@loicong:
Xin hỏi...Tang môn ở cung tài bạch nói lên điều gì?
Chủ về lo lắng về tiền bạc, tang ở tài thì mệnh có tuế phá, quan điếu khách. Một người bất mãn, sinh bât phùng thời.
Lão giải thích như vậy hơi "ngắn" quá hôn? Hậu bối xin chứng minh một số lá có Tang cư tài..từ cổ đến kim đây:
1/ Cô bé này con của bà đại gia kinh doanh hột xoàn ngàn tỷ...tương lai hưởng hết tài sản của hai bên nội ngoại..
2/ Trương Chi Đỗng, nam mạng sinh ngày mùng 3 tháng 8 năm Đinh Dậu (1837) giờ Ngọ, Thiên Phủ thủ mệnh tại Mão, Thiên Tướng ở Mùi chiếu về, Tả Hữu Khôi việt hội tụ, chủ phú quý. Giữ chức Vụ Trưởng Dương Vụ Phái cuối đời Thanh, nhậm chức Hàn Lâm Viện Thị Giảng Học Sĩ, Nội Các Học Sĩ, Tuần Phủ Sơn Đông, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, Tổng Đốc hồ quảng, Quân Cơ Đại Thần.
3/ Nam mạng, sanh ngày 16 tháng 10 năm Canh Tý (1960) giờ Tị, mệnh tại Ngọ có Thái Dương Hoá Lộc, Thiên Hình đồng cung, thiếu Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc cũng như không có các cát tinh hội hợp, đã vậy Thân Mệnh còn phạm Thiên Không, Địa Kiếp, cho nên mức độ giàu sang bị hạn chế. Tuy vậy, nhờ được du học tại Mỹ, đã lấy được bằng Bác Sĩ ngành Y học, hiện trở về nước và là bác sĩ phẩu thuật của một bệnh viện lớn của thành phố, cả danh và lợi đều rực rỡ.
4/ Tăng Quốc Phiên, sanh ngày 17 tháng 10 năm Tân Mùi (1811) giờ Tuất, Thiên Lương thủ mệnh tại Sửu, Tả Phù Hữu Bật đồng cung tại mệnh, giáp Xương Khúc, Nhật Nguyệt đều sáng sủa hợp chiếu, Quyền Lộc hội hợp, cho nên là cách đại quý.
5/ Minh Triều Hiếu Tông Hoằng Trị Hoàng Đế,sanh ngày mùng 3 tháng 7 năm Canh Dần (1470) giờ Tý (xem Tam Mệnh Thông Hội), cung Mệnh tại Thân có Thất Sát, Lộc Tồn, Tài Bạch , Phúc Đức có Tả Hữu, Xương Khúc giao hội, lên ngôi năm Đinh Mùi (1487) băng hà năm Ất Sửu (1505) tại ngôi vị được 18 năm.
6/ Trương Cư Chính,nam mạng, sanh ngày mùng 3 tháng 5 năm Ất Dậu (1527) giờ Mão (xem Thông Mệnh Tam Hội), 58 tuổi mất nhằm năm Nhâm Ngọ. Cự Môn Thiên Cơ đồng thủ mệnh tại Mão, Hoá Lộc cùng với Lộc Tồn đồng cung, tam phương tứ chính không bị hung sát xâm hại, cho nên đây là mệnh đại quý. Trương Cu Chính là chính trị gia, cải cách gia vào đời Minh. Gia Tĩnh Tiến Sĩ, năm Đinh Mão (1567) sau khi Mục Tông chết, ông hợp mưu cùng Thái Giám Phùng Bảo, đuổi Cao Củng, nhân danh thủ phụ, [Tên quan. ◎Như: quan sư, quan bảo, quan nghi, quan thừa gọi là tứ phụ (nghĩa là các quan giúp đỡ ở hai bên mình vua vậy).] năm đầu Thần Tông còn nhỏ, việc nước đều do ông chủ trì, quan tâm cải cách, được mưới năm. Đó là lúc triều đình suy yếu, tài chánh phá sản, nông dân nổi lên khởi nghĩa, Trương Cư Chính lấy câu: "Đắc đạo tức trảm" (bắt được giặc cướp lập tức xử chém) để làm lý do trấn áp cuộc nổi dậy, cùng lúc tiến hành một chút cài cách, thanh tra địa chủ che dấu đất đai, soạn ra luật "Nhất Điều Tiên Pháp" để sửa đổi chế độ thuế, khiến cho tình trạng tài chánh của Minh Triều thời bấy giờ được cải thiện, ngoài ra còn cắt giảm những quan lại không cần thiết, giảm bớt chi tiêu, dùng danh tướng Thích Kế Quang để huấn luyện quân sự, tăng cường phòng ngự Mông Cổ ở biên giới phía Bắc, dùng Phan Quý Tuần trong việc khơi thông sông Hoài (chảy ngang qua ba tình Hà Nam, An Huy và Giang Tô), tất cả đều thành công hữu hiệu.