gặp lại chúng tôi ở Cần Thơ.
Chúng tôi hỏi ông:
- Ông ơi, sao Mẫu đi trên máy bay mà máy bay lại trục trặc và đáp ở TP HCM hả Ông?
Ông nhìn vào mặt tôi và hỏi:
- Giờ của Mẫu là giờ gì?
- Dạ giờ ngọ ạ.
Ông nói:
- Vậy thì các con thắc mắc làm gì. Đúng giờ của Người, Người mới về nhà con.
Tôi mới vỡ lẽ ra trong câu kinh của Mẫu:
Đến giờ ngọ kiền thiền kinh Mẫu
Chẳng có nên dời đổi thời gian
Sửu, mùi thì tuất không an.
Đúng giờ nhất định lập đàn trì Kinh.
Thì ra từ trước tới nay, tôi cứ nghe người ta nói giờ ngọ là giờ linh thiêng. Nay tôi mới hiểu. Đang lúc ngồi nói chuyện, chợt ông nhìn vào mặt tôi hỏi:
- Đứa nào hôm nọ vào chùa nhìn thấy ông mà nước mắt chảy dòng ra?
Tôi giật mình và nhớ lại. Hôm đó, cách ngày an vị Phật khoảng 20 ngày, khi điện thờ đã gần hoàn tất, tôi xem lịch thấy ngày 29-5(nhuận) là ngày rất tốt và tôi bàn với anh Vương quyết định ngày lễ an vị Phật. Tôi vào chùa Long An hay còn gọi là chùa Ông Một ở Cái Răng, TP Cần Thơ do thầy Thích Minh Thông trụ trì chùa. Tôi nhờ thầy đến làm lễ an vị Phật Địa Mẫu.
Khi vào chùa tôi đi mua hoa quả thắp nhang cúng Phật. Tới nơi đệ tử của thầy nói, thầy vừa mới đi ra ngoài. Tôi đang đứng hỏi thăm lúc nào thầy về thì thấy thầy điện thoại cho người đó đi đón thầy về ngay. Tôi rất sợ thầy không nhận lời vì, đạo Phật nói chung, các chùa chiền và các nhà sư nói riêng, tôi không thấy thờ Phật Mẫu hay cúng Mẫu bao giờ. Có những nơi còn không biết Mẫu là ai. Họ nói Phật Thích Ca có nguồn gốc từ con người tu thành Phật. Nhưng như quý vị đã biết rằng, Phật Thích Ca khi chào đời đã khác thường, bảy bước đi đầu tiên của Ngài trên bảy đóa hoa sen. Một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Vậy có phải chăng là có tạo hóa, và có các chư vị vô hình tối cao, tối thượng đưa Ngài xuống trần gian để Ngài tìm ra con đường giải thoát cho nhân loại. Như đạo Cao Đài đang tôn thờ đó chính là ĐỨC CHÍ TÔN và PHẬT MẪU chăng? Và tôi nhớ đến lời ông Huyên nói khi về dạy dỗ chúng tôi hôm đi đền Tiên La (Thái Bình):
“Đi Đền Tiên La mà tủi thân lắm con ơi!Trời mưa ngập lụt, có một nơi mà ai ai cũng biết ra vào cung nghinh đẹp trời, đẹp lòng, nhưng phải chăng đã có ai biết được cái tâm nguyện của Người chỉ cần một cái ngôi thờ nho nhỏ như trên( ý nói là như gia đình tôi) . Không cần chi cả, không cần tiền bạc nhiều chi mà rắc đầy giám hố, chỉ cần tâm các con giác (giác ngộ) là được lắm rồi. Cái tâm nguyện nho nhỏ như vậy thôi. Trời mưa! Ông tới ông nhìn trời mưa, thứ nhất là ngày giỗ, thứ hai là giờ ai ai chư Phật cũng hiểu rằng Người về đã lên tiếng, không chỉ các con ngồi đây mà chư Phật khắp nơi đều thương thay cho cái tâm nguyện của Người và tâm nguyện đó sẽ hoàn tất dần dần từ gia đình ta. Truyền lưu, vạn phát đến khắp toàn Đông, Tây, Nam, Bắc. Người tủi thân vô cùng. Các con Của Người có nơi, có nhà có thờ phụng, có con cháu, có Phật Tử đi theo. Nhưng đã mấy ai đi đúng đường của Phật Địa Mẫu đâu. Đều từ mê tín mà đi lên . Mê tín thì làm sao Người dẫn đường, dẫn lối”.
(Trích lời của Vị Bồ Tát)
Khi nghĩ tới điều này tôi nhớ tới những vần thơ trong Kinh Địa Mẫu:
Vũ trụ do Mẫu Hoàng xuất phát
Mẫu tạo ra Bồ Tát,ThầnTiên
Thượng tầng bao phủ điển thiêng
Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh.
Hoặc một đoạn thơ khác:
Am, chùa, quán xá lập ra
Hiền Thần, Tiên, Thánh Mẹ đà thưởng phân
Chư Phật đắc Kim Thân do Mẫu
Và thế là tôi vào trước ngôi Tam Bảo thắp nhang trên chánh điện rồi cầu xin Chư Phật: “Con tên Nguyễn Thị Tám, 40 tuổi ngụ tại số nhà 166, Đường 3-2, phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ. Con lập điện thờ Phật Mẫu tại địa chỉ trên. Ngày 29 (âm lịch) tháng này, con làm lễ an vị Phật Địa Mẫu. Con đến đây, trước ngôi Tam Bảo cầu xin bốn phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương xoay chuyển cho thầy trụ trì và các thầy tăng về làm lễ an vị cho Người”.
Với một sự cảm thương và tấm lòng thành mong muốn Đạo Phật chính thống biết đến Phật Địa Mẫu là ai. Tôi chỉ biết cầu xin thế thôi. Rồi tôi đi hết các pho tượng ở trong chùa để xá lạy cầu xin. Bỗng tôi dừng lại ở một pho tượng ngay cửa chùa bước vào bên tay trái. Tôi ngước mắt nhìn lên tự nhiên tôi thấy khuôn mặt của Ngài giống như người thật đang nhìn tôi trìu mến và mỉm cười với tôi. Cứ thế, hai hàng nước mắt tôi trào ra và khóc ròng, nước mắt nhòe hết khuôn mặt, tôi không hiểu chuyện gì. Tôi về nhà mà cũng không nhớ ra câu nói của ông hôm nào, cho đến khi ông hỏi tôi như vậy tôi mớí nhớ ra lời dạy của ông lúc sắp xa chúng tôi: “Khi các con vào trong chùa, ông sẽ nhìn sâu vào ánh mắt đứa nào đó trong đại gia đình các con, dù là đứa nhỏ hay là lớn. Ông sẽ giác ngộ vào ánh mắt cho con biết Ông là ai và nước mắt con sẽ ròng ra thì đó là Ông cho con biết. Nhưng phải tu chánh niệm thì mới biết được Ông là ai. Nếu nhìn sai thì cần phải thêm nữa”.
Và khi nghe ông hỏi thế tôi mới biết là tôi đã gặp ông. Ngay chiều hôm đó, tôi rủ chị Sáu đi vào chùa để kiểm chứng và hỏi thầy xem vị đó là ai? Tới nơi, tôi thấy tấm bảng nhỏ để dưới chân ngài: “ĐỨC HỘ PHÁP BỒ TÁT”. Sau phút hội ngộ bất ngờ này, ông nói rằng ông nghe các con tranh cãi ông phải về ngay và chỉ vào ông xã tôi và bảo:
- Pho tượng ấy để nguyên chỗ cũ. Vì nhờ có pho tượng ấy mới dẫn dắt đến ban thờ ngày hôm nay. Con để nguyên như vậy là được rồi.
Ông khen chúng tôi bày hoa quả đẹp và khen ông xã tôi cắm bình hoa hồng rất đẹp. Ông bảo mai mốt con Tám để cho chồng con mua hoa, quả và cắm hoa. Tôi thắc mắc:
- Ông ơi, thế con làm việc gì hả ông?
Ông bảo:
- Nhiệm vụ của con nặng nề lắm. Từ từ con sẽ biết.
Và hôm đó đại gia đình tôi tiến hành buổi lễ. Thầy Thích Minh Thông và một số thầy ở Cần Thơ chủ trì buổi lễ rất trang trọng.
Khi xong công việc, các anh chị tôi về Hà Nội được ít ngày thì anh Vương đưa gia đình đi nghỉ hè cùng với cơ quan. Nói là nghỉ hè nhưng không biết có phải là sự sắp đặt không mà đoàn lại đi vào nghĩa trang Trường Sơn và nghĩa trang Đường Chín Nam Lào, Thành Cổ Quảng Trị, Địa đạo Vĩnh Mốc, Vĩnh Linh Cửa Tùng.Và cùng đợt đó có đoàn của chính phủ đi cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ. Cháu Hương đi cùng với bố nên đến ngày lễ Mẫu cháu không có ở nhà.
Hôm đó tôi vẫn tụng Kinh như mọi khi. Tự nhiên tôi thấy giọng tôi đổi khác và khóc rất nhiều giống y như cháu Hương lúc đầu vậy. Khi tụng kinh xong, tôi điện thoại lên hỏi cháu Hương và anh Vương về hiện tượng vừa rồi.
Cháu Hương nói: “Không sao đâu cô ạ.Có lẽ Mẫu về cô đấy!”. Và tôi hiểu được khi ở ngoài Hà Nội, mọi công việc đã ổn định, gia đình anh tôi đã được dạy dỗ và đi vào quỹ đạo, có thể nhận biết được rồi thì Người tiếp tục dẫn dắt ở miền Nam và tôi là người Mẫu ngự để giảng kinh trong các ngày lễ Mẫu.
Từ đó một tháng ba ngày, Mẫu về tôi trì Kinh đều đặn. Khi tới những đoạn Kinh nói về công lao của Người đối với nhân loại thì tôi khóc hay đúng hơn là Mẫu khóc nghẹn lời. Nếu ai đó có tâm tu, đã ngồi nghe Kinh Mẫu sẽ không khỏi ngậm ngùi rơi lệ.
Mẹ ban trăm vạn mùi hương
Lao tâm, tổn huyết đoạn trường vì con.
Công lao Mẹ bút son khó tả
Tình bao la Biển cả khó hơn
Khổ đau Từ Mẫu chẳng sờn
Nỡ nào quên đứt nghĩa ơn cho đành.
Hoặc đến những đoạn Kinh nói về thảm họa sắp xảy ra cho con người thì Mẫu không cầm được nước mắt. Tới đây tôi hay đúng hơn là Mẫu thường lặng đi ít phút.
Trang nữ kiệt anh hào chi hiếu
Bố cáo cho người hiểu rõ ràng
Đứng ra giải đáp lời vàng
Cho người Trần thế dương gian chi tường
Khắp thiên hạ thập phương chung cảnh
Nạn thiên tai phải quạnh hưu sầu
Dập dồn nhiều cảnh khổ đau
Họa tai trước mắt tránh đâu bây giờ
Hay những câu thơ khác:
Dân nước nào chẳng tin lời Mẫu
Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha.
Đại kiếp thủy, hỏa, phong ba
Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi
Hoặc có đoạn:
Nạn thiên tai Thủy kiệt Sơn băng
Chúng sanh ngã, gục, nhào lăn
Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào .
Phải chăng những dòng thơ trên Người muốn tôi nói với mọi người trần thế rằng tai họa về nước, tai họa về lửa và tai họa về gió (bão tố phong ba) sẽ sắp xảy ra với con người. Nếu như ngay hôm nay chúng ta không quay đầu hướng thiện, làm lành, lánh dữ.
Và cứ như thế anh em tôi quyết định tới tháng 11 năm 2009 sang cát (lấy cốt) cho mẹ tôi.
Tôi nhớ lại những buổi mẹ tôi về và mẹ bảo khoảng cuối năm nay thì sang cát cho mẹ. Tâm nguyện của mẹ muốn về cùng một chỗ với ông bà, các cụ và bố tôi. Lúc đó chúng tôi có hỏi mẹ sang cát vào ngày nào thì mẹ tôi không nói và bảo lúc nào thì mẹ sẽ nói sau, có gì thì cứ hỏi thầy Đông.
Anh Vương xuống hỏi thầy Đông về chuyện này thì thầy Đông nói:
- Không bao giờ được bốc mộ mẹ tôi lên, nếu gia đình tôi cứ quyết tâm thì người chết trước tiên là anh Vương.
Khi nghe thầy Đông nói vậy anh Vương rất lo lắng và có bàn bạc với anh em chúng tôi. Xong nhớ lại tâm nguyện của mẹ tôi lúc trước. Anh Vương nói:
- Chết mà hoàn thành tâm nguyện cho Mẹ anh cũng không sợ.
Cách ngày sang cát cho mẹ tôi một tuần thì anh Vương và anh Định về quê để mời khách thì rất nhiều người trong họ nói ra nói vào là bốc mộ mẹ mà không đi xem bói gì, rồi dẫn chứng ra cho chúng tôi: Nhà này bốc mộ cha mẹ mà cãi lời thầy bói thì chết mấy người, nhà kia cãi lời thầy bói thì chết đụng xe vv...Chị bảy tôi ở quê nghe vậy sợ quá liền lén đi xem bói.
Khi đến nhà thầy Quyền ( thày cúng ở quê tôi) để xem thì thầy Quyền bảo ghi hết tên tuổi của con cháu thì ông mới xem cho. Chị Bảy cũng làm theo lời của ông nói thì ông bảo nếu mà bốc mộ mẹ tôi thì sáu người con cháu bị ảnh hưởng, bị những điều xấu thậm chí là mất mạng. Trong đó có tôi, chị sáu, chị Thắm, chị Nương, cháu Hùng và nhất là anh Định. Ông bảo nếu cứ cương quyết bốc mộ cho mẹ cô thì phải kêu anh này - tức anh Định lên gặp tôi ngay. Nghe thấy vậy thì anh Vương rất lo lắng.
Anh nghĩ: Sư Đông nói là mình chết, mình không sợ. Bây giờ thầy bói nói người chết không phải là anh mà toàn là người thân của anh. Là chính các em ruột và con trai anh, nên anh điện thoại cho tất cả anh em chúng và hỏi ý kiến.
Tôi điện thoại hỏi anh Định có sợ chết không. Anh Định nói anh không sợ và chúng tôi đều đồng lòng nhất trí. Chúng tôi đều nói với anh Vương là chúng em có chết cũng không sợ. Trong thâm tâm tôi suy nghĩ rằng chúng tôi làm công việc để báo hiếu mẹ mà tại sao lại phải chết. Với lại các cụ nhà tôi đã căn dặn không bao giờ được đi coi bói, nếu đứa nào đi sẽ bị phạt kia mà.
Tôi tin vào Trời Phật sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện với những người con có hiếu với cha mẹ. Nghe thấy chúng tôi nói vậy thì anh Vương cũng yên tâm và tắt máy. Một lúc sau anh lấy điện thoại gọi cho tôi. Điều lạ là lúc đó thì điện thoại của tôi không thể liên lạc được mà còn thông báo là số máy đó không có thực mặc dù ngày nào anh em tôi cũng gọi cho nhau. Anh Định lấy máy gọi cũng không được. Thấy vậy anh liền gọi cho chị Sáu, anh bảo hôm nay thật lạ, anh không liên lạc được với tôi mà gọi mãi cho chị Sáu mới được. Chị Sáu liền hỏi anh về công việc của mẹ đến đâu rồi thì anh bảo anh còn cân nhắc nghe thấy vậy chị Sáu nói với anh: “Việc của nhà mình từ trước đến bây giờ các cụ không cho xem bói và vì người ta không được chứng kiến chuyện nhà mình nên họ không hiểu. Còn sự việc nhà mình từ trước đến giờ thật giả lẫn lộn và họ chống đối gia đình nhà mình rất nhiều. Anh cứ làm việc gì mà thấy tâm an thì làm”.
Trong thời gian này, các cụ ông bà không còn vào cháu Hương nữa. Lúc đó chị Sáu nghĩ tới Mẫu đang ngự vào tôi để giảng Kinh và chị liền điện thoại cho tôi nói về chuyện này. Tôi nói chị Sáu tuyệt đối không đi xem bói vì tôi hiểu được ai đi theo con đường bói toán là không đúng với lời Phật dạy vì bói toán chính là theo tà đạo. Và chị em tôi vẫn quyết tâm ủng hộ những quyết định của anh để đồng tâm, đồng lòng bốc mộ cho mẹ tôi. Hai chị em tôi có nói với nhau: Tại sao những người đó lại hăm dọa gia đình mình như vậy? Nếu bốc mộ cho mẹ thì mẹ sẽ được đặc ân một điều gì đó mà chúng ta chưa biết được chăng? Rồi đến ngày lễ Mẫu hôm sau, khi tôi đang trì Kinh thì tới câu Kinh:
Hội Tý,Sửu khai Thiên tịch Địa
Vạn sự thành hiếu nghĩa vi Tiên.
Khi đọc tới câu này giọng Mẫu đọc to, kéo dài và khóc nghẹn ngào ý muốn cho tôi biết: Nếu chúng tôi bốc mộ cho mẹ bằng lòng hiếu thảo của những đứa con làm tròn tâm nguyện cho Mẹ thì vạn sự sẽ thành từ chữ hiếu nghĩa.Và câu “vi tiên” ở đây mang hàm ý nghĩa gì ?
Từ hôm anh Vương ra quyết định thì không ai bàn ra, bàn vào câu nào cả. Những sự việc xảy ra trong dòng họ nhà tôi từ ngày Mẫu cho các cụ ông bà về dạy thì tất cả con cháu trong dòng họ Nguyễn đều bị xáo trộn thật giả lẫn lộn. Đến bây giờ anh em chúng tôi mới hiểu ra đâu là thiện đâu là ác, đâu là chính đâu là tà. Và thế là anh em tôi quyết định ngày sang cát cho Mẹ tôi. Đó là vào ngày 02/11/2009.
Rồi cũng đến ngày sang cát cho mẹ tôi, con cháu trong dòng họ Nguyễn từ Nam chí Bắc đều về nhà gần như đông đủ. Ngày đó cũng là ngày lễ Mẫu - 30 hàng tháng. Xong ngày lễ Mẫu thì anh em chúng tôi về quê mỗi người một việc. Người thì đi mời thầy sư, người thì đi mời các già (các già là trong Hội người già ở xã hay đi chùa cùng mẹ tôi lúc còn sống) để đến tụng Kinh cầu siêu cho Mẹ trước một ngày.
Ngày hôm đó, chúng tôi bảo nhau cúng cơm chay và cùng ăn chay niệm phật. Cả gia đình tôi cùng các già đọc kinh cầu siêu cho mẹ tôi. Tôi ngồi đằng sau bà Lâm (bà lâm là hội trưởng). Lúc còn sống mẹ tôi là người chơi thân nhất với bà. Đang giờ làm lễ thì tôi thấy hiện tượng rất lạ là tôi chưa đọc kinh cầu siêu bao giờ nhưng tôi cứ dướn người lên nhìn vào cuốn Kinh cầu siêu mà bà Lâm đang đọc và đọc làu làu như đã thuộc kinh này từ lâu rồi. Mọi người nhìn tôi ngơ ngác. Lúc làm lễ gần xong thì chúng tôi mới biết là mẹ tôi đã vào tôi để đọc kinh. Thì ra mẹ tôi đã mất mà vẫn tu.
Nhờ hồng phúc của mẹ mà chúng tôi mới được như thế này. Ngay lúc đó mẹ tôi vào tôi khóc như mưa. Mẹ mừng mừng, tủi tủi vì gặp lại bạn bè trong hội các già. Mẹ quay ra gọi bác Bảo (bác là anh trai mẹ tôi) và bảo chúng tôi gọi dì Lan, dì Thắm (là em gái mẹ) vào đây. Mẹ ôm bác và hai dì tôi khóc và dặn dò giữ gìn sức khoẻ và bà quay ra chắp tay nói cảm ơn các già, cảm ơn các con, các cháu. Lúc đó tất cả mọi người cùng nghe ai nấy thấy vậy rất tin và vui mừng.
Đến gần 1h đêm hôm đó mọi người chuẩn bị lên nghĩa trang để làm thủ tục sang cát cho mẹ tôi. Sư Đông giận chúng tôi không nghe lời thầy nên không nhận lời cúng cầu siêu cho mẹ.
Nhưng đúng là sự màu nhiệm của Phật và cũng là phần phước của mẹ tôi và gia đình tôi. Phật không phụ lòng các con của Phật nên đã đưa một nhân duyên khác đến với mẹ tôi và gia đình tôi:
Thượng tọa trụ trì chùa Vàng là thầy của thầy Đông và là người rất có uy tín trong Giáo hội Phật giáo ở Hà Nam nhận lời cầu siêu cho mẹ tôi ở ngoài nghĩa trang. Thầy lại hẹn chúng tôi làm lễ lúc một giờ đêm.
Anh chị em chúng tôi bảo nhau không được khóc và chỉ niệm phật cầu xin cho mẹ tôi được siêu sinh tịnh độ về cửu phẩm liên hoa, như trong Kinh Mẫu đã dạy:
Bởi vì con tận chung, tận hiếu
Đắc quả cao cửu khướu khai minh
Con hiền thọ hưởng trường sinh
Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm thành
Mẹ tứ sắc phong danh muôn thuở
Chánh quả thành dứt nợ trần ai
Ban cho cửu phẩm liên đài
Trung ương, thượng quốc về ngay đền vàng.
Chúng tôi trải một tấm bạt lớn ra giữa nghĩa trang và bắt đầu làm lễ. Thầy tụng hết một thời Kinh cầu siêu của Phật A DI ĐÀ khoảng một tiếng đồng hồ. Tất cả đại gia đình tôi ở ngoài nghĩa trang quỳ lạy mẹ. Không ai bảo ai nhưng chúng tôi luôn cầu xin Trời Phật cho mẹ được siêu sinh tịnh độ, được về cửu phẩm liên đài.
Thầy lại tiếp tục xuống phần mộ mới của mẹ tôi tụng thêm một thời Kinh cầu siêu cho mẹ để chuẩn bị mang hài cốt của Mẹ về nhà mới.
Và mọi người bắt đầu đào mộ mẹ. Khi đào tới nơi và chuẩn bị bật quan tài thì anh em con cháu ai cũng lo là không biết mẹ tôi đã sạch chưa. Khi bật nắp lên thì mẹ tôi chỉ mới sạch được 80%. Con cháu ai nấy đều đau xót và thương mẹ. Nhưng ngay lúc đó chị Sáu tôi đã động viên mọi người trong gia đình là: Công việc của mẹ được như thế này là tốt lắm rồi còn công việc của nhà mình từ trước đến giờ thì Trời phật đã chứng tâm, chứng lòng con cháu trong dòng họ chứ người đã mất thì thể xác chỉ là cát bụi thôi, rồi cũng tan rã, rồi sẽ về cát bụi. Tôi, chị Thanh, chị Sáu bảo nhau đứng xung quanh niệm Phật và cầu xin cho mẹ được về cửu phẩm liên đài.
Qua sự việc trong gia đình dòng họ nhà tôi được các cụ ông bà về dạy bảo, được Mẫu về giảng kinh và tôi được xem các đĩa giảng kinh Phật, tôi đã hiểu ra một điều: Mỗi con người sinh ra đều phải nhớ tới cội nguồn và lòng hiếu thảo là những điều mà mỗi con người chúng ta không thể thiếu. Nếu giữ đúng đạo lý này thì mỗi gia đình sẽ hòa thuận, hạnh phúc hơn. Xã hội chúng ta sẽ tốt đẹp hơn.
Công việc của mẹ tôi đến đây cũng đã ổn. Ngày hôm sau anh em chúng tôi lên ban thờ xin Mẫu cho các cụ, ông bà về để hỏi xem công việc của mẹ có sai sót điều gì không.
Lúc cả nhà lên xin thì không được nhưng bỗng dưng chị Thắm từ dưới bếp chạy lên. Không biết là ai vào chị, nhưng chị cứ nói không sao đâu và chỉ vào ngực anh Vương, chị Thanh, cháu Hùng và nói:
- Đứa nào cũng xót thương mẹ nhưng không sao mọi việc tốt đẹp lắm. Các con không phải lo gì cả. Việc của mẹ bắt buộc phải như thế cũng như là các con đi tìm mộ bác Huyên vậy.
Vì quá sợ những lần trước nên chúng tôi không dám nhận đó là mẹ. Một lúc sau mẹ tôi vào tôi và khóc thật nhiều. Anh Vương hỏi:
- Mẹ ơi, chúng con làm công việc cho mẹ, mẹ có vui không, chúng con có làm gì sai không hả mẹ?
Mẹ tôi nói:
- Mẹ khóc vì mẹ mừng lòng hiếu thảo của các con. Trời Phật đã chứng tâm chứng lòng của các con. Còn ai nói gì các con mặc kệ họ. Mẹ đã được lên chín phẩm rồi. Từ nay mẹ sẽ không thường xuyên về gặp các con, các cháu nhiều được vì mẹ còn thời gian để tu tập. Các con cũng phải tu tập. Chỉ khi nào có việc mẹ mới về. Mẹ cảm ơn tất cả. Các con, các cháu làm tốt lắm.
Mẹ kéo chị Sáu tôi vào và nói là con ở bên cạnh anh Vương hỗ trợ cho anh mọi công việc. Và mẹ còn bảo chị tôi là nếu muốn khuyên bảo ai thì phải nhẹ nhàng.
Sau đó thì mẹ bảo chị Thanh là con làm rất tốt. Cháu Hùng thì Người cho bàn tay sau này vẽ tốt trong sự nghiệp của người họa sĩ. Cháu Hiền thì phải nghe chồng và bảo ban nhau đi theo con đường của bố mẹ. Ngay lúc đó ông xã tôi lên, mẹ tôi khen là có tâm lắm, phải cố gắng lên các cụ, ông bà nhà con cũng được hưởng phúc từ con. Cùng lúc đó anh Cường chồng chị Thắm lên, anh quỳ xuống khóc rất to và nói:
- Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ! Con biết tội của con rồi.
Lúc đó tất cả anh em con cháu nhà tôi đều nhìn thấy anh Cường da xanh lét, môi tái nhợt. Không biết ai vào anh mà trông rất sợ vì chưa bao giờ tôi thấy anh có hiện tượng như vậy. Sau đó anh Hanh lên thì mẹ tôi bảo cảm ơn tất cả các con, các cháu mẹ mừng lắm, mẹ đi còn để ông nội lên nói chuyện sau.
Sau khi mẹ tôi đi thì ông nội tôi lên. Cũng như mọi khi, ông lên vào cháu Hương. Vẫn oai phong, vẫn dáng vẻ khoan thai, ông chống hai tay lên đùi và dạy bảo con cháu. Ông rất mừng và nói với chúng tôi rằng: Chuyện nhà mình và công việc của mẹ con rất tốt, nhưng bắt buộc chuyện phải xảy ra như vậy, như chuyện tìm mộ của bác Huyên. Ai người ta xì xào nói gì thì kệ người ta. ( vì quê tôi chưa ai cúng chay bao giờ cả). Khi có công việc báo hiếu cho cha mẹ thì người ta làm thật to, thật linh đình và thật nhiều heo, gà để chứng tỏ mình có hiếu. Còn nhà mình thì khác người ta. Cả làng, cả xã, thậm chí cả tỉnh chưa ai cúng chay cha mẹ cả và cũng chưa có gia đình nào nửa đêm các con ra nghĩa địa để quỳ lạy và cầu siêu cho mẹ. Các con làm tốt lắm, không phải ai cũng có thể làm được như vậy đâu.
Ông quay sang nhìn chồng tôi và nói:
- Trong mấy thằng cháu rể làm mộ cho mẹ, ông thấy mày là thằng có tâm nhất. Mấy ngày hôm nay đứa nào làm gì ông đều biết hết. Rồi ông quay sang cười nói với chị Thanh rằng: Nhiều lúc ở nhà, ông nghe thấy con bảo chồng con chỉ nghe lời Sáu với Tám thôi không nghe vợ. Con đừng nói thế nữa nhé, mỗi người một công việc. Về tâm linh không phải nghe ai cũng được đâu. Phải cân nhắc mọi việc và chọn cái đúng mà làm. Công việc của con là lo chuyện hương khói ban thờ cho Mẫu và các cụ chứ không phải cái gì cũng nghe con được. Nghe mà hiểu được đâu phải ai cũng được như thế. Muốn hiểu được thì phải tu bao nhiêu kiếp.
Rồi ông nói với anh Hanh: Hôm nay ông thấy con lau nhà. Và ông nhắc đến cháu Hùng đã vẽ được hình tượng của Người. Còn cháu Hiền sao con lại thắc mắc và hỏi tại sao ở trong đầu? Con cứ nhìn bố mẹ con tu thì con biết đâu là đúng, đâu là sai.
Và ông cũng không quên nhắc anh Hanh là đừng nên ép và cấm đoán chị Sáu nhiều trong con đường tu. Nếu ép chị sẽ chọn con đường theo Phật và đừng tính toán đến tiền bạc khi hiếu kính Phật Trời hay ông bà, cha mẹ
Ông nội tôi cũng không quên dặn chị Sáu là chồng con tuy vậy nhưng nó cũng tốt. Nó giúp con lúc con gặp khó khăn, con về lựa lời mà nói, nó sẽ thay đổi. Sau khi nhắc nhở từng người thì ông lại nói chuyện vui vẻ về chuyện của mẹ tôi. Ông bảo mẹ tôi đã được lên chín phẩm rồi. Ông rất vui và hãnh diện. Ông chỉ nói vậy rồi bố tôi lên nói chuyện tiếp. Khi bố tôi lên bố cũng nói, chuyện của mẹ con là phải mang tiếng như vậy, cũng như chuyện đi tìm mộ của bác Huyên. Mọi chuyện rất tốt. Bố và ông tôi lên đều nói là chuyện gia đình nhà mình là Trời Phật chứng tâm các con, các cháu. Thể xác khi mất đi rồi chỉ là cát buị rồi cũng trở về cát bụi, nó chỉ là vật vô tri, vô giác thôi. Linh hồn con người đi đâu, về đâu mới là quan trọng. Buổi tối hôm đó bố tôi căn dặn chúng tôi rất cặn kẽ và hẹn lên Hà Nội thì ông bà sẽ vào tôi nói chuyện trước khi tôi vào Cần thơ.
Tối hôm sau, khi cả nhà đã lên Hà Nội, tất cả anh em con cháu lại tập trung ở phòng thờ nhà anh Vương để được gặp ông nội và bố mẹ tôi. Chúng tôi lại tụ họp đông đủ để được nghe các cụ dạy bảo. Các cụ dạy chúng tôi con đường tu làm sao cho đúng, lúc nào cũng phải giữ chữ nhẫn làm đầu và phải luôn luôn cân nhắc cái đúng, cái sai, cái thiện và cái ác. Các con cứ chọn điều thiện mà làm thì sẽ không bao giờ sai cả.
Khi xong công việc của mẹ, tôi lại lên đường về Cần Thơ. Tôi vẫn tiếp tục công việc của mình và vẫn đều đặn một tháng ba lần hành trì Kinh Địa Mẫu. Tôi tự mình tìm hiểu và sửa chữa những lỗi lầm. Vì là một con người chúng tôi vẫn mắc những lỗi lầm nho nhỏ.
Mẫu vẫn về dạy dỗ chúng tôi qua từng vần thơ trong Kinh của NGƯỜI và cho tôi sự sáng suốt, nhận thức đúng đắn trong con đường tu. Đúng như lời trong Kinh Mẫu:
Ai chí tâm hiển đạt phúc lành
Rõ thông từng chữ hiểu rành
Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân
Điển huyền linh xa gần chiếu tỏa
Phóng hào quang khắp cả bầu Trời
Thưởng người hiểu rõ từng lời
Tâm tư kẻ đó sáng ngời minh châu.
Và tôi càng hiểu hơn nỗi niềm tâm sự của Người trong những dòng thơ cuối. Người cho biết rõ rằng Mẫu muốn cứu vớt con người, muốn chúng ta quay đầu hướng thiện. Người không muốn bỏ ai cả. Thế nhưng:
Ngặt chủng chẳng quay đầu trở lại
Tuân theo lời Mẫu dạy trong Kinh
Mẹ muốn bỏ sổ tử hình
Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều.
Tới đây tôi hiểu rằng con người chúng ta ngày nay (không phải là tất cả). Thế hệ con cháu chúng ta sống theo thời đại, ít giữ được lối sống của ông cha và gây ra nhiều tội lỗi. Nếu cứ đà như thế này liệu con người sẽ đi đâu, về đâu? Người đã cạn nước mắt và dùng đủ mọi cách bằng tâm linh để kêu gọi con người hướng thiện, nhưng đã được mấy ai?
Và cuối cùng Mẫu phải đành lòng tính cách này:
Mẹ tính mãi bao điều phương kế
Chẳng đành lòng bỏ phế lảng ngơ
Tình thương vô bến vô bờ
Làm sao cứu được con thơ trở về
Mẹ dùng trước màu phê sắc lịnh
Phán phân rằng chỉ định thế này
Truyền Thần thiện ác đến đây
Chia làm hai phái, lướt mây xuống Trần.
Người hung dữ ác Thần dẫn dắt
Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm
Độc ác , tàn nhẫn, đa dâm.
Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi
Và rồi sẽ đến một ngày:
Mẫu thâu lại Yêu, Tà, Lăng, Mị
Kẻ bất lương phải bị luật hình
Hô phong hoán vũ lôi đình
Làm cho sấm nổ, nước mênh mông tràn
Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ
Trận cuồng phong bão tố khắp vùng
Mẫu tận diệt đứa bất trung
Xử người bất nghĩa chẳng dung tha nào
Và cuối cùng Người cũng dành cho chúng ta những người lương thiệnmột phần thưởng vô cùng quý giá:
Bậc hiền lương phương phi quân tử
Thiện Thần gom lại giữ một nơi
Đưa vào Chánh giác kịp thời
Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan
Khi Mẫu đã cho hai phái Thiện Thần và Ác Thần xuống dẫn dắt con người rồi thì những người hung dữ, độc ác, bất lương… Ác Thần sẽ dẫn dắt vào con đường ác. Còn những người hiền lương có tâm tu niệm thì sẽ được Thiện Thần đưa vào chánh giác. Khi đã vào chánh giác tu niệm rồi thì:
Mẫu từ sẽ chuyển huệ tâm kẻ lành
Được sống sót nhàn thanh đủ chí
Biết tường phân chánh lý đường tà
Thiện gần, ác lại tránh xa
Từ đó các đạo mở ra khai hoằng
Đồng xuôi lòng ăn năn quỳ tựu
Chánh đạo Mẫu hội đủ đem về
Chẳng còn chia rẽ khen chê
Phân ra nhiều mối khó bề tường phân.
Đọc đoạn thơ này tôi thiết nghĩ:
Hiện nay tất cả các Đạo giáo nói chung đều cho rằng mình là chánh Đạo. Theo tôi đạo nào cũng đều hướng cho con người đến những điều thiện, điều tốt. Có sai chăng là ở con người chúng ta không hiểu Đạo nên đã có sự phân biệt và chia rẽ. Tất cả con người chúng ta sinh ra trên trái đất này đều có chung một đấng Cha, Mẹ thiêng liêng. Đó là Cha Trời và Mẹ Địa. Vì chúng ta đều là con của Người, Người mong muốn chúng ta đoàn kết, yêu thương nhau, dìu dắt nhau làm lành, lánh dữ để Người được yên lòng. Đó là tình thương của một người Mẹ đối với toàn nhân loại.
Mẫu không muốn nhìn thấy sự chia rẽ càng ngày càng sâu sắc nên Mẫu đã đích thân giáng trần để khai hoằng các mối Đạo cùng đồng lòng ăn năn quỳ tựu về một“chánh Đạo.”
“Chánh Đạo Mẫu hội đủ đem về”
Và ngày đó là khi nào xin quý vị hãy nhìn xem những gì đã và đang xảy ra trên khắp cả hoàn cầu. Có phải chăng là Người đã và đang sàng lọc để tìm ra những con người hiền lương, chân chánh để đưa vào Chánh Đạo. Khi đã vào chánh Đạo rồi thì chúng ta sẽ được Người ban cho sự cao sang thanh tịnh.
Các con hiếu thảo hiền lành
Tới chừng khi đó Mẫu dành hồng ân
Được đổi xác kim thân bất hoại
Chẳng tử sanh thoát khỏi nghiệp duyên
Chứng đặng đại la Tiên Thiên
Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công.
Hội bàn đào thưởng đồng tất cả
Các con nào đắc quả dự vào
Thế rồi vĩnh viễn về sau
Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền
Và cứ như thế càng ngày chúng tôi càng hiểu biết và thấm thía hơn về những vần thơ trong Kinh Địa Mẫu. Những chuyện xảy ra trong đại gia đình chúng tôi mấy chục năm qua ngẫm lại đúng như những gì trong Kinh Mẫu đã viết:
“Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng
Điển huyền vi hữu dụng Mẹ ban
Cốt nhục xa cách lạc đàn
Mẹ cho tái hợp bình an vui vầy
Vui trong cảnh bao ngày cách biệt
Dẫu chia tay cũng hiệp cùng nhau.”
Mãi thời gian sau này chúng tôi mới hiểu ra những điều xảy ra trong gia đình tôi đều đúng như trong Kinh Mẫu. Gia đình tôi có đứa em bị thất lạc từ khi mới sinh ra ( thời chiến tranh năm 1971). Sau hơn ba mươi năm chúng tôi hay nói đúng hơn là anh Vương tôi đã tìm thấy em về đoàn tụ cùng với gia đình.
Chị dâu tôi là mẹ của cháu Hương có một người em gái bị bệnh đã bỏ nhà đi lang thang chín năm không biết đường về. Và rồi cũng là anh Vương tìm thấy như một kỳ tích. Câu chuyện xảy ra như một chuyện lạ mà có thật. Ngẫm lại chúng tôi mới hiểu. Cháu Hương nhà chúng tôi đúng chín tuổi thì đã biết cung nghinh đọc tụng Kinh Mẫu. Cho nên sự huyền vi đã đến và cốt nhục của gia đình chúng tôi xa cách lạc đàn mấy chục năm trời, Người cũng cho tái hợp bình an vui vầy. Cứ thế đại gia đình tôi đều đặn một năm ba mươi sáu ngày, vào giờ ngọ tựu họp về hai điện thờ để trì Kinh Địa Mẫu. Khi đã thờ bằng hình do cháu Hùng vẽ được một năm, sang năm 2010 anh em tôi tiến hành tạc hai pho tượng Mẫu để thờ phượng. Tượng được điêu khắc bằng gỗ và dát vàng. Bản quyền được lưu giữ tại nhà anh Nguyễn Văn Vương.
Tôi và gia đình lại một lần nữa lên đường ra Hà Nội mang theo chiếc xe16 chỗ để thỉnh Tượng Mẫu về. Chúng tôi đi 15 người ra nhà anh Vương dự lễ An Vị của Phât Địa Mẫu. Lễ an vị pho Tượng Phật Địa Mẫu tại nhà anh Vương là ngày 29- 6 -2010 ( âm lịch).
Lễ an vị pho Tượng Phật Địa Mẫu tại nhà tôi sau nhà anh 10 ngày. Đó là ngày mùng 09 -7 - 2010 (âm lịch).
Trên đây là tất cả những chuyện ly kỳ mà có thật 100% xảy ra trong đại gia đình chúng tôi. Với tư cách của một người đã có tâm linh đã hiểu biết thế nào là thiện, thế nào là ác và biết giới cấm của Phật dạy một người con Phật. Tôi hiểu được lời nói của mình nên tôi không phạm vào điều nói dối, nói lưỡi đôi chiều nên những lời chúng tôi kể ra đây, chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời nói của mình trước Phật Mẫu .
Nếu ai đọc được cuốn sách này, dù tin hay không tin, xin hãy để tâm suy nghĩ và lưu tâm xem những gì xảy ra trên khắp cả hoàn cầu có đúng như lời Mẫu dạy trong Kinh không. Những lời chúng tôi kể suốt thời gian từ ngày Phật Mẫu Giáng Trần cùng những đoạn thơ trích trong Kinh Địa Mẫu và những lời dạy dỗ của Đức Hộ Pháp bồ tát, chúng tôi đều ghi âm lưu giữ lại.
Trên đây là những sự kiện xảy ra với đại gia đình chúng tôi cùng những suy nghĩ, hiểu biết trong suốt thời gian Phật Mẫu giáng trần để quý vị tham khảo.
Nếu có ai muốn tu tập để được Người cứu vớt trong thời kỳ mạt pháp này và tìm hiểu sự sâu xa trong Kinh Địa Mẫu thì xin hãy sưu tầm cuốn ĐỊA-MẪU CHƠN KINH. Tôi mong rằng quý vị sẽ khám phá ra sự kỳ diệu giống như đại gia đình tôi vậy.

NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU
DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH

Hồi hướng
Phần kinh con mới đọc rồi
Nguyện đem phước đức vun bồi chúng sanh
Cho người thức tỉnh tu hành
Bến mê phút phút biến thành ao sen
Lý kinh sáng suốt như đèn
Rọi vào tâm chí tối đen sáng liền
Tụng kinh Địa Mẫu có duyên
Gặp người tri thức bạn hiền đồng tu
Ngày ngày tinh tấn công phu
Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời
Cúi xin Phật Mẫu chứng lòng
Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trì.
NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU
DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHÂN KINH

Cuốn sách này là tập hợp những ghi chép từ ký ức của tất cả thành viên trong gia đình và từ các ghi âm những lần Mẫu về giảng kinh; ông Huyên, các cụ, ông bà về dạy dỗ con cháu…
Nội dung cuốn sách hoàn toàn là những câu chuyện có thật. Không mang tính chất truyền bá mê tín dị đoan.
 

Hàn Sĩ Ngô

Lão làng
ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU - CẢM NHẬN TỪ MỘT HUYỀN THOẠI.
PHẦN CUỐI : CẢM NHẬN TỪ MỘT HUYỀN THOẠI
ap_20080730124950343.jpg.jpg
PHÁT NGUYỆN :
Con không xin vào Niết bàn ,
Mà nguyện hướng về Địa ngục .
Cầu cho ngọn lửa ngục hóa Sen vàng .
Con không xin vào cõi Phật ,
Mà nguyện hướng về đao sơn ,
Cầu cho gươm giáo hóa Đạo tràng .
Con không vào Tịnh Quốc ,
Mà nguyện làm chiếc đò ngang ,
Ngày đêm chở hết nỗi trái oan ,
Tâm như Đại hải ,
Tâm như Kiều thuyền .
Con nguyện ở lại .
Cõi Ta Bà lửa ngút máu oan khiêm ...
Trải lòng thương xót khắp nẻo ưu phiền .
Địa ngục xuống lên ,
Luân hồi qua lại ,
Quán Kỳ âm thanh - Con nguyền tự tại .
Xem tiếng kêu mà phiền não độ qua .
Bao giờ Địa ngục còn ma ,
Muỗi mòng còn khổ - Ta Bà còn QUÁN ÂM .

Phật pháp có tới bốn vạn tám ngàn Pháp môn , tuỳ duyên chúng sinh mà biến hiện . Những gì mà dienbatn đã nghe, đã thấy tại gia đình anh Vương , dienbatn tin đó là sự thực. Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu , là một vị Phật Mẫu theo tín ngưỡng dân gian của loài người , không có trong danh mục các vị Phật của Phật Giáo. Trên khắp thế giới này , tục thờ Phật Địa Mẫu đã có từ rất lâu trước khi đức Phật Thích ca ra đời. Miền Bắc Việt Nam từ ngàn xưa đã có phong tục thờ Địa mẫu như việc thờ cúng Tứ Phủ ( Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Địa phủ). Tại vùng Luy Lâu ( Bắc Ninh ) từ thời Tì ni đa lưu chi (580) cũng đã thấy xuất hiện thờ Phật mẫu Man Nương. Ngay từ thời các Thế Đại Vương triều Hùng Vương đã có sự tích báng chưng bánh dày dâng lên thờ cha mẹ ( Trời tròn - đất vuông ). Người Chăm cũng thờ Pô inư Naga ( Bà Chúa Xứ - Một biến hiện của Phật Địa Mẫu), tại núi Sam - Châu Đốc có Miếu Bà Chúa Xứ rất linh thiêng, hàng năm có hàng vạn người về lễ hội. Tại toà Thánh Tây Ninh, hằng năm, vào đêm rằm Trung Thu (15 tháng 8 âm lịch), tại Báo Ân Từ, Đền Thờ tạm Đức Phật Mẫu trong Nội Ô Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh có tổ chức một buổi lễ long trọng gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung, trong đó có buổi tiệc dâng Tam Bửu : Hoa Quả, Rượu, Trà lên Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương. Như vậy ta có thể thấy rằng : tín ngưỡng thờ Cha Trời - Mẹ Đất là một tín ngưỡng dân gian , có trước cả khi Phật gíáo ra đời. Phật lịch năm 2011 là 2555, như vậy không có nghĩa là 2555 năm trước không có Phật.
Việc hiểu và cảm nhận về đức Phật Địa Mẫu như thế nào là do phước báu của từng con người, tuỳ cơ địa của từng người mà nhận biết. Ngay cả Báo Giác Ngộ là tiếng nói của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam cũng có bài giải thích sai lầm về Đức Mẹ Địa Mẫu : " Đọc xong Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu, tuy kinh được phát hành dưới dạng “lưu hành nội bộ” để ấn tống, không có tên người hoặc đơn vị chủ trương, không có tên nhà xuất bản nhưng chúng tôi vẫn xác định được rằng kinh này của ngoại đạo, không nằm trong danh mục kinh sách Phật giáo. Nội dung kinh tập trung giới thiệu sự tích, quyền năng và công hạnh của đức Diêu Trì Kim Mẫu (còn gọi Phật Mẫu Diêu Trì) cùng với những lời khuyến cáo tin tưởng, răn nhắc tu hành.
Theo Cao Đài Từ điển, soạn giả Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, Phật Mẫu là hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn (Ngọc hoàng Thượng đế) chưởng quản khí Âm quang và toàn thể càn khôn vũ trụ. Hết thảy vạn linh, tất cả sự sự vật vật đều do Phật Mẫu tạo ra. Phật Mẫu được tôn xưng với nhiều danh hiệu khác nhau như: Phật Mẫu (mẹ thiêng liêng của vạn linh và chúng sanh), Diêu Trì Kim Mẫu (vì Phật Mẫu ngự tại cung Diêu Trì), Kim Bàn Phật Mẫu (vì chưởng quản Kim Bàn - nơi Phật Mẫu dùng chứa các nguyên chất để tạo Chơn thần cho con người nơi cõi thiêng liêng), Cửu Thiên Huyền Nữ (Phật Mẫu ngự tại từng thứ 9 trong Cửu trùng thiên), Mẹ thiêng liêng, Đại từ mẫu, Thiên hậu, Địa mẫu, Mẹ sanh.
Phật giáo luôn tôn trọng các tín ngưỡng và tôn giáo khác. Tuy nhiên, Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu sử dụng rất nhiều yếu tố Phật giáo, có thể khiến cho những người Phật tử sơ cơ nhầm lẫn đây là kinh Phật nên chúng tôi phải miễn cưỡng bàn luận. Trước hết, bìa kinh in hình Diêu Trì Kim Mẫu rất giống hình Bồ tát Quán Thế Âm, lại ghi Phật lịch 2552, khá giống với quy cách của kinh sách Phật giáo. Thứ đến, phần mở đầu Nghi thức tụng kinh Địa Mẫu có đủ các chân ngôn của Phật giáo như: Tịnh pháp giới, Tịnh tam nghiệp, Phổ cúng dường. Phần xướng lễ Phật-Pháp-Tăng, tuy nội dung không phải là kính lễ Tam bảo của Phật giáo nhưng cũng khiến cho những người chưa mấy am tường về Tam bảo nhầm lẫn. Đặc biệt Phật A Di Đà và Phật Di Lặc (hai vị Phật quá khứ và tương lai của Phật giáo) cũng được kinh này xưng danh hiệu và kính lễ.
Nhất là sau phần chánh kinh (Địa Mẫu chơn kinh, Địa Mẫu diệu kinh), đến xướng lễ Lạy Địa Mẫu (tr.63-64, sđd) có đoạn: “Nam mô Địa Mẫu ân độ sanh vô lượng/Ân bảo trì cứu tử lại vô biên/Mẹ của nhân gian, mẹ Thánh mẹ Hiền/Hàng Phật tử chúng con nguyền ghi nhớ” (lạy 1 lạy) và “Nam mô Địa Mẫu xin mẹ ban ân lành/Cho Việt Nam Phật giáo thịnh hành/Được tôn nghiêm mầu nhiệm với viên thành/Cho con mẹ bốn phương đều kính mẹ” (lạy 1 lạy). Ở hai đoạn này có hai từ quan trọng là “Phật tử” và “Việt Nam Phật giáo” đã đề cập trực tiếp đến Phật giáo Việt Nam. Thiết nghĩ, trong kinh điển Phật giáo không tôn thờ vị Phật hay Bồ tát nào tên Địa Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu) cả. Ở đây có một sự gán ghép hết sức khiên cưỡng, thiếu thành ý và không thể chấp nhận của người biên soạn Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu.
Quan trọng hơn, Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu đã sử dụng nguyên văn Tâm kinh Bát nhã (tr.66, sđd), thần chú Vãng sanh lồng ghép, chắp nối vào nhằm lạc dẫn người đọc là kinh Phật. Tiếp theo sau thần chú Vãng sanh, bài Xưng tán có đoạn: “Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán/Đấng Mẫu nghi vô lượng lợi sanh”. “Chúng Thích tử” là một thuật ngữ Phật giáo, chỉ cho Tăng Ni và Phật tử đệ tử của Đức Phật. Và rõ ràng ngay trong lời quy nguyện đầu tiên, “Quy y Phật không quy y trời, thần, quỷ vật” nên “chúng Thích tử” không ai kiền thành xưng tán “Đấng Mẫu nghi” cả.
Như vậy, dù Tuyển tập kinh - Kinh Địa Mẫu chỉ lưu truyền dưới dạng “lưu hành nội bộ” nhưng tác giả kinh này khi biên soạn đã có chủ ý lợi dụng kinh Phật và ảnh hưởng Phật giáo để chiêu dụ những Phật tử sơ cơ. Do đó, hàng Phật tử không nên đọc tụng, lưu hành và ấn tống kinh này. Mỗi khi gặp những kinh lạ, hàng Phật tử phải thỉnh ý chư Tăng Ni duyệt lãm trước khi đọc tụng, hành trì để tránh lầm lạc, rơi vào tà kiến và những hậu quả đáng tiếc.
Chúc bạn tinh tấn!
TỔ TƯ VẤN
http://www.giacngo.vn/tuvan/2009/07/27/734602/"

Thật đáng tiếc cho một hiểu biết hời hợt và nông cạn đến như vậy của "những vị lãnh tụ tinh thần" của Phật Giáo ngày hôm nay. Các bạn nên thấy rằng , không chỉ riêng Phật Giáo mà nhiều Đạo Giáo khác khi truyền bá vào Việt Nam đều có sự dung hoà với tín ngưỡng bản địa của Việt Nam. Ngay như bản thân Đạo Phật cũng dung hòa rất nhiều lý luận của Đạo Hindu ( tiếng Phạn: sindhu, tiếng Ba Tư: hindu, tiếng Hy Lạp: Indós), nhưng chắc rằng không một ai dám nói rằng " sử dụng rất nhiều yếu tố Phật giáo, có thể khiến cho những người Phật tử sơ cơ nhầm lẫn đây là kinh Phật nên chúng tôi phải miễn cưỡng bàn luận" - " nhưng tác giả kinh này khi biên soạn đã có chủ ý lợi dụng kinh Phật và ảnh hưởng Phật giáo để chiêu dụ những Phật tử sơ cơ. Do đó, hàng Phật tử không nên đọc tụng, lưu hành và ấn tống kinh này"Híc.Thật hết biết.
Ngay cả "những vị lãnh tụ tinh thần" của Phật Giáo ngày hôm nay vẫn còn chấp như vậy, nên dienbatn cũng không bàn luận gì thêm về ý kiến của những người đọc bài này. Ai ăn người ấy no -Ai tu người đó chứng. Tuy nhiên , dienbatn cũng xin gửi đến các bạn một vài ý kiến để các bạn có thể tham khảo và tự mình chứng đắc.
1/ Một người bạn rất thân của dienbatn : " Em đã đọc bài này và có một vài cảm nhận như sau:
1. Chuyện tâm linh có thể nói LINH TẠI NGÃ, BẤT LINH TẠI NGÃ, Phật, Thánh ở tại tâm của ta, Ngài giáng trần hiển linh ở rất nhiều hình thái.
Em nghĩ ở những bậc chân tu sự hiện diện đó toàn diện hơn, đầy đủ hơn. Nhưng thời loạn lạc này Thần Phật giáng trần ở nhiều dạng thức hơn, nhiều hình thái hơn nhằm cứu chúng sinh qua cơn bĩ cực. Vậy mới có chuyện mà họ gửi anh.
Về tâm linh, những cái đó là có thực, nhưng minh định là vị nào về, về lúc nào, như thế nào là một câu chuyện khá phức tạp và cần kiểm chứng thật kỹ lưỡng.
Theo em, các Ngài về chỉ bảo đường tu tập, hướng đạo, định hướng cho hành xử đối với một số người nào đó có căn duyên là điều hoàn toàn có thể xảy ra, tuy nhiên, phàm là con người còn nặng căn quả, việc các Ngài giáng linh về với những ảo giác của chính người đó đôi khi bị đánh đồng lẫn với nhau. Các dạng thức, tâm thức đó có thể diễn ra liên hoàn, liên tục và làm cho người ta có thể có những nhìn nhận chưa chắc đã đúng về sự việc. Cũng khó mà có ai đủ công phu tu tập mà nhận thức rõ lúc nào Ngài giáng, khi nào Ngài thăng, vậy nên có thể khi Ngài thăng rồi mà bản nghã, tâm tưởng của người trần mụ mị cứ thăng hoa mà nghĩ mãi là Ngài vẫn ngự, lời người trần nói đôi khi lại được cho là lời Thánh Nhân nói.

2. Trong câu chuyện có nhiều tình tiết chứa đựng khá nhiều ý chí chủ quan của những thành viên trong gia đình. Có hai, thậm chí là ba dạng tâm thức nhập vào người nhà họ cần quan tâm:
a. Bậc Thánh Nhân; các bậc hộ bộ của Đức Phật lai giáng vào họ..
b. Các vong về nhập vào họ;
c. Chính bản thân họ bị huyễn hoặc về một đối tượng nào đó đang ở trong mình.
Khi mình là mình, tức là mình chủ động nhìn nhận sự việc, tin nhưng không mê thì mình sẽ hành xử đúng đắn, không bị ma đạo làm hại, quấy nhiễu, vì ma đạo xâm nhập được vào thần thức ta chính khi mà tâm ta giao động, ta không làm chủ được thần thức của mình, phải vậy chăng?
Em nghĩ gia đình nhà đó cũng đặc biệt. Có thể trong nhà có những thành viên có linh căn nên có người cõi Trên về chỉ bảo cho đường tu tập phù hợp với căn duyên của họ từ tiền kiếp. Chính căn quả kiếp trước của họ và những duyên lành ở kiếp này cho họ có được một số khả năng nhất định, và đặc biệt khai mở cho họ có những mối giao cảm được với thế giới âm nên mới có hiện tượng gặp được người nhà của họ như thế (nhưng chưa xác thực có gặp được người âm bất kỳ như thầy đồng hay không). Việc gặp gỡ người nhà như thế có thể có cái lợi là: con cháu được nghe lời chỉ bảo, dạy bảo của tiền nhân, nhưng nếu như si mê lầm lẫn có thể hoang tưởng và chuyển sang mê tín – tự họ nghĩ ra cứ suy diễn là tiền nhân dạy bảo, chỉ bảo thế, nếu có một số hiện tượng ngẫu nhiên trùng lặp xảy đến phù hợp với suy luận của họ rất dễ làm cho họ trở nên mê mị hơn anh ạ. Có thể khi đó các cụ không về mà họ cũng tưởng là các cụ về (như là các bậc Thần Phật hiển linh có kỳ thôi nhưng khi được chứng họ lại mê mị và khó tự chủ được là khi nào các Ngài giáng hạ…) nên có thể nói chưa đúng, chưa chuẩn (theo nhận định chủ quan của họ).
Em nghĩ, là con người trên biết kính trọng Trời Đất, Phật Thánh, gia tiên, dưới ăn ở thuận hòa nhân đức với nhau, hành động phù hợp với luật Người Nhân – Quả thì sẽ không phạm vào luật Trời Đất. Nếu do vô tình, vô minh mà chưa trọn đạo nhưng có căn tu tập tốt sẽ được Phật Thánh gia trì mà chỉ bảo cho con đường đạo mà tu tiếp.
Việc trong nhà âm dương có thể có ý nọ ý kia nhưng vẫn không ngoài các chữ HIẾU – ĐẠO – NHÂN – NGHĨA. Cứ lấy những cái đó mà soi đường thì chả sợ đi lạc lối phải không anh. Ông bà cha mẹ khi mất đi cũng phải tu tập tiếp chứ không vì mấy chuyện cỏn con trần tục mà làm những điều bậy bạ chỉ để mong phù hộ cho con cháu giàu thực giàu, sang thực sang, cũng chả có cụ nào hại con hại cháu cả.
Cũng có thể con cháu sẽ cảm thấy hoang mang không biết mình làm cái này, cái kia, thờ cúng vậy đã đúng chưa… nhưng nếu có duyên, dù làm chưa đúng sẽ có nhân duyên được người biết chỉ bảo cho, hoặc có những sự kiện làm cho mình tự nhiên lĩnh hội được một số kiến thức mà làm cho đúng. Ngay kể cả khi việc thờ phụng thực sự chưa đúng nhưng con cháu có tâm các cụ vẫn chứng cho như thường.

Chuyện họ viết lại khá dài, nhưng tựu trung lại có mấy vấn đề này:
1. Phật Thánh có giáng trần truyền đạo không? Có, điều này hoàn toàn có thể xảy ra – nhưng cụ thể như thế nào cần phải nghiên cứu thực kỹ xem liệu bản thân của người có căn duyên có đủ công phu mà phân biệt khi nào Ngài giáng, khi nào Ngài thăng không? Ngài giáng thì ban độ những gì??? Và làm thế nào để duy trì được mãi khả năng này?? Làm gì để hiện tượng này thực sự mang lại phúc đức cho nhà họ, sự hiển linh kia được nhìn nhận đúng để truyền bá rộng rãi đức tin cho các Phật tử vào Phật Pháp và sự nhiệm màu của Phật Pháp?
2. Gia tộc nhà họ có căn duyên mà linh ứng báo cho con cháu biết trước các sự việc huyền cơ hay không? Có thể có, nhưng không phải là toàn bộ những huyền cơ đều lộ được vì bản thân họ cũng chỉ là các vong, not Thần Thánh mà nắm được huyền cơ. Những gì họ chỉ dạy cho con cháu chưa chắc đã là của họ 100% mà có thể có khả năng là con cháu SÁNG TẠO ra do quá tín tâm mà trở nên thiếu tự chủ. Phải thế chăng? Và nếu thế thì nên làm gì để tránh được sự mê mị đó?
3. Quan trọng hơn nữa,. những hiện tượng trên dù có diễn ra, còn diễn ra thì làm sao để cuộc sống làm người ở cõi này không bị ảnh hưởng, bởi trước khi họ thực hiện sứ mệnh nào đó, họ vẫn là con người, có cuộc sống bình thường của một con người. Họ cần phải hành xử sao cho những khả năng của họ không làm ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại. MUỐN TU ĐẠO GIẢI THOÁT TRƯỚC HẾT HÃY LÀM TRỌN ĐẠO LÀM NGƯỜI, CHƯA TRÒN ĐẠO NGƯỜI THÌ ĐẠO TRỜI HÃY CÒN XA LẮM."

2/ Ý kiến của một độc giả : " Xin kính chào đại gia đình các Phật tử theo nhà Phật. Tôi là Thíchquangnhân, có thể đây là cái duyên của đại gia đình quý Phật tử chăng? và cũng có thể là cái duyên của Thíchquangnhân tôi được biết câu chuyện này.
Trước hết cho Thíchquangnhân tôi được có một vài cảm nghĩ thông qua câu chuyện mà quý vị đã đăng lên đây.
Cái điều đã đến với gia đình quý Phật tử được gia đình quý Phật tử đón nhận như vật thật đáng chân trọng.
Chỉ có thể là cái duyên mới được như vậy.
Xong quý Phật tử cũng phải hiểu rằng, đã là Duyên thì chỉ có thời hạn mà thôi. Vũ trụ luôn vận động luôn thay đổi...nên cơ hội để có duyên như thế còn phải dành cho những chúng sinh khác nữa.
Phật không đâu xa lạ cả, mà ở ngay trong ta đó thôi. Mỗi người đều có Đức Phật của mình.
Hãy giác ngộ chính mình, làm điều thiện, bỏ những thói hư tật xấu, giúp đỡ chúng sinh khi hoạn nạn. Sống có Đạo với đấng tối cao, có hiếu với tổ tiên, ông bà cha mẹ, có nghĩa có tình với anh em, làng xóm...
Đó chính là thiện căn mà đức Phật muốn chúng ta làm.
Các huynh cũng đừng cố gắng tìm những điều quá xa vời trong khi điều trước mắt các huynh không làm được. Vô tình các huynh đã đánh mất thiện căn mà người đã ban cho đó.
Để làm tròn kiếp của một con người là vô cùng khó, cả đời mấy ai được thế đâu, hãy cố gắng sống và gìn giữ cái ân huệ mà người đã ban cho ta được sống, nếm chải sự sung sướng, đau khổ...của kiếp người. Bởi chỉ khi có nếm chải được những điều đó thì con người chúng ta mới giác ngộ được.
Hôn nay, Thíchquangnhân tôi chỉ có thể nói chút ít coi như một ý kiến với quý phật tử như vậy. Hôm khác chúng ta sẽ cùng nói cụ thể hơn về câu chuyện của quý Phật tử đã đưa lên đây.
Thíchquangnhân xin chúc quý Phật tử an lành. "

3/ Một độc gỉa khác : " delete replybgone1969 wrote on Mar 10
Không có gì diễn tả được, đọc xong thấy cảm động quá, ngồi giữa văn phòng mà tôi cũng muốn khóc.... bgone1969 "

4/ " Gã khờ10:02 12-03-2011 .
Hahaha, sao lại như thế này rồi? Hôm nay dân Việt lại xuất hiện những chuyện mê tín đến cùng cực như thế này hay sao?"(
http://vn.360plus.yahoo.com/dzjao/article?mid=6543)

Còn cảm nhận của các bạn ra sao ? dienbatn sẽ xin cập nhật ý kiến của các bạn hàng ngày.
Thân ái. dienbatn.
MỘT CHÚT TƯ LIỆU TỪ " BỬU SƠN KỲ HƯƠNG" CỦA VƯƠNG KIM.
Nhìn vào nền Phật giáo khắp nơi, người ta không khỏi phàn nàn Đạo Phật có nhiều chi phái quá, nào là Tiểu-thừa, nào là Đại-thừa, nào là Mật-tông, nào là Hiển tông… mỗi phái mỗi chủ-trương khác nhau, mỗi nơi có mỗi sắc thái riêng biệt. Cũng đồng bắt nguồn từ Phật-giáo nguyên-thủy ở Ấn Độ thế mà Phật-giáo của Nam-tông khác hơn Phật-giáo của Bắc-tông và ngay trong hệ thống Đại-thừa, Phật-giáo Trung Hoa cũng không giống Phật giáo Nhật Bản. Phật giáo Đại Hàn khác hơn Phật-giáo Việt-Nam.
Người ta muốn sao Phật giáo phải được thống nhất cả hình thức lần tinh thần, xoá bỏ những đặc tính địa phương riêng biệt. Nhưng người ta quên rằng giáo-lý của Phật-giáo không phải là một thứ giáo điều cố định bất biến như giáo lý của các tôn giáo khác mà là một thứ giáo pháp luôn luôn phát triển theo thời gian, thích ứng với căn cơ và hoà hợp với thổ-nghi phong-tục của mỗi địa phương dân-tộc.
Đức Phật đã từ hoàn cảnh và căn khi của chúng sanh mà nói ra các pháp, không thời kỳ nào giống thời kỳ nào. Tri giả Đại-sư đã phân ra làm năm thời kỳ thuyết-pháp là:
1. Thời-kỳ Hoa-nghiêm; 2. Thời kỳ A-hàm; 3. Thời kỳ Phương-đẳng; 4. Thời kỳ Bát-nhã; 5. Thời kỳ Pháp-hoa. Đến như giáo pháp thì có pháp quyền, pháp thiệt, pháp đốn, pháp tiệm, pháp hiển, pháp mật… cao thấp khác nhau. Sở dĩ giáo pháp không đồng, thời kỳ hoằng hoá có khác, ấy chẳng qua là do hoàn cảnh sinh hoạt, căn cơ của chúng sinh mà ra vậy.
Thế nên, phàm căn cơ có khác, thời đại có khác, địa phương có khác thì lý ưng giáo pháp, cho được thích đương thế tất không sao cùng một khuôn, một rập. Ngay như việc dạy học, người ta còn tùy theo địa phương nóng lạnh, mưa nắng khác nhau, trình độ của học sinh cao thấp mà giờ học, ngày nghỉ cùng chương trình giáo dục mỗi nơi mỗi khác, thì sao đối với Đạo Phật là một nền đạo vô cùng linh động, phong phú nhựa sống thích nghi, lại bắt nó trụ mãi ở hình thái nguyên sơ cằn cỗi.
Ngày nay đạo Phật rọi ánh từ quang gần khắp mặt địa cầu, qui tụ gần phân nửa số nhân loại, nếu thiếu tính chất thích nghi hòa đồng thì chưa hẳn đã thu phục lòng tin tưởng của nhân dân dễ dàng như thế. Từ trước đến nay, bất cứ một cuộc chinh phục nào cũng phải cậy vào vũ lực uy hiếp mọi sự chống đối. Đến như Đạo Phật, chỉ nhờ tính chất thích nghi mà sự bành trướng không hề gặp phải sự phản kháng nào đến đỗi làm đổ máu sinh linh.
Các dân tộc Á đông tiếp đón Đạo Phật như tiếp đón một ngọn đèn vào nhà đang kém ánh sáng. Mặc dù là một ngọn đèn mới, nhưng chẳng vì nó sáng hơn mà chủ gia dẹp hết các ngọn đèn cũ kém sáng nhưng đã thân yêu, Người ta đặt ngọn đèn sáng mới nơi xứng đáng, có khi cùng đặt chug với mấy ngọn đèn cũ để cùng hoà quang nhau đem lại ánh sáng chung cho cả gian nhà.
Giáo pháp của Đạo Phật thẳng diệu là ở chỗ đó. Nó đến với dân tộc nào là nó hòa hợp với dân tộc tinh của dân tộc ấy.
Nhờ ánh sáng đó sáng hơn nên trong chỗ hoà hợp nó đồng hòa các ánh sáng cũ thành một ánh sáng Phật-giáo dân tộc hay có mang tính chất Phật-giáo . Sự hiện diện của nó, bởi cần thiết cho sự củng cố nền tảng quốc gia, vì nó đồng hoá để mà bổ sung hơn là để tiêu diệt hay truất ngôi, nên dân tộc nào cũng không cảm thấy bị mất gốc hay mất thể diện khi tiếp nhận nó.
Nhìn vào các nước Phật-giáo, ta thấy quốc gia nào cũng có những sắc thái Phật-giáo riêng biệt về hình tướng cũng như về hệ thống giáo lý. Đồng là Phật-giáo cả, nhưng mỗi nơi mỗi khác, khác từ sự kiến trúc chùa chiền đến lễ nghi trang phục. Những cái sắc thái riêng biệt ấy thích hợp với đời sống củaquốc dân, với cá tính của dân tộc. Do đó đạo Phật đã trở thành, ở các quốc gia Phật-giáo, một nền Phật-giáo dân tộc.
Như ở Nhật Bản, hòa hợp với Thần đạo và Vũ sĩ đạo, Phật-giáo đã trở thành một nền Phật-giáo Nhật Bản. Mặc dù chịu ảnh hưởng Phật-giáo Trung Hoa, các Đại đức Thiền sư Nhật Bản như Đạo Nguyên, Thân Lan, Nhật Liên đã biến Phật-giáo Trung Hoa thành Phật-giáo của dân tộc Nhật. Từ mái chùa cho đến chiếc áo cà-sa mỗi mỗi đều có những sắc thái khác biệt, phù hợp với cá tính Nhật Bản. Cũng thời là Thiên Thai tông nhưng Thiên Thai tông của Nhật lại hòa hợp với Mật. Thiền. Đến Tịnh độ tông và Thiền tông cũng thế. Ở Nhật hai tông ấy biến đi rất nhiều từ tinh thần lẫn hình thức. Nói tóm lại, đạo Phật một khi du nhập vào Nhật bản thì hòa hợp với tinh linh dân tộc Nhật mà có những sắc thái riêng biệt, không còn giống với thoát thai của nó là nền Phật-giáo Trung Hoa.
Đến như Phật-giáo Trung Hoa, tiếp nhận ngay Phật-giáo Ấn Độ, đáng lẽ không có biến thái nhiều, thế mà vì tính chất thích nghi nên đã cách tân từ việc tụng niệm trang y cho đến cách chia tông lập giáo. Có thể nói Phật-giáo Trung hoa là một nền Phật-giáo hoàn toàn xây dựng trên cơ bản mới, khác hẳn Phật-giáo nguyên thỉ.
Vả chăng sau ngày Phật nhập diệt độ khoảng 500 năm. Ấn Độ bị Hồi giáo xâm lăng, đạo Phật cơ hồ không còn. Những tăng ni theo giáo lý Tiểu thừa thì di cư xuống miền Nam, lập thành Phật-giáo Nam tông hay Tiểu thừa giáo; còn những học giả Đại thừa thì chạy sang Đông độ. Thành thử cõi Chấn Đán tức Trung Hoa đã trở nên tổ quốc của Đại thừa giáo. Cái hệ thống "Tổ tổ tương truyền" bắt đầu từ Đại đức Ca Diếp cho đến vị tổ thứ 28 thì chấm dứt ở Ấn độ, nhưng lại được tiếp tục ở Trung Hoa.
Chẳng những thừa tiếp giáo pháp Đại thừa vừa mới khai sáng nhưng chưa kịp phát triển ở Ấn độ, Trung Hoa còn chỉnh đốn các tông tổ thành hệ thống thích hợp với cả linh dân tộc và đồng thời sáng tạo thêm ba tông hoàn toàn Trung Hoa. Đó là: Hoa nghiêm tông, Thiên Thai tông và Thiền tông.
Trong sách Ẩm băng thất, khi đề cập đến sự thành lập các tông Phật-giáo ở Trung Hoa. Lương Khải Siêu có viết: "Về Câu xá tông, tuy Thế Thân có tạo một bộ luận được học giả Ấn Độ tranh nhau học tập, nhưng chưa chính thức lập nên một tông. Tông này được thành hình là chính tự Trung Quốc. Còn về Thành thực tông thì từ Ma lê bạt ma về sau không thấy Kinh sách nào ở Thiên trúc nói đến mà chỉ riêng ở Trung Quốc thì rất thịnh. Tam luận tông ở Ấn Độ tuy truyền bá hơi rộng nhưng cũng không bằng ở Trung Quốc. Đến như Hoa nghiêm thì bản Kinh ấy ở Ấn Độ đã chìm lặn trong chỗ mờ mịt. (cứ theo truyền thuyết thì sau Phật diệt độ 700 năm, Long Thọ Bồ Tát dùng thần lực nhiếp thủ Kinh Hoa nghiêm ở Hải long cung. Bản Kinh lưu hành là bắt đầu từ đó. Truyền thuyết thần bí này tuy chẳng đủ tin nhưng đủ thấy ở Ấn Độ tung tích Hoa nghiêm còn mờ mịt lắm). Thế thì làm gì có Hoa nghiêm tông ! Lúc Bấy giờ ở Ấn Độ chỉ có hai bộ luận: Đại bất tư nghị và Thập địa xiển minh nghĩa Hoa nghiêm còn kỳ dư thì không thấy đâu nói đến. Nhưng dựa vào Hoa nghiêm để lập giáo, thật ra chỉ bắt đầu từ các ngài Đỗ Thuận, Hiền Thủ, Thanh Lương, Khuê Phong. Cho nên có thể nói rằng Hoa nghiêm tông là do Trung Quốc trước tiên sáng lập. Đến như Thiền tông, tuy rằng Ấn Độ có 28 vị tổ, nhưng sự truyền nhau lại quá mật, giữa tiền tổ với hậu tổ chỉ trong khoảnh khắc, không thể biết được uyên nguyên cho nên việc chân ngụy hẳn khó mà phân biệt. Ấn Độ cho rằng chân nhưng trong khoảng hơn một ngàn năm, ngoài 28 tổ ra thì không có thể nói là có Thiền tông, ấy chẳng qua chỉ vì sau khi vừa nhận y bát thì vị tổ trước đã nhập diệt. Thành thử trong khoảng không hơn một ngàn năm ấy, chẳng từng có được 2 người cùng một lúc hoằng dương chính pháp Thiền tông. Như vậy có thể nói Ấn Độ không có Thiền tông cũng nên. Tuy nhiên, Phật-giáo nhờ có Lục tổ mà bắt đầu có Thiền tông , cũng như Gia tô giáo nhờ có Luther mà bắt đầu có Tàu giáo. Như pháp môn chỉ quán "Thiên Thai Tam muội" là đặc sáng của riêng Đại sư Trí giả; trước đó chưa có mà ngay trong thời của Đại sư cũng không ai dạy thì đủ rõ. Do đó có thể nói rằng trong mười tông, duy có Luật tông. Pháp tướng tông. Chân ngôn tông. Tịnh độ tông là thịnh hành ở Ấn Độ, còn ký duy là do Trung Quốc sáng lập."
Lương Khải Siêu còn khoái cảm hạ bút rằng: "Đẹp thay nước Trung Quốc của ta ! Chẳng thọ ngoại học thì thôi, bằng đã thọ thì phát huy rộng sáng ra, biến thành một thứ đặc sắc. Hãy nhìn vào nền Toán học và Phật học của nước ta đủ thấy. Phật học của Trung Quốc là phật học của Trung Quốc, chứ không còn là Phật học thuần nhiên của Ấn Độ ."
Ấy đó, Phật-giáo một khi du nhập vào Nhật bản và Trung Hoa thì hoà hợp với dân tộc tinh của mỗi nơi mà có những sắc thái riêng biệt, biến thành một nền Phật học dân tộc. Nước Việt Nam chúng ta cũng đồng thấm nhuần giáo lý Phật đà, một mặt trực tiếp du nhập từ Ấn Độ, một mặt gián tiếp chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, có lý nào chẳng gây dựng một nền Phật-giáo phù hợp với dân tộc tinh Việt Nam như Trung Hoa và Nhật Bản hay sao ?
Nhìn vào nền Phật-giáo nước nhà, chúng ta không đến đỗi thất vọng như khi nhìn vào đại hạt Nho học. Các danh tăng Việt Nam từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần luôn luôn cố gắng tạo cho Việt Nam một nền Phật-giáo dân tộc. Cũng thời tiếp nhận Thiền tông của Trung Hoa truyền sang, nhưng các danh tăng đời Trần đã thành lập một phái Thiền đặc biệt của mình, không khác Chân tông và Nhật liên tông ở Nhật. Đó là phái Trúc Lâm Yên tử do ba vị tổ: Điều ngự Giác hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang sáng lập. Bắt nguồn từ giáo lý Thiền tông nhưng phái Trúc Lâm Yên tử chủ trương có khác. Cho được hoà hợp chủng tính Việt Nam, phái Trúc Lâm xây dựng Thiền lý trên căn bản Nhập thế và Xuất thế, trong lúc ấy Thiền tông Trung Hoa chỉ thuần có một mặt xuất thế mà thôi. Nhờ có dung hợp cả hai phương diện Nhập thế và Xuất thế, đạo Phật đời Trần cũng như đời Lý gây được tinh thần sùng mộ đạo đức và tính khí thanh tao thoát tục, chẳng những trong dân gian mà cả trong hàng quan khanh vua chúa.
Một khi đã thấm nhuần Thiền lý, các vua quan nhà Trần, mặc dù lăn lộn trong chỗ quyền môn vẫn không mang nặng cái bệnh tham danh trục lợi. Thế nên, khi mọi việc an bày, có nhiều vị vua quan nhường ngôi cáo lão để đi tu. Nhờ đã hoàn thành giai đoạn nhập thế nên họ dễ tiến lên con đường xuất thế.
Đến như những danh tăng đã xuất thế, cũng không vì đã xuất thế mà chẳng trở lại nhập thế khi quốc gia hữu sự, dân chúng đảo điên. Trường hợp của Tuệ trung Thượng sĩ, khi nghe giặc Nguyên xâm lăng nước ta từ chốn Thiền lâm cởi áo ca sa mặc lấy chiến bào ra trận, và khi giặc Nguyên đã bình, bèn vứt chiến bào mặc lại áo ca sa, đủ cho ta thấy cái đặc tính dân tộc của phái Trúc lâm Yên tử. Nhờ kiêm cả hai phương diện nhập thế và xuất thế, Thiền tông Việt Nam còn dung hợp với Tịnh độ tông để cùng điều hòa và trợ trưởng nhau trong pháp tu vừa tự lực vừa tha lực.
Nhưng trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, tịnh thần Phật-giáo đời Lý đời Trần cùng theo thời gian mà mở dần trong dĩ vãng. Thừa lúc loạn loạc Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi tiếp theo thực dân đô hộ non một thế kỷ, tinh thần dân chúng hoang mang mất cả tự tin, những lối tu yếm thế, mê tín dị đoan pha màu phương thuật lại được dịp xây dựng cơ đồ, làm nền Phật-giáo dân tộc phải thối triều trong khoảng thời gian ngót năm thế kỷ.
Nhận xét về nguyên nhân suy bại của Phật-giáo ở xứ ta, ông Hoàng Nhiên có nêu ra mấy điểm trọng yếu:
1. Phái tăng già ở xứ ta phần nhiều tu mà không học
2. Người minh hay trọng sự lạy lục cúng dường theo lối mê tín dị đoan.
3. Không biết trọng sáng kiến của người khác.
4. Không biết giúp đỡ, tán dương người tài trí, nhà hiền giả, bậc chân tu.
5. Cố chấp về văn tự, theo tư tưởng Hán nho mà không rộng xem các sách khác (1)
Về nguyên nhân suy đồi Phật-giáo ông Thanh Sĩ cũng nhận rằng:
Cùng một cảnh huống đạo Khổng tử, đạo Phật Thích Ca ở xứ ta hồi thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần rất thịnh đạt, không những trong dân chúng mà luôn đến hàng vua chúa cũng cùng một tin tưởng mạnh mẽ. Các vua thời ấy, thường hay nhường ngôi cho con để đi tu, hoặc lên non núi lập chùa chiền qui tụ cả muôn tăng cả muôn tăng lữ lo viêc tu hành, hoặc xây cất am tự gần thành quách của mình để truyền bá đạo Phật, nhất là hồi thời nhà Trần vua Nhân Tôn tu được chứng quả, đạo hiệu của Ngài là Điều ngự Giác hoàng Đại Đầu Đà Người thời ấy tôn Ngài làm đệ nhất tổ của phái Thiền tông ở Việt Nam. Hàng quan tướng lúc bấy giờ xem gương của vua Nhân Tôn mà họ cũng lần lượt lánh rồi cuộc công danh phú quí lo tu hành rất đông, như con của Trần Quốc Tuấn là Trần Quốc Tảng. Lúc Trần Quốc Tảng mới mười bốn tuổi vừa đi học về nghe cha bị quân Nguyên vây tại thành Thăng Long thì ông mới nhất thân nhất mã ra giải vây cho cha. Chừng ông được hai mươi tuổi đã đi tu, ngộ được Phật chỉ đạo, hiệu của ông là Tuệ Trung Thượng sĩ. Còn những hạng tu hành chứng quả ở thời đó không kể xiết.
Nhưng kể từ khi các vị Tổ bên Trung hoa ngưng việc truyền y phó bát đến nay, phái Trần Tú càng lúc càng thêm mạnh, không những ở Trung Hoa mà còn truyền qua xứ ta, họ bày ra cách thờ cúng đầy thinh, âm, sắc, tướng (đờn, đẩu, trống, phách, lầu, phướn, sá hạc v.v…) làm việc hữu hình, hữu ảnh, dân chúng xứ ta dần dần theo đó mà xa lần mối đạo vô vi chánh pháp của Phật, Nền chánh giáo từ đó càng ngày càng mờ lu, các ngôi chùa miễu phần nhiều chỉ là cái vỏ để các tà sư làm mê hoặc thập phương, lợi dụng việc lo cơm ấm áo vậy thôi, chớ họ không chú vào việc dắt người đến chỗ sáng sủa giải thoát. Cũng bởi phần đông hành đạo không chánh đáng, nên cả ngàn muôn người tu mà chỉ có một số ít người đắc đạo; do đó mà gần đây có người lên án cho cảnh chùa là chỗ chứa những phần tử ăn bám của xã hội, chỉ là tổ chức mê hoặc lòng dân, không có tinh thần tiến hoá, thật là một con sâu làm rầu nồi canh.
Dầu vậy, tinh thần dân tộc vẫn không lịm hẳn trong Phật-giáo. Vào đầu thế kỷ thứ 19. Đức Phật Thầy Tây An xuất hiện lập nên giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương. Khai thị pháp môn Tu Nhân Học Phật, chẳng những khôi phục cái thịnh huống đạo Phật đời Lý đời Trần mà còn xây dựng lên một nền Phật-giáo hoàn toàn dân tộc. ....
Nhìn vào lịch sử Phật-giáo Việt Nam, chẳng sử gia nào không nhìn nhận rằng chẳng có thời kỳ nào đạo Phật hưng thịnh bằng đời Lý đời Trần. Trong nước từ quan chí dân đều một lòng sùng mộ việc tu hành, kẻ đủ điều kiện tu giải thoát thì xuất gia, người còn bận việc đời thì giữ phần cư sĩ.
Khắp nơi trong nước, cảnh già lam được nhiệt liệt dựng lên, ở mỗi gia đình, ngoài việc thờ phượng tổ tiên, còn có ngôi thờ Tam bảo. Có thể nói xã hội Việt Nam ở đời Lý đời Trần đã thấm nhuần tinh thần đạo Phật cả hai phương diện xuất thế và nhập thế.
Do đâu đạo Phật đời Lý đời Trần hưng thịnh hơn các triều đại khác? Hẳn phải có nguyên nhân? Nhiều sử gia cho rằng Việt Nam cho đến đời Lý, chủ quyền quốc gia mới thật điện định. Nhờ được trấn an bờ cõi, các vua quan đời Lý có đủ thì giờ lo nghĩ việc mở mang dân trí. Đương nhiên Phật-giáo cũng như Khổng giáo và Lão giáo là ba nền đạo đề cao nhân cách, đào dưỡng tinh thần hướng thượng của chúng sinh, hẳn được nhà cầm quyền vun bồi và trợ trưởng. Đó là cơ hội thuận tiện cho Phật-giáo hưng thịnh.
Xét ra thì sự nhận định trên đây chỉ dừng trên phương diện, ngoại duyên. Chớ chưa phải tìm động nhân chính. Thì như có một miếng đất tốt, thích hợp cho sự trồng tỉa mà ngay hột giống không tốt, không có sức phát triển thì cũng không làm sao có kết quả tốt đẹp. Miếng đất tốt chỉ là ngoại duyên, còn hột giống mới là nội nhân. Một nền triết học hay giáo lý cũng thế, mặc dù gặp hoàn cảnh thuận tiện cho sự phát triển nhưng nếu nội dung của nó không phù hợp với đời sống cùng trình độ của mọi người thì cũng không tài nào hưng khởi lên được.
Thế nên cái động nhân để làm phát triển một nền học thuật hay giáo lý, chính là những khả năng thích nghi sẵn có của nó. Thiếu những khả năng ấy thì dù hoàn cảnh có thuận tiện cũng không sao phát triển được.
Sở dĩ đạo Phật hưng thịnh nhất ở đời Lý đời Trần là cũng nhờ các danh tăng lúc bấy giờ biết làm phát triển cái khả năng thích nghi sẵn có của đạo Phật để được phù hợp với dân tộc tinh và cơ duyên của chúng sinh trong nước. Thay vì mô phỏng mù quáng theo các danh tăng dời Lý đời Trần khéo biến Thiền tông Trung Hoa thành một môn Thiền Việt Nam, phối hợp tu xuất thế và nhập thế. Các Ngài Điều ngự Giác hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang đời Trần thành lập một Thiền phái hoàn toàn Việt Nam lấy tên: phái Trúc Lâm Yên Tử.
Với danh hiệu hoàn toàn Việt Nam, với pháp tu phù hợp với trình độ và căn tính của dân trong nước. thảo nào đạo Phật chẳng được phát đạt và toàn dân sùng mộ.
Chính cái nội nhân thích nghi của đạo Phật mới là cái động cơ chính làm phát triển đạo Phật khắp nơi. Đó chẳng phải là cái thông lệ riêng của Việt Nam mới có, mà bất cứ ở nơi nào, nếu người đứng ra hoằng dương giáo pháp biết làm phát triển cái nội nhân thích nghi ấy cũng đều thâu hoạch kết quả như thế.
Thử lấy Thiền tông để chứng minh, ta sẽ thấy ngay ở Ấn Độ là nơi xuất phát Thiền tông ; nhưng chính ở đấy trong khoảng thời gian một ngàn năm, Thiền tông chưa lập thành hẳn tông phái. Mãi khi du nhập vào Trung Hoa, các danh tăng cõi Chấn dân, biến nó thành một môn Thiền Trung Hoa, gây nên một thịnh huống vô cùng náo nhiệt mở rộng khắp nơi trong nước, đâm chồi nảy tược ra làm ngũ gia thất tông, Ngũ gia là: Lâm tế, Tào động, Qui Ngưỡng, Vân môn và Pháp nhãn, Về sau phái Lâm Tế có thêm hai chi Dương Kỳ và Hoàng Long; do đó mới gọi là Ngũ gia Thất tông.
Đến như Thiền tông ở Nhật Bản, mặc dù do hai Ngài Vĩnh Tây và Đạo Nguyên cầu pháp ở Trung Hoa, nhưng khi du nhập vào Nhật lại dung hợp với Thần đạo và Võ sĩ đạo lập thành một Thiền phái hoàn toàn Nhật Bản. Nhờ thích ứng với dân tộc tinh Nhật, Thiền tông phát triển rất mạnh ở đảo Phù tang và sau hai Ngài Vĩnh Tây và Đạo Nguyên, còn phân ra khá nhiều chi phái, giáo nghĩa thêm đủ dầy, lợi ích càng sâu rộng.
Cứ xem đó thì một nền giáo lý cho được phát triển, cái động cơ chính là các nhà truyền giáo phải biết làm cho thích hợp với dân tộc tinh và trình độ của dân trong nước. Cái nguyên nhân giúp cho đạo Phật hưng thịnh ở đời Lý đời Trần chính là ở chỗ đó.
Các danh tăng Việt Nam đã biết phối hợp đạo Phật với dân tộc tinh nên gây được lòng sùng mộ của toàn thể nhân dân, nhưng cái thịnh huống ấy không thể duy trì lâu dài, khi cuộc Nam Bắc phân tranh nổi lên và tiếp theo đó dẫn khởi cuộc đô hộ của quân Pháp, khiến cho tinh thần dân tộc phải một phen tiềm tàng, cơ hồ mai một.
Trong những lúc hỗn loạn làm xáo trộn cả giá trị tinh thần, chính là lúc rất thuận lợi cho các mê tín dị đoan nảy mục đâm chồi. Lịch sử Trung Hoa đã chứng minh rằng vào đời Lục Triều và Tam Quốc, trong nước không dứt loạn lạc, chính là lúc phái phương sĩ, một biến thể của đạo Lão phát triển mạnh mẽ nhất. Hoàn cảnh xã hội Việt Nam sau đời Hậu Lê cũng diễn ra những cảnh huống loạn lạc tương tợ Phái Trúc Lâm Yên Tử không sao tránh khỏi cảnh suy vi thất lạc, trong lúc tư tưởng của dân trong nước đang thối triều. Ban sơ Thiền phái Việt Nam chưa suy lạc cho lắm, nhưng trải qua một thời gian hàng mấy trăm năm loạn lạc, các tập tục mê tín ngoại lai thâm nhập càng nhiều làm cho bản chất thuần lý phù hợp với dân tộc tinh phai lạc đi.
Nay muốn trấn hưng đạo Phật, tất phải làm sống lại tinh thần dân tộc. Nếu mãi nô lệ ngoại quốc, cứ nhất nhất mô phỏng những điều chỉ thích hợp với nước người mà không chịu áp dụng đúng với tinh thần dân tộc và phù hợp với căn cơ của dân trong nước thì những giáo lý ấy dù có được tiếp nhận chăng nữa cũng không gây được sự ngưỡng mộ nồng nhiệt của toàn dân. Một giáo lý thiếu tinh chất thích nghi là một giáo lý cằn cỗi ngưng đọng, mất bản tính chất Phật giáo.
Ý thức được cái động nhân tiến triển của đạo Phật, nên chỉ khi ra đời Đức Phật Thầy Tây An không đạp theo dấu của các nhà sư lúc bấy giờ chỉ biết bắt chước và tai hại hơn nữa là Ấn Độ tùng xướng khởi lối tu mê tín dị đoan của Thần Tú. Để đề khởi tinh thần Phật-giáo đời Lý đời Trần. Ngài noi gương các vị tổ của phái Trúc lâm Yên tử mà sáng lập một tông phái phù hợp với dân tộc tinh Việt Nam và tương xứng với trình độ của dân chúng trong thời kỳ mạt pháp. Ngài thành lập phái Bửu Sơn Kỳ Hương và xướng xuất pháp môn Tu Nhân học Phật.
Bửu- Sơn Kỳ- Hương là một tông phái hoàn toàn Việt Nam. Kiểm điểm các danh tông của Phật giáo Ấn độ và Trung Hoa hay bất cứ nền Phật-giáo của một nước nào ta thấy Bửu- Sơn Kỳ- Hương là một danh từ đặc biệt Việt Nam, không có trùng tên hay trùng ý với một tông phái nào khác.
Nước Trung Hoa lấy làm hãnh diện về sự sáng lập Thiên thai tông là một tông hoàn toàn Trung Hoa, thiết tưởng chúng ta cũng không đến đỗi thiếu sáng kiến hay tự ty mặc cảm khi có tông phái Bửu- Sơn Kỳ- Hương. Nhật Bản tự hào có Nhật liên tông một đặc sáng Nhật Bản nhưng thật ra Nhật liên tông chẳng qua là một thoát thai của Thiên thai tông Trung Hoa, do Thượng tọa Nhật Liên, sau một thời gian tu tập bên Trung Hoa trở về nước sáng lập.
ến như Bửu- Sơn Kỳ- Hương thì không thế. Nó chẳng những Việt Nam ở danh từ màcòn phù hợp với dân tộc tính Việt Nam ở phương diện hành đạo. Có thể nói Bửu- Sơn Kỳ- Hương là hoá thân hay hậu thân của Trúc Lâm Yên Tử, nhưng có điều khác hơn Trúc Lâm là Bửu- Sơn Kỳ- Hương, cho được phù hợp với căn cơ của chúng sanh trong thời kỳ Hạ Nguơn mạt pháp, không còn là một thiền phái chú trọng nhiều về mặt xuất gia và chủ trương vừa xuất thế và nhập thế, mà là một tông phái trú trọng về cư sĩ tại gia và chủ trương chỉnh bị giai đoạn nhập thế để tiến dẫn đến xuất thế. Sở dĩ Bửu- Sơn Kỳ- Hương về pháp môn hành đạo có chỗ không giống Trúc Lâm Yên Tử, chẳng qua vì căn cơ của chúng sinh và hoàn cảnh của thời kỳ có khác. Nhưng trên phương diện dân tộc và sự phấn phát đã đem lại cho nền Phật-giáo Việt Nam thì Bửu- Sơn Kỳ- Hương không khác Trúc Lâm Yên Tử
LySoViet SưuTầm
 
Bên trên